Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận cho học sinh trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.03 KB, 63 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm
Văn nghị luận có vai trò hết sức quan trọng trong sống xã hội cũng như
trong nhà trường. Thông qua các bài làm văn nghị luận, học sinh có điều kiện
phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, các em có dịp thể hiện năng lực tư
duy, cảm thụ và năng lực lập luận của mình. Đây cũng là những yêu cầu rất cần
thiết để các em làm hành trang bước vào cuộc sống.
Văn nghị luận nói chung có vai trò hết sức quan trọng như vậy, song trong
thực tế nhà trường phổ thông hiện nay phần lớn kĩ năng làm văn nghị luận của
học sinh còn rất kém, các em ít hứng thú trong việc rèn kĩ năng viết văn nghị
luận, trong các bài viết mắc khá nhiều lỗi. Một trong những lỗi bắt gặp ngay khi
mở đầu bài viết đó là các em còn lúng túng không biết làm thế nào để vào bài
cho nhanh mà vẫn đảm bảo đúng, hay và hấp dẫn. Quan tâm đến cách viết bài
của học sinh từ đó tìm ra các biện pháp, phương pháp hữu hiệu nhất giúp các em
hoàn thành bài viết của mình với kết quả cao nhất có thể là một việc làm có ý
nghĩa thiết thực.Mục đích chính yếu là nhằm rèn luyện nâng cao kĩ năng viết bài
văn nghị luận cho học sinh và góp phần vào nhiệm vụ chung của quá trình đổi
mới phương pháp dạy học văn.
Macxim Gorki cho rằng: “ Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu
đầu, cũng như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta
thường tìm nó rất lâu”. Làm việc gì cũng vậy, sự khởi đầu luôn khiến chúng ta
phải cân nhắc kĩ lưỡng trước khi bắt tay thực hiện công việc ấy đến kết quả cuối
cùng. Muốn có một bài văn nghị luận hay hoàn toàn không nằm ngoài quỹ đạo
của quá trình làm việc thông thường như đã nêu ở trên.
Sự khởi đầu của việc làm văn nghị luận là viết đoạn mở bài, còn được gọi
dưới cái tên như đặt vấn đề hay nêu vấn đề. Nhưng quả thực, việc khởi động này
cũng là việc khó khăn và gian nan nhất. Vì đoạn mở bài là căn cứ để đánh giá
bài làm có thu hút, sáng tạo và độc đáo hay không. Nằm ở vị trí đầu tiên trong
bố cục ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) của một bài văn nói chung cũng như
1
1




nghị luận nói riêng, đoạn mở bài thường tạo ấn tượng ban đầu về bài viết và
giúp người đọc cảm nhận trọn vẹn âm hưởng của toàn bài. Một đoạn mở bài gọn
gàng, mạch lạc sẽ thu hút được sự quan tâm của người đọc. Bên cạnh đó, nó
còn tạo thêm hứng thú cho chính người viết.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học môn Làm văn nhằm tăng cường tính thực
hành, phát triển tư duy logic và sự sáng tạo độc đáo của mỗi học sinh Trung học
phổ thông, từ đó giúp các em hình thành kĩ năng, kĩ xảo khi làm bài văn nghị
luận. Và mặc dù đã có trình độ tư duy phát triển cao cũng như kĩ năng viết văn
từ Trung học cơ sở nhưng các em vẫn mất nhiều thời gian thậm chí khó khăn khi
muốn viết được một mở bài trôi chảy tạo nên sự khơi thông mạch văn toàn bài.
Vì vậy, nhằm củng cố lại kiến thức lí thuyết Làm văn các em đã được học
từ Trung học cơ sở từ đó vận dụng một cách thành thạo vào việc thực hành, sách
Ngữ văn 12 cơ bản đã có một tiết đó là “ Rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài
trong bài văn nghị luận”. Yêu cầu bức thiết của việc viết đoạn mở bài một cách
nhanh chóng mà vẫn đạt yêu cầu nhằm giúp các em có tâm thế vững vàng trước
mỗi bài kiểm tra, bài thi học kì hoặc thi tốt nghiệp và thi đại học… Đặc biệt với
học sinh trường THPT Yên Phong số 2, trình độ nhận thức và khả năng diễn
đạt còn kém, phần mở bài đối với các em rất khó khăn và mất nhiều thời gian.
Vì vậy, người viết chọn đề tài: “ Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn
nghị luận cho học sinh Trung học phổ thông ” nhằm giúp các em học sinh có
tâm thế vững vàng trước mỗi bài kiểm tra, bài thi học kì hoặc thi trung học phổ
thông quốc gia
2. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiện
Làm văn là môn học ứng dụng, thực hành có tính chất tổng hợp nhất, đặc
biệt với văn nghị luận, trong đó văn bản nghị luận văn học không chỉ là loại văn
bản thông thường mà nó còn có tính nghệ thuật. Nghệ thuật thuyết phục người
đọc của văn nghị luận không chỉ nhờ lập luận chặt chẽ mà còn khéo léo trong
dẫn dắt của người viết.


2
2


Người viết mạnh dạn đưa ra một số phương pháp để rèn kĩ năng mở bài
cho học sinh mà từ trước đến nay phần lớn giáo viên ít quan tâm . Có chăng thì
giáo viên nói qua một cách nhanh chóng không quan tâm là học sinh hiểu và
nhận thức như thế nào .
Người viết chọn đề tài này trên cơ sở kế thừa và sáng tạo tất cả những
quan điểm đi trước nhằm nâng cao chất dạy và học cho giáo viên và học sinh.
Học sinh giảm bớt áp lực khi học và khi thực hành , giúp học sinh phát triển khả
năng sản sinh văn bản, nâng cao năng lực tư duy, năng lực khái quát tri thức
cũng như năng lực sử dụng ngôn ngữ ở mức chủ động sáng tạo. Chính vì vậy,
trên phương diện tìm hiểu lí thuyết của việc rèn kĩ năng viết đoạn mở bài cho
bài văn nghị luận, luận văn này cụ thể hóa tinh thần đổi mới phương pháp dạy
học trong nhà trường Trung học phổ thông để từ đó phát huy tính tích cực, chủ
động của học sinh trong hoạt động lĩnh hội tri thức về rèn luyện kĩ năng tạo lập
văn bản.

3
3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lí luận:
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
Ngôn ngữ học văn bản là một bộ môn chuyên nghiên cứu đặc điểm của

văn bản, kết cấu văn bản, các dạng thông tin của văn bản. Như chúng ta đều biết,
quá trình giao tiếp giữa người viết và người đọc là quá trình mã hóa (xây dựng)
văn bản, nói cụ thể ở đây chính là việc làm văn nghị luận trong nhà trường. Bởi
vậy, ngôn ngữ học văn bản được xem là một tiền đề lí thuyết quan trọng của
môn Làm văn. Viết đoạn mở bài là một phần của quá trình đó, chính vì vậy
chúng ta một lần nữa nhấn mạnh ngôn ngữ học văn bản là vấn đề lí luận đặc biệt
quan trọng.
Văn bản nghị luận cũng giống như các loại văn bản khác, đó là cấu trúc
gồm ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng mục tiêu thực dụng của văn bản
nghị luận lại nhằm nêu ý kiến đánh giá bàn luận sự việc nào đó trong đời sống
cũng như văn học nghệ thuật. Mục đích giao tiếp của văn bản nghị luận là nhằm
thuyết phục người đọc, người nghe hiểu, tin và đồng tình với ý kiến của mình
mà hành động theo những gì mà mình đề xuất. Do đó, văn bản nghị luận có đặc
trưng cơ bản về mặt cấu trúc ngữ pháp, ngữ nghĩa là có tính chất cân đối, chặt
chẽ giữa các phần trong văn bản, từng phần trong văn bản lại có chức năng riêng
phù hợp với mục đích thuyết phục người khác của văn bản nghị luận (tính hoàn
chỉnh, trọn vẹn của một văn bản). Thêm nữa, văn bản nghị luận nhằm thuyết
phục người đọc nên rất chú ý đến lí lẽ và cách lập luận, người viết phải có thái
độ và lập trường rõ ràng.

4
4


Căn cứ vào nội dung nghị luận, chia văn bản nghị luận thành hai loại:
Nghị luận xã hội và nghị luận văn học. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi
quan tâm đến cả hai loại trên song do điều kiện khách quan nên phần nhiều dẫn
chứng vẫn chủ yếu là văn bản nghị luận văn học dành cho học sinh Trung học
phổ thông, đặc biệt chú trọng trong mô hình của văn bản tối ưu.
1.2. Lí thuyết giao tiếp bằng ngôn ngữ

Một trong những quan điểm dạy học hiện đại là dạy tiếng theo quan điểm
giao tiếp. Giao tiếp được thực hiện bằng văn bản. Như vậy có thể nói rằng văn
bản là đơn vị giao tiếp cơ bản nhất của ngôn ngữ. Mặt khác, làm văn là sáng tạo,
sản sinh các loại văn bản. Từ đây, chúng ta nói thêm rằng: Làm văn chính là
sáng tạo, sản sinh các loại văn bản để giao tiếp. Việc dạy Làm văn chính là dạy
cách tổ chức giao tiếp bằng văn bản. Chúng ta nhận thấy một điều là việc Làm
văn có quan hệ với một lí thuyết khác bên cạnh lí thuyết về văn bản: Lí thuyết
giao tiếp ngôn ngữ.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ không đơn thuần chỉ nhằm mục đích thông tin
mà chủ yếu là quá trình tác động tới người nhận về nhận thức, quan điểm, thẩm
mĩ và hành động. Không có một văn bản nào chỉ nhằm mục đích thông tin thuần
tuý (hay nói chính xác hơn là rất ít những văn bản chỉ nhằm mục đích thông tin)
mà qua thông tin để nhằm mục đích nhất định. Khi dạy Làm văn cũng vậy, giáo
viên cần dạy cho học sinh thấy rằng viết bài bên cạnh việc đưa thông tin còn
phải chú ý lựa chọn thông tin đó để làm gì, nhằm đạt mục đích gì…Và nhằm
đưa người đọc vào vấn đề cần bàn là việc người viết phải chú ý lựa chọn nội
dung khi làm phần mở bài.
Một khâu quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc dạy tiếng theo quan
điểm giao tiếp là phải dạy học sinh lí thuyết cơ sở về đoạn văn (vì văn bản là
một hệ thống hoàn chỉnh gồm nhiều đơn vị liên kết với nhau tạo nên văn bản
hoàn chỉnh là đoạn văn). Từ đó, hướng dẫn các em phương pháp để thực hành
rèn luyện kĩ năng viết bài. Nói cách khác, dạy tiếng Việt và Làm văn là cung cấp
cho các em công cụ giao tiếp và rèn luyện kĩ năng giao tiếp.
5
5


Trong sáng kiến này, người viết chú trọng nguyên tắc hướng vào hoạt
động giao tiếp. Do vậy, đề xuất đề tài: “Rèn kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài
văn nghị luận cho học sinh Trung học phổ thông” tức là người viết muốn

hướng tới việc rèn luyện kĩ năng đặt vấn đề trong giao tiếp bằng văn bản (cả văn
bản nói và văn bản viết) cho học sinh Trung học phổ thông.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Về chương trình
Chương trình dùng làm cơ sở đề xuất phương pháp rèn kĩ năng viết đoạn
mở bài trong bài văn nghị luận của chúng tôi là chương trình Sách giáo khoa
Ngữ văn mới Trung học phổ thông. Người viếtdựa vào mục tiêu cần đạt và nội
dung kiến thức được quy định trong chương trình để định ra hướng đề xuất các
kĩ năng viết đoạn mở bài cho bài văn nghị luận.
Dựa vào mục tiêu chương trình, dựa vào kiểu bài nghị luận, cố gắng tạo
ra những hình thức để rèn kĩ năng viết đoạn mở bài. Nghị luận là một loại văn
chính được học nhiều trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông. Nó được ứng
dựng nhiều trong đời sống. Việc rèn luyện kĩ năng làm bài văn nghị luận nói
chung, kĩ năng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận nói riêng sẽ có tác dụng
góp phần đắc lực thực hiện mục đích của quá trình dạy văn.
Trong chương trình giảng dạy phân môn Làm văn ở Trung học cơ sở các
em đã có dịp làm quen với việc viết văn nghị luận. Tuy với mức độ đơn giản
song các em đã sơ bộ nắm bắt được bản chất các kiểu bài, đồng thời cũng rèn
luyện các thao tác cơ bản để làm văn nghị luận. Những vấn đề lí thuyết và thực
hành đã được rèn ở lớp dưới về bài văn nghị luận sẽ tiếp tục được củng cố, bổ
sung, nâng cao để hoàn chỉnh các tri thức về Làm văn. Cũng thông qua việc rèn
luyện này học sinh với khả năng lĩnh hội và tự sản sinh ra văn bản của riêng
mình sao cho phù hợp với mục đích, hoàn cảnh và điều kiện giao tiếp. Hơn nữa,
học sinh còn tự biết đánh giá, tự điều chỉnh cách hành văn để phù hợp với các đề
bài khác nhau của kiểu bài nghị luận nói riêng và xây dựng văn bản nói chung.
2.2. Về sách giáo khoa
6
6



Những vấn đề lí thuyết và thực hành kiểu bài văn nghị luận trong Sách
giáo khoa Ngữ văn và một số sách tham khảo vừa là những gợi ý vừa là những
định hướng cho việc đề xuất các kĩ năng cũng như cách xây dựng hệ thống bài
tập rèn luyện cho học sinh.
Kết quả khảo sát phần Làm văn về văn nghị luận trong chương trình Sách
giáo khoa Ngữ văn nâng cao Trung học phổ thông chúng ta tổng kết được như
sau: Lớp 10 có 5 tiết, lớp 11 có 9 tiết và lớp 12 có 12 tiết ,vừa học lí thuyết vừa
thực hành. Trên cơ sở những tiết dạy lí thuyết đã chú trọng nhiều hơn đến các
tiết luyện tập và thực hành nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức và viết bài
thuần thục, đạt hiệu quả cao.
Nhìn vào chương trình biên soạn bộ Sách giáo khoa Ngữ văn dành cho
lớp 10, 11, 12 như trên có thể nhận định một cách khái quát rằng văn nghị luận
ngày càng được “thay da đổi thịt”. Trong đó, chú trọng hơn vào quá trình luyện
tập, thực hành bên cạnh việc giảng dạy lí thuyết cho học sinh một cách logic và
ngắn gọn, dễ hiểu nhất.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Tình hình dạy học môn Làm văn ở các trường Trung học phổ thông:
Môn văn trong nhà trường tựu chung lại nhằm vào hai nhiệm vụ cụ thể
sau đây: Thứ nhất, trang bị cho học sinh những tri thức để hiểu được, hiểu đúng
các vấn đề văn học (bao gồm: Tác phẩm, tác giả, các giai đoạn văn học…). Có
nghĩa là góp phần tạo cho học sinh khả năng khám phá vẻ đẹp của tác phẩm văn
học trong việc tiếp nhận, cũng như năng lực biết đánh giá một cách đúng đắn,
khoa học các hiện tượng văn học đồng thời bước đầu nhận thức được quy luật
vận động của văn học trong lịch sử. Thứ hai, song song với nhiệm vụ trên là quá

7
7



trình giúp học sinh hình thành và phát triển khả năng sản sinh ra văn bản (nói và
viết).
Làm văn là môn học hướng tới nhiệm thứ hai này. Nó giúp học sinh hình
thành những kĩ năng cần thiết để làm được bài văn.
Từ khi có cải cách trong dạy và học môn Làm văn ở nhà trường Trung
học phổ thông, thì việc dạy lí thuyết nhằm rèn luyện kĩ năng cho học sinh được
quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt với phương châm lấy người học làm trung tâm giờ
dạy đã phát huy được vai trò của học sinh. Đây là đóng góp đáng kể cho bộ môn
Làm văn nói chung, giúp hình thành những kĩ năng cho học sinh khi làm những
văn bản phục vụ giao tiếp.
Chương trình làm văn được xây dựng khá quy mô, hệ thống như một
môn học hoàn chỉnh có mục tiêu, phương pháp dạy học riêng biệt. Trên cơ sở đó
đã biên soạn được bộ Sách giáo khoa và hệ thống tài liệu tham khảo tương ứng
phù hợp, bước đầu đáp ứng được việc dạy học của phân môn. Dạy học làm văn
đã kết hợp được việc hoàn chỉnh các tri thức về làm văn với nâng cao năng lực
tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ so với các cấp học trước cho học sinh. Về
phương pháp dạy học, chương trình cũng đã nhấn mạnh thực hành, hướng tới
thực hành giao tiếp và bước đầu có sự quan tâm.
Về phía giáo viên, vấn đề cấp thiết đặt ra là cần phải cải tiến phương pháp
giảng dạy . Những khuyết điểm phổ biến là coi nhẹ thực hành, còn giáo điều,
học vẹt, giờ lên lớp đơn điệu, giáo viên nặng về giảng giải và học sinh thì thụ
động nghe, ghi chép. Việc cải tiến phương pháp cần chú ý ba khâu chính để
khắc phục những khuyết điểm trên :
Chúng ta phải coi trọng việc rèn luyện, thực hành và hoạt động ngoại
khoá.
Chú ý phát triển năng lực, trí tuệ của học sinh.
Cải tiến phương pháp để giờ văn được sinh động, hấp dẫn.
2. Thực trạng viết đoạn mở bài trong bài văn nghị luận của học sinh
Trung học phổ thông:

8
8


2.1. Về phía người dạy(giáo viên)
Trên thực tế, qua khảo sát chất lượng dạy học môn Làm văn nói chung
chúng tôi thấy kết quả thu được chưa cao, giáo viên thường có tâm lí “ngại
ngùng nhất là dạy Làm văn”. Thậm chí có người còn gọi đây là môn học “Ba
K” : “Khó, khô, khổ”. Còn học sinh thường tỏ ra không có hứng thú khi học
Làm văn, nhất là phần văn nghị luận xã hội, các em thường có chung tâm lí
“biết rồi, khổ lắm, nói mãi”.Nếu như tình hình dạy học môn Làm văn nói chung
còn nhiều vấn đề cần trăn trở thì phần mở bài trong bài văn nghị luận nói riêng
còn rơi vào tình trạng thảm hại hơn rất nhiều. Phần này thường bị xem nhẹ và
không dành thời gian ôn tập hay rèn luyện. Chính vì vậy đã dẫn tới tình trạng có
rất nhiều bài văn mở đầu khô khan, lạc đề hoặc không tạo hứng thú cho người
đọc…
Nguyên nhân khách quan : Thứ nhất, những tài liệu nghiên cứu về phần
mở bài còn hiếm hoi, chưa có sự lưu tâm thoả đáng. Điều đó khiến cho quá trình
soạn giảng của giáo viên đối với phần này còn chưa sâu, sát; thứ hai, thời gian
phân bố giảng dạy của bộ môn Văn nói chung, làm văn nói riêng còn nhiều hạn
chế. Với các kiểu bài chỉ có một hoặc hai tiết giới thiệu khái quát và sơ lược
nghĩa là bao gồm cả phương pháp, kĩ năng được trình bày lồng vào lí thuyết kiểu
loại. Còn lại đa phần thời gian môn làm văn là dành cho các em học sinh viết
bài; giờ lập dàn ý, tìm hiểu đề thường không có, giờ trả bài thường không đủ
thời gian. Rõ ràng, giáo viên thấy học sinh chưa đáp ứng đủ từng yêu cầu với
mỗi phần trong bài hay toàn bài có cố gắng lắm cũng chỉ đi được những phần
trọng tâm (thân bài). Giáo viên khi hướng dẫn học sinh viết phần mở bài thường
chỉ giới thiệu rất sơ lược các nội dung phải trình bày. Đôi khi hướng dẫn học
sinh viết phần này, không ít giáo viên tỏ ra lúng túng khi phải chỉ ra những bước
cụ thể để viết được mở bài một cách thành thục. Cũng có những giáo viên tâm

huyết với nghề thì hướng dẫn học sinh một vài kĩ năng để viết phần mở bài
nhưng chủ yếu dựa vào chủ quan của bản thân mình, cốt sao giới thiệu được vấn
đề còn chủ yếu tập trung vào phần nội dung. Đây là một trong những nguyên
9
9


nhân quan trọng dẫn đến một thực trạng đáng buồn là rất nhiều học sinh tỏ ra rất
lúng túng khi viết văn, mắc nhiều lỗi sai trong văn bản thông dụng và số đông
học sinh tỏ ra sợ học làm văn.
Nguyên nhân chủ quan:Từ phía người dạy là thực tế một số giáo viên còn
coi nhẹ các giờ lập dàn ý, trả bài khiến cho học sinh không có thói quen sửa
chữa những lỗi còn hay mắc phải trong khi viết. Viết vãn là quá trình luôn cần
uốn nắn, chỉ dẫn để nâng cao kĩ năng, bởi “văn ôn, võ luyện”. Mặt khác, do
thiếu thời gian giảng dạy mà phần đông giáo viên tự bằng lòng với tư tưởng rằng
các em đã học ở lớp dưới các phương pháp này. Thêm nữa, một số giáo viên do
thói quen từ xưa đến nay coi phần mở bài đơn giản chỉ là sự gợi mở vấn đề.
2.2. Về phía người học (học sinh)
Các em không chú ý đến chức năng, nhiệm vụ của phần mở bài trong bài
văn, các phương pháp viết phần này thì lơ mơ. Từ sự thiếu hụt về kiến thức cũng
như thời gian giảng dạy phía giáo viên khiến các em học sinh cũng rơi vào tình
trạng không nắm vững được cách viết một mở bài thế nào là đạt yêu cầu chưa
nói đến hay và hấp dẫn. Đa số các em căn cứ vào nội dung có sẵn của đề bài để
viết mở bài cho bài văn của mình mà không hề sáng tạo hay tìm tòi cách viết
nào khác. Tình trạng học sinh kém về khả năng diễn đạt còn khiến cho việc viết
mở bài trở nên sơ sài, tẻ nhạt, rời rạc. Các em thường lúng túng khi làm bài,
hoặc khi làm bài thiếu đi tính cụ thể, cá thể. Các em chưa được hướng dẫn cách
viết cụ thể các dạng mở bài khác nhau, để có thể so sánh thấy được cái hay của
sự sáng tạo, cái hấp dẫn ở một mở bài hay.
Từ thực tiễn trên đây chúng tôi thấy cần thiết phải có phương pháp dạy

cũng như học bộ môn Làm văn cho xứng đáng với vị trí vốn có của nó. Khi đó
cũng cần có phương pháp phù hợp để dạy học sinh viết đoạn mở bài đạt yêu cầu
và hay.
3. Về văn nghị luận:
Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày những
ý kiến của mình bằng cách dùng lí luận bao gồm cả lí lẽ và dẫn chứng để làm rõ
1
10
0


một vấn đề thuộc về chân lí nhằm làm cho người đọc (người nghe) hiểu, tin,
đồng tình với những ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề
xuất.
3.1. Đặc trưng của văn nghị luận
Văn nghị luận phân biệt với văn sáng tác trên nhiều phương diện.Văn
nghị luận xây dựng trên cơ sở của tư duy logic, chứ không phải trên cơ sở của tư
duy hình tượng mang tính cụ thể – cảm tính như trong loại văn sáng tác. Nếu
trong văn sáng tác, những cảm xúc của tác giả và sự mô tả những bức tranh của
đời sống chiếm vai trò quan trọng nhất, thì chúng ta bắt gặp trong văn nghị luận
những vấn đề, những luận cứ, những lí lẽ, những khái niệm…là điều quan trọng
trước nhất. Văn nghị luận không làm nhiệm vụ mô tả đời sống (xã hội hay nội
tâm con người) mà nhằm nhận biết và phân tích đời sống bằng tư duy logic, nên
nó phải tuân thủ những quy tắc chặt chẽ của tư duy logic. Tuy thế, không nên
hiểu rằng văn nghị luận chỉ toàn là khô khan, trừu tượng, từ chối mọi cảm xúc
và hình ảnh ở đây là nằm trong hệ thống của tư duy logic, tuân thủ trật tự của tư
duy logic, chứ không phải là sự xây dựng hoàn chỉnh bức tranh về đời sống xã
hội.
Kết cấu của bài văn nghị luận là tuân theo trình tự của sự nhận thức và
khai triển một vấn đề trong tư duy logic, chứ không phải dựa theo mạch cảm xúc

(như trong loại trữ tình) hay cốt truyện là nhân vật (như trong loại tự sự) hoặc
theo diễn biến của xung đột (như trong loại kịch).
Ngôn ngữ của văn nghị luận là ngôn ngữ mang phong cách chính luận, nó
chú trọng đặc biệt đến sự chính xác và chặt chẽ vì mục đích của sự diễn đạt
trong văn nghị luận là phản ánh rõ ràng, chính xác quá trình tư duy để đạt đến sự
nhận thức chân lí cụ thể. Song ngôn ngữ chính luận cũng cần hấp dẫn, lôi cuốn
bằng từ ngữ có tính hình tượng và có sức biểu cảm, bằng sự biến đổi linh hoạt
của cách diễn đạt, của trật tự cú pháp chứ không chấp nhận sự khô khan và đơn
điệu, nhất là khi đối tượng nghị luận là các tác phẩm văn học nghệ thuật.

1
11
1


Làm văn nghị luận là một công việc, một yêu cầu rất trọng yếu của việc
học tập môn văn học trong nhà trường. Văn nghị luận giúp cho người học sinh
vận dụng tổng hợp các tri thức văn học và hiểu biết xã hội, rèn luyện khả năng
diễn đạt bằng ngôn ngữ và đặc biệt, giúp cho sự phát triển tư duy khoa học của
người học sinh. Văn nghị luận nêu ra những vấn đề tư tưởng và học thuật đòi hỏi
học sinh phải vận dụng những hiểu biết lí luận và thực tiễn để giải đáp, xây
dựng cho người học sinh có phương pháp tư tưởng đúng đắn để hiểu đúng và có
thái độ đúng trước các vấn đề đó, cũng tức là giúp cho việc chuẩn bị tiến tới
những hành động đúng đắn tích cực trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Nói
tóm lại, tập làm văn nghị luận là góp phần tích cực vào việc xây dựng và hoàn
thiện nhân cách của học sinh.
3.2. Loại, kiểu bài văn nghị luận
*Căn cứ vào nội dung nghị luận thì văn nghị luận được chia thành hai
loại:
Nghị luận xã hội: Là nghị luận về một vấn đề xã hội. Khái niệm xã hội

được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề thuộc mọi quan hệ, mọi hoạt
động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như chính trị, kinh tế,
giáo dục, đạo đức, môi trường, dân số…
Ví dụ:
Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về tác hại của rượu, ma tuý, thuốc lá đối
với con người.
Đây là loại đề nghị luận về một hiện tượng đời sống. Trọng tâm của đề
bài là khẳng định tác hại của rượu, ma tuý, thuốc lá đối với con người và đề xuất
biện pháp bài trừ các chất gây nghiện.
Nghị luận văn học: Là nghị luận về một vấn đề văn học như về một tác
phẩm, một tác giả, một trào lưu, một giai đoạn, một quan điểm văn học…
Ví dụ:

1
12
2


Đề bài: Phân tích hình ảnh Thúy Kiều qua đoạn thơ “Chị em Thúy Kiều”.
Qua đó nêu lên nhận xét của em về nghệ thuật tả người của thi hào Nguyễn Du
qua Truyện Kiều.
*Căn cứ vào cách thức nghị luận thì văn nghị luận được chia thành các
kiểu bài sau:
Kiểu bài chứng minh: Là kiểu bài trong đó người viết (người nói) dùng
dẫn chứng và lí lẽ để nêu bật sự đúng đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận.
Chứng minh là làm cho người ta thấy đúng mà tin theo.
Ví dụ:
Đề bài: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 có đoạn viết: “Không có một
hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học nghệ thuật trong việc xây
dựng những tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc đến nếp nghĩ, nếp sống của

con người”. Bằng hiểu biết văn học, hãy chứng minh.
Kiểu bài giải thích: Là kiểu bài trong đó người viết (người nói) dùng lí lẽ
và có dẫn chứng để làm cho người đọc (người nghe) hiểu rõ và tin vào sự đúng
đắn của vấn đề được đưa ra nghị luận.
Ví dụ:
Đề bài: Phải chăng “Cái chết không phải là điều mất mát lớn nhất trong
cuộc đời. Sự mất mát lớn nhất là bạn để cho tâm hồn tàn lụi ngay khi còn
sống?” (Noóc – man Ku – sin). Anh (chị) hãy giải thích về ý kiến trên.
Kiểu bài bình luận: Là kiểu bài trong đó người viết (người nói) bàn luận,
đánh giá một vấn đề để đi đến việc nhận định đầy đủ, sâu sắc về vấn đề đó và
những điều do vấn đề đó gợi ra. Nó gồm hai yêu cầu cụ thể là: bình (đánh giá)
và luận (bàn bạc mở rộng vấn đề).
Ví dụ:
Đề bài: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn” (Lưu Quang Vũ, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”).
Hãy bình luận về vấn đề trên.

1
13
3


Kiểu bài phân tích: Là kiểu bài trong đó người viết (người nói) chia, tách
vấn đề được đưa ra để phân tích thành từng bộ phận, từng khía cạnh để tìm hiểu,
để khám phá rồi sau đó tổng hợp lại để rút ra những kết luận, những đánh giá
chung. Kiểu bài này thường dùng cho loại nghị luận văn học.
Ví dụ:
Đề bài: Phân tích bài thơ “Mời trầu” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Kiểu bài bình giảng: Là kiểu bài tương tự kiểu bài phân tích nhưng có
khác ở chỗ nó in đậm dấu ấn chủ quan của người viết (người nói). Nó gồm hai

công việc cụ thể là giảng và bình. Trong đó, giảng là giảng giải những chi tiết,
những khía cạnh…để người đọc (người nghe) hiểu đúng, rõ tác phẩm;bình là
bình phẩm, đánh giá (khen, chê) cái hay, cái đẹp (cũng như cái chưa hay, chưa
đẹp) về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học.
Ví dụ:
Đề bài: “Bến đò xuân đầu trại” là một bài thơ xuân tuyệt bút của Ức Trai.
Em hãy bình giảng bài thơ và nói lên cảm nghĩ của em.
Kiểu bài tổng hợp: Là kiểu bài nghị luận trong đó người viết (người nói)
phải kết hợp nhiều thao tác nghị luận, ít nhất là hai thao tác như giải thích +
chứng minh, giải thích + bình luận, phân tích + chứng minh…hoặc kết hợp cả
hai loại nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
Ví dụ:
Đề bài: Nói đến tính độc đáo của phong cách trong sáng tác văn học, có ý
kiến cho rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người
sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ, thể
hiện trong các tác phẩm của mình”. Em hãy chọn hai trong bốn phong cách của
các tác giả sau: Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nam Cao, Nguyễn Tuân phân tích làm
sáng tỏ ý kiến trên.
Văn nghị luận bao giờ cũng hướng tới mục đích làm sáng tỏ một vấn đề
nào đó nhằm thuyết phục người đọc, người nghe. Để đạt được mục đích đó,

1
14
4


người viết phải vận dụng nhiều thao tác tư duy, nhiều lí lẽ và thao tác nghị luận
trong quá trình làm bài.
Bộ sách giáo khoa Ngữ Văn cơ bản Trung học phổ thông mà người viết
khảo sát cho thấy đã có sự chú trọng trở lại hơn với loại văn nghị luận xã hội, giữa

hai loại của văn nghị luận có sự hài hoà hơn so với chương trình trước đây. Tuy
nhiên tỉ lệ văn nghị luận văn học vẫn chiếm đa số tiết học và dẫn chứng đưa ra
trong nội dung bài học ở cả ba khối lớp.
3.3. Đặc điểm của đoạn văn nghị luận
Về mặt nội dung, đoạn văn có thể hoàn chỉnh ở một mức độ nhất định
(phù hợp với cách hiểu truyền thống) hoặc không hoàn chỉnh. Chính đặc điểm
này cho ta phân biệt một cách rõ ràng hơn sự khác biệt giữa văn bản nhỏ và văn
bản lớn. Văn bản lớn có sự hoàn chỉnh, trọn vẹn còn văn bản nhỏ thì không phải
lúc nào cũng có đặc điểm này. Tách khỏi văn bản lớn, văn bản nhỏ sẽ trở nên
khó hiểu hoặc không thể hiểu nổi (trong những trường hợp nhất định nào đó).
Khi đoạn văn đạt đến mức độ tương đối hoàn chỉnh về nội dung, đoạn văn sẽ có
những đặc điểm kết cấu đồng hạng ở mức cao nhất so với văn bản hoàn chỉnh.
Trong những trường hợp này, đoạn văn được gọi là một đoạn ý (hay đoạn nội
dung). Ngược lại, đoạn văn không có sự hoàn chỉnh về nội dung được gọi là
đoạn lời (hay đoạn diễn đạt).
Về mặt hình thức, đoạn văn luôn luôn hoàn chỉnh, dù đoạn văn đó có hay
không có sự hoàn chỉnh về nội dung. Nghĩa là, sau mỗi đoạn văn bao giờ cũng
phải chấm xuống dòng, chữ cái đầu đoạn bao giờ cũng được viết hoa và lùi đầu
dòng. Đây là dấu hiệu mà bất kì đoạn văn nào cũng có, giúp ta có khả năng tạo
đoạn và nhận diện đoạn một cách dễ dàng.
Tùy theo nhiệm vụ, các đoạn văn được chia làm: Đoạn giới thiệu, đoạn
nghị luận, đoạn minh hoạ, đoạn chuyển tiếp, đoạn tiểu kết, đoạn tổng kết.
4. Về đoạn mở bài trong bài văn nghị luận:
4.1. Đặc trưng của đoạn mở bài

1
15
5



Đoạn mở bài trong văn nghị luận có đặc trưng đó là thống nhất với toàn
bài về nội dung và hình thức. Mặt khác, đoạn mở bài lại có tính hoàn chỉnh và
độc lập tương đối với các phần khác trong bài, cho phép nó tồn tại như một đoạn
văn riêng, như một tiểu hệ thống nằm trong hệ thống văn bản.
Đoạn mở bài có một số đặc trưng cơ bản như sau:
4.1.1. Nội dung
Về nội dung, đoạn mở bài phải tạo được tình huống có vấn đề tức là phải
đề xuất được vấn đề mà đề bài yêu cầu giải quyết. Phần mở bài nêu ra luận đề
cho toàn bài, như vậy, vấn đề đặt ra trong phần này ở dạng tổng quát, khái quát
cần triển khai, giải quyết. Do đó, người viết cần nắm vững yêu cầu của đề, từ đó,
khái quát thành luận đề lớn cần giải quyết ở thân bài. Trong phần mở bài của
văn nghị luận, người viết không nên bộc lộ ngay thái độ, quan điểm của mình về
vấn đề nghị luận mà chỉ nêu vấn đề cần giải quyết, điều đó góp phần làm cho bài
viết có sức hấp dẫn người đọc hơn.
Đoạn mở bài gồm những nội dung:
+ Dẫn dắt vấn đề: Nêu một vài vấn đề liên quan đến vấn đề cần bàn,
chuẩn bị tư tưởng dẫn người đọc vào vấn đề.
+ Nêu vấn đề: Nêu vấn đề một cách ngắn gọn, nêu đúng vấn đề đặt ra
trong đề bài và phải nêu một cách khái quát.
+ Nêu nhận định về tầm quan trọng của vấn đề, ý nghĩa của vấn đề đối với
trước đó và đương thời (phần này không nhất thiết phải có, tuỳ thuộc vào từng
vấn đề cụ thể).
4.1.2. Hình thức
Về hình thức, đoạn mở bài luôn có sự tương ứng với đoạn kết bài về độ
dài. Trong trường hợp vấn đề quá phức tạp không thể nêu vấn đề trong một đoạn
văn thì có thể viết thành hai đoạn văn, khi đó, độ dài của đoạn mở bài được nới
rộng hơn.
Đoạn mở bài có những đặc điểm về hình thức như sau:

1

16
6


+ Ngắn gọn: Từ khâu dẫn dắt vấn đề đến khâu nêu tầm quan trọng, ý
nghĩa (nếu có) chỉ ngắn gọn trong 6 – 8 câu. Nhưng vẫn cần đảm bảo được tính
trọn vẹn của vấn đề và tránh lan man không nêu được vấn đề trung tâm.
+ Đầy đủ: Khi đọc xong mở bài phải làm cho người đọc hiểu được vấn đề
đặt ra ở đây là gì, trong phạm vi nào và thao tác được vận dụng để giải quyết
vấn đề đó như thế nào
+ Độc đáo: Đoạn mở bài cần phải gây được sự chú ý và gợi cho người
đọc sự quan tâm, niềm hứng thú theo dõi sự trình bày ở các phần sau.
+ Giản dị, tự nhiên: Đòi hỏi khi viết phải có giọng điệu tự nhiên, có khả
năng tạo ra cảm giác gần gũi, quen thuộc với người đọc (người nghe) và có sức
gợi nghĩ (gợi cảm).
Về ngôn ngữ diễn đạt, trong đoạn mở bài những câu dẫn vào đề nên viết
ngắn gọn, khéo kéo, lời văn tự nhiên, thoải mái sao cho tạo được ấn tượng, hứng
thú cho người nghe, người đọc. Do đặc thù riêng của đoạn mở bài nên chú ý khi
viết cần tránh lối viết cầu kì, dài dòng, lan man, xa rời trọng tâm đề bài yêu cầu.
Các câu trong đoạn mở bài thường là câu tường thuật, nhưng cũng có cả câu phủ
định và câu nghi vấn. Tuy nhiên, câu nghi vấn ở đây là câu hỏi tu từ nhằm kích
thích suy nghĩ của người đọc mà không yêu cầu có câu trả lời.
4.2. Chức năng của đoạn mở bài
4.2.1. Chức năng nêu vấn đề
Đây là chức năng quan trọng nhất của mở bài. Xét về quan điểm giao tiếp,
đoạn mở bài phải đưa người đọc, người nghe vào vấn đề bàn luận (hay tình
huống có vấn đề đặt ra ở đề bài). Vấn đề mà mở bài nêu ra chính là vấn đề mà
nội dung bài viết đề cập tới. Vấn đề này được nêu ra ở dạng khái quát, nêu một
cách ngắn gọn và gây được sự chú ý của người đọc. Mở bài có nhiệm vụ thông
báo chính xác, rõ ràng, đầy đủ vấn đề, dẫn dắt sao cho việc tiếp cận đề tài được

tự nhiên nhất.
Vậy muốn nêu được vấn đề trước hết phải xác định được vấn đề. Muốn xác
định được vấn đề thì phải tìm hiểu đề bài. Thông thường đề bài có hai dạng:
1
17
7


Dạng nổi (Lộ thiên): Là dạng đề mà các yêu cầu về nội dung, hình thức,
cách thức, phương hướng, phạm vi, mức độ nghị luận được nêu ra trực tiếp và rõ
ràng trong đề bài. Ở đề bài này vấn đề cần bàn luận trong phần nội dung không
cần phải đi tìm.
Ví dụ 1:
Đề bài: Vai trò của sách đối với đời sống nhân loại.
Vấn đề trọng tâm đã được nói rõ ở đề bài đó là khẳng định vai trò quan
trọng không thể thiếu của sách đối với sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Dạng chìm: Là dạng đề trong đó người ra đề không cho dữ kiện rõ, đầy
đủ (các yêu cầu về nội dung cũng như cách thức, phạm vi…nghị luận) như dạng
nổi. Để tìm ra được vấn đề của đề bài này người viết phải phân tích, tổng hợp,
khái quát nội dung vấn đề từ chính nội dung của đoạn văn, đoạn thơ, hoặc tác
phẩm, câu trích…
Ví dụ:
Đề bài: Trẻ em lang thang cơ nhỡ với cộng đồng xã hội.
Đề bài đưa ra một vấn đề “nóng” hiện nay của xã hội nhưng để làm được
buộc chúng ta phải đi vào phân tích sự suy thoái mái ấm gia đình nên đã dẫn đến
hiện tượng trẻ em lang thang cơ nhỡ đáng báo động; kêu gọi cộng đồng quan
tâm góp sức để tạo dựng cho các em những “ngôi nhà tình thương” thực sự.
4.2.2. Chức năng nêu hướng giải quyết vấn đề
Nêu hướng giải quyết vấn đề là nêu lên cách thức mà người viết sẽ giải
quyết vấn đề đó: So sánh đối chiếu hay phân tích, bình giảng sâu vào một vấn đề

trọng tâm nào đó, một hình ảnh nổi bật nhất trong tác phẩm. Nêu phạm vi vấn đề
đã được nói ở đề tài, cụ thể là đoạn văn, đoạn thơ, bài thơ của tác giả cụ thể.
Ví dụ:
Đề bài: Anh (chị) hãy phân tích bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử.
Mở bài: “Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người
chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh
hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực…thì vẫn còn mãi
1
18
8


với thời gian. Trước khi chết có lần vua Phổ cầm tay Môda nói: “Ta tiêu biểu
cho trật tự, ngươi tiêu biểu cho cái đẹp. Biết đâu hậu thế sẽ quên ta và nhắc đến
ngươi”. Có lẽ mãi mãi về sau, chúng ta vẫn gặp lại một Mùa thu vàng trong
tranh Lêvitan, một mùa thu thôn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến và một
Mùa xuân chín trong thơ Hàn Mặc Tử, một mùa xuân tràn đầy sức sống, vui
tươi mà không ồn ào, thắm đượm sắc màu mà không sặc sỡ, một mùa xuân
duyên dáng rất Việt Nam”.
Đoạn mở bài trên nêu hướng giải quyết vấn đề: Nét độc đáo, riêng biệt,
rất Việt Nam của mùa xuân trong thơ Hàn Mặc Tử.
4.2.3. Chức năng nêu tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề
Để chuẩn bị tư tưởng cho người đọc dễ dàng theo dõi phần nội dung. Tức
là nêu nhận định khái quát về tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề (có thể đối với
xưa và nay). Chức năng này có thể có hoặc không, tuỳ thuộc vào từng yêu cầu
cụ thể của từng đề bài.
Ví dụ:
Đề bài: Tự học – hành trình của sự tìm kiếm và sáng tạo.
Mở bài: “Tri thức là biển cả, sự hiểu biết của mỗi người chỉ là một giọt
nước. Vậy làm sao để khi giọt nước nhỏ bé vào biển cả mênh mông ấy chúng ta

thấy mình không bị lạc lõng, bất lực? Không còn cách gì khác, chúng ta phải
luôn có ý thức trau dồi tri thức bằng phương pháp này hay phương pháp khác.
Nhưng để có thể lĩnh hội kiến thức một cách có hiệu quả, toàn diện và sâu sắc
thì cũng đồng nghĩa với việc mỗi người phải tự lựa chọn cho mình một cách tiếp
cận phù hợp. Tự học luôn là phương án tối ưu trên con đường chinh phục nữ
hoàng trí tuệ”.
Ý nghĩa của vấn đề này là nói lên tính tích cực, chủ động và đạt hiệu quả
cao của phương pháp tự học hỏi, nghiên cứu.
4.3. Yêu cầu của đoạn mở bài
Về cơ bản, đoạn mở bài đạt yêu cầu là một đoạn mở bài đúng. Nghĩa là,
đoạn mở bài đó đảm bảo đầy đủ nội dung và đảm nhận chức năng của phần mở
1
19
9


bài. Mở bài đạt yêu cầu khi nó giới thiệu được vấn đề đến người đọc (vấn đề sắp
được trình bày ở phần thân bài).
Ở đây, chúng tôi quan niệm rằng: Mở bài là một đoạn văn hoàn chỉnh
(đoạn mở bài). Đoạn văn ấy cũng có ba phần: Mở đầu đoạn, phần giữa đoạn và
phần kết đoạn.
+ Mở đầu đoạn: Nêu những câu dẫn dắt (có thể là những lời văn của
mình, có thể là một câu thơ, đoạn văn của một tác giả, có thể là một câu chuyện
nhỏ, một câu nói nổi tiếng của một nhân vật, một chính khách…Tuy nhiên, nội
dung câu dẫn thường phải gần gũi và có liên quan đến vấn đề chính mà bài văn
sẽ đề cập đến.
+ Phần giữa đoạn: Nêu vấn đề chính của bài viết (có thể đã nêu rõ trong
đề, có thể người viết phải tự rút ra, tự khái quát và nêu lên). Đối với loại đề yêu
cầu phân tích, cảm thụ tác phẩm nghệ thuật thì phần này thường nêu ấn tượng
chủ đạo, bao trùm lên toàn bộ tác phẩm mà người viết cảm nhận được.

+ Phần kết đoạn: Nêu giới hạn vấn đề và phạm vi tư liệu mà bài viết sẽ
trình bày. Phần này thường được nêu rõ trong đề bài, người viết chỉ cần nêu lại
yêu cầu và đoạn trích, câu trích của đề bài.
Phần cuối này có thể nêu hướng giải quyết vấn đề, ý nghĩa tầm quan trọng
của vấn đề đối với bản thân và thời đại. Song giữa các phần này luôn có sự linh
hoạt, tuỳ từng vấn đề cụ thể mà nhấn mạnh nội dung này hay nội dung khác.
Tóm lại, đoạn mở bài đúng nhất thiết phải có hai nội dung: Thứ nhất, nêu
vấn đề bàn bạc ở phần mở bài; thứ hai, nêu phạm vi tư liệu, giới hạn vấn đề.
Về hình thức, đoạn mở bài phải trình bày có ý tứ rõ ràng, câu cú gọn
gàng, đúng ngữ pháp,ngữ nghĩa, đồng thời nêu được chủ đề của đoạn.
Chú ý khi mở bài cần tuân thủ những nguyên tắc:
- Phần mở bài cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài và vấn đề đó cần
phải khái quát, ngắn gọn.
- Khi dẫn dắt vấn đề cần bám sát vấn đề trọng tâm nêu ở phần giữa của
đoạn mở bài.
2
20
0


- Khi viết cần tránh đến mức tối đa những lỗi chính tả (lỗi về dùng từ, đặt
câu).
Ví dụ:
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm
“Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
Mở bài: “Trong văn học sau cách mạng tháng Tám đã có không ít tác
phẩm viết về con người không may rơi vào tay giặc, trong nhà lao, trước cái
chết vẫn hiên ngang bất khuất. Thật thú vị là trước cách mạng tháng Tám, nhà
văn Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công một hình tượng tuyệt vời về con
người khí phách, tài hoa trong nhà tù chờ ngày lĩnh án chém, ông Huấn Cao,

nhân vật chính của tác phẩm “Chữ người tử tù”. [42, 62]
Đoạn mở bài trên người viết đảm bảo đầy đủ nội dung của một đoạn mở
bài.
- Phần dẫn dắt vấn đề: Nêu lên hình tượng những người anh hùng rơi vào
tay giặc mà vẫn hiên ngang.
- Phần nêu vấn đề: Hình tượng nhân vật Huấn Cao mang khí phách hiên
ngang và tài hoa.
- Giới hạn vấn đề: Tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
Khi đã đạt yêu cầu là mở bài đúng chúng tôi còn muốn bàn đến một mở
bài hay. Một mở bài hay là một mở bài đưa ra vấn đề bất ngờ, khiến cho người
ta có hứng thú tham gia vào việc giải quyết vấn đề đó.
Muốn mở bài cho hay và thành thạo cần luyện tập bằng cách cùng một đề
văn nhưng suy nghĩ và viết nhiều mở bài khác nhau. Các mở bài khác nhau chủ
yếu ở phần dẫn dắt tạo nên. Như vậy, người viết khi xác định được ba phần của
đoạn mở bài, giữ lại hai phần sau (phần nêu vấn đề và phần giới hạn) và khéo
léo thay đổi phần dẫn dắt vấn đề thì sẽ có mở bài hay.
Một mở bài hay cần tránh:
1) Tránh dẫn dắt vòng vo quá xa mãi gắn được vào việc nêu vấn đề.
2) Tránh ý dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu.
2
21
1


3) Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết luôn rồi thân bài
lại lặp lại những điều đã nói ở mở bài.
Một mở bài hay cần phải:
1) Ngắn gọn: Dẫn dắt thường vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu và giới
hạn vấn đề một câu.
2) Đầy đủ: Đọc xong mở bài, người biết được bài viết bàn về vấn đề gì?

Trong phạm vi nội dung tư liệu nào? Thao tác chính vận dụng ở đây là gì?
3) Độc đáo: Mở bài phải gây được sự chú ý của người đọc với vấn đề
mình sẽ viết. Muốn thế phải có cách nêu vấn đề khác lạ. Để tạo nên sự khác lạ
“độc đáo” cần suy nghĩ dẫn dắt: Giữa câu dẫn dắt và câu nêu vấn đề phải tạo
được sự bất ngờ.
4) Tự nhiên: Viết văn nói chung cần phải giản dị tự nhiên. Mở bài và nhất
là câu đầu chi phối giọng văn của toàn bài. Vì thế vào bài cần độc đáo, khác lạ
nhưng phải tự nhiên. Tránh làm văn một cách vụng về, gượng ép gây cho người
đọc cảm giác khó chịu bởi sự giả tạo.
5. Các phương pháp mở bài trong bài văn nghị luận
Mở bài có nhiều cách khác nhau nhưng cụ thể quy thành hai cách: Mở bài
trực tiếp và mở bài gián tiếp. Tuỳ thuộc vào nội dung, mục đích khuôn khổ bài
viết, phương thức trình bày và phong cách diễn đạt mà người viết có sự lựa chọn
cách viết cho phù hợp.
5.1. Mở bài trực tiếp
Mở bài trực tiếp là cách mở bài giới thiệu ngay vấn đề nghị luận. Cách
này nhanh gọn, tự nhiên, dễ tiếp nhận, thích hợp với bài viết ngắn nhưng nếu
không khéo thì dễ khô khan, ít hấp dẫn.
Ví dụ:
Đề bài: Bình luận về cảm hứng nhân đạo qua hai truyện ngắn “Chí Phèo”
của Nam Cao và “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

2
22
2


Mở bài: “Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và “Hai đứa trẻ” của
Thạch Lam là hai tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Đi vào phân tích
hai truyện ngắn này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ điều đó”

- Vấn đề nghị luận: Cảm hứng nhân đạo.
- Cách thức nghị luận: Phân tích.
- Phạm vi tư liệu: Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và “Hai đứa
trẻ” của Thạch Lam.
Như vậy, đặt vấn đề trực tiếp dễ làm nhưng lại không hấp dẫn, lôi cuốn
được người đọc. Vì mở bài trực tiếp thường không có phần dẫn dắt mà chỉ có
hai phần cơ bản tạo nên đoạn mở bài là phần nêu vấn đề và giới hạn vấn đề.
Phần lớn các bài văn viết theo kiểu mở bài gián tiếp.
5.2. Mở bài gián tiếp
Mở bài gián tiếp là dẫn dắt vào đề bằng cách nêu các ý có liên quan đến
vấn đề cần nghị luận để kích thích trí tò mò, gợi sự chú ý của người đọc rồi từ
đó mới nêu lên vấn đề chính. Khi sử dụng cách mở bài gián tiếp, người viết cần
lựa chọn điểm xuất phát sao cho: Từ đó có thể dẫn đến đề tài; có khả năng tạo ra
cảm giác gần gũi, quen thuộc với người đọc (người nghe) có sự gợi nghĩ (gợi
cảm). Một số kiểu mở bài gián tiếp thường gặp:
5.2.1. Mở bài theo kiểu diễn dịch
Mở bài theo kiểu diễn dịch tức là nêu những ý khái quát hơn vấn đề đặt ra
trong đề bài rồi mới bắt vào vấn đề ấy.
5.2.2. Mở bài theo kiểu quy nạp
Mở bài theo kiểu quy nạp tức là nêu lên những ý nhỏ hơn vấn đề đặt ra
trong đề bài rồi tổng hợp lại thành vấn đề cần nghị luận.
5.2.3. Mở bài theo kiểu tương liên (tương đồng)
Mở bài theo kiểu tương liên là mở bài bằng cách bắt đầu nêu lên một ý
tương tự hoặc có liên quan với ý của luận đề, có tác dụng gợi ra sự liên tưởng rồi
chuyển sang luận đề.
5.2.4. Mở bài theo kiểu tương phản, đối lập
2
23
3



Mở bài theo kiểu tương phản, đối lập là cách mở bài nêu lên một ý trái
ngược với ý trong đề bài rồi lấy đó làm cớ chuyển sang vấn đề nghị luận hoặc
nêu lên các ý kiến đối lập nhau về vấn đề cần nghị luận. Cách mở bài này sáng
tạo sự căng thẳng, không khí tranh luận ngay từ đầu bài viết, thu hút sự chú ý và
gây hấp dẫn cho người đọc.
Như vậy, để viết được đoạn mở bài hay không chỉ đảm bảo đầy đủ nội
dung, tức là thực hiện được chức năng nêu vấn đề của nó, cũng như có phương
pháp (kĩ năng) dẫn dắt vấn đề.
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP
RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN MỞ BÀI TRONG VĂN NGHỊ LUẬN
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Trong sáng kiến này người viết đề xuất một số phương pháp (Giải pháp)
dạy phần mở bài với mong muốn đưa ra những tiền đề lí luận vào thực tiễn dạy
và học môn Làm văn cho học sinh Trung học phổ thông.
Bất cứ môn khoa học nào cũng có giờ lí thuyết và giờ thực hành (lí thuyết
về kĩ năng). Đối với đề tài này chúng tôi vừa cung cấp kiến thức lí thuyết để học
sinh vận dụng và những dạng bài tập cụ thể ứng với nội dung lí thuyết đưa ra.
Nhằm giúp các em nắm chắc kiến thức và hình thành kĩ năng, kĩ xảo sau khi học
tiết “Mở bài” trên lớp.
1. Giải pháp thứ nhất : Phương pháp dạy lí thuyết
Như chúng ta đã biết, lí thuyết của Làm văn không phải lí thuyết lí luận (lí
thuyết thuần tuý) mà cơ bản là lí thuyết thực hành. Có những ý kiến cho rằng
trong Làm văn “cần qua thực hành mà dạy lí thuyết phải được minh họa sinh
động bằng một mẫu thực hành”. Điều này là hoàn toàn hợp lí.
Mục đích cuối cùng của việc dạy Làm văn là giúp học sinh rèn được kĩ
năng xây dựng các loại văn bản vừa đạt yêu cầu chính xác về nội dung, chặt chẽ
về lập luận, trong sáng về chữ nghĩa, vừa cần phải nhanh, phù hợp với những
điều kiện của hoàn cảnh giao tiếp. Lí thuyết là cơ sở để rèn kĩ năng của Làm
2

24
4


văn. Học sinh cần nắm vững lí thuyết nếu không sẽ đi đến chỗ mất phương
hướng làm bài, không xác định được kiểu bài. Từ đó, các em sẽ viết nên những
bài văn nặng về kinh nghiệm, bài nào cũng giống bài nào, chung chung, tẻ nhạt,
thiếu hẳn sự sáng tạo cá nhân. Những lí do trên đưa đến một kết luận cuối cùng
đó là không được coi nhẹ lí thuyết trong khi dạy Làm văn.
Có thể cung cấp lí thuyết Làm văn cho học sinh theo những phương pháp
sau đây:
1.1. Phương pháp thông báo – giải thích
Phương pháp này được hiểu là quá trình điều khiển học sinh hoạt động để
phát hiện lại những tri thức đã được các nhà Việt ngữ khẳng định mà không phải
bản thân các em phải phát hiện ra điều gì mới mẻ. Đây chính là một cách thức
tiếp thu tri thức của con người. Hiện nay, có một số ý kiến cho rằng phương
pháp này không phát huy được vai trò trung tâm, chủ động và sáng tạo của học
sinh. Nhưng trên thực tế, phương pháp truyền thống đó vẫn còn có hiệu quả. Áp
dụng giảng dạy theo phương pháp thông báo – giải thích, người thầy giáo có
điều kiện cung cấp cho học sinh những mẫu lời nói thông qua lời thuyết minh,
giải thích của mình. Từ đó, học sinh tự chủ động vận dụng lí thuyết đã được trau
dồi vào việc thực hành.
Chúng tôi vận dụng phương pháp này để hình thành các khái niệm liên
quan đến đặc trưng, chức năng của đoạn mở bài.
Phương pháp này sẽ giúp các em đến thẳng những lí thuyết cần nắm, tiết
kiệm thời gian. Nhưng chúng ta không nên quá lạm dụng phương pháp đó vì nó
dễ dẫn đến sự thụ động của học sinh, biến giờ dạy học thành giờ diễn thuyết,
độc thoại của người thầy giáo. Phương pháp thông báo – giải thích phù hợp để
dạy các đơn vị kiến thức phụ, kiến thức triển khai cho kiến thức cơ bản, giới
thiệu chủ điểm của bài học, giao và giải thích nhiệm vụ (bài tập về nhà). Muốn

vậy, người giáo viên phải xác định được các đơn vị kiến thức với những mức độ
quan trọng không giống nhau. Biết sử dụng phương pháp này đúng liều lượng,
luôn thay đổi hình thức giờ học, là thời cơ để cung cấp cho học sinh những tài
2
25
5


×