Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Quy hoạch và xây dựng đội ngũ bí thư xã, thị trấn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.6 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

BÙI NAM THẮNG

QUY HOẠCH VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
BÍ THƯ CẤP ỦY XÃ, THỊ TRẤN HUYỆN NGHI XUÂN,
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn

LỜI CẢM ƠN

NGHỆ AN - 2015


2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được
sự giúp dỡ quý giá của các tập thể và cá nhân. Trước hết tôi xin chân thành cảm
ơn trường Đại học Vinh nói chung và các thầy, các cô giáo đã tạo cho tôi thêm
một cơ hội nâng cao kiến thức, nâng cao bản thân mình, có cơ hội nghiên cứu,
học hỏi và hoàn thiện mình trong suốt thời gian qua, đặc biệt là sự hướng dẫn,
giúp đỡ tận tình của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Thái Sơn cùng với sự góp ý
của các giáo sư, tiến sỹ trong Hội đồng bảo vệ luận văn và các bạn đồng nghiệp
trong suốt thời gian thực hiện đề tài. Cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các
đồng chí lãnh đạo Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân huyện; Ban Tổ


chức, Văn phòng Huyện ủy; Phòng Nội vụ, Phòng TC-KH, Phòng NN&PTNT,
Phòng TN&MT, Chi cục Thống kê huyện và Đảng ủy các xã, thị trấn huyện
Nghi Xuân đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu thập tài liệu, số liệu, tư vấn
khoa học cho tôi trong quá trình hoàn thiện đề tài.
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng là quá trình vận dụng giữa lý luận và
thực tiễn trong công tác cán bộ cấp xã, thị trấn ở huyện Nghi Xuân. Đây là kết
quả học tập nghiên cứu, mặc dù đã cố gắng song bản thân vẫn còn nhiều băn
khoăn về nhiều vấn đề trong công tác cán bộ mà bản thân chưa đi sâu nghiên
cứu được. Mặc dù bản thân đã rất nổ lực, nhưng luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong được sự góp ý, giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và
hội đồng bảo vệ luận án để bản thân bổ cứu, hoàn chỉnh đề tài được tốt hơn
nhằm vận dụng vào thực tiến công tác cán bộ ở địa phương công tác./.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả

Bùi Nam Thắng


3
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................101

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- BNV:

Bộ Nội vụ

- CNH, HĐH:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá


- CTQG:

Chính trị Quốc gia

- HĐND:

Hội đồng nhân dân

- HTCT:

Hệ thống chính trị

- HU:

Huyện ủy

- KL:

Kết luận

- NĐ:

Nghị định

- NQ:

Nghị quyết

- QĐ:


Quyết định

- TW:

Trung ương

- UBMTTQ:

Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc

- UBND:

Uỷ ban Nhân dân


4

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc”, Hồ Chí Minh nêu ra một cách
có hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Người xác định rất rõ:
Cán bộ là cầu nối giữa Ðảng, Chính phủ và nhân dân; cán bộ là người đem chính
sách của Ðảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Ðồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Ðảng, cho Chính phủ để
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Hồ Chí Minh khẳng định cán bộ giữ một
vai trò đặc biệt quan trọng, Người viết: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
[35, tr.269], “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”
[35, tr.273]. Thực tế mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đều do
cán bộ nghiên cứu đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ chức, hướng dẫn nhân

dân thực hiện. Đường lối của Đảng đúng hay sai, tổ chức thực hiện thành hay
không đều phụ thuộc vào cán bộ. Động lực của mọi cuộc cách mạng là quần
chúng nhân dân, mà hạt nhân chủ yếu của nó là lực lượng cán bộ. “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc” [35, tr.269], chính là quan điểm về con người với tính
cách vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Kế thừa tư tưởng của Người, Đảng khẳng định cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước
và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. V.I. Lênin đã khẳng
định: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị,
nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [46,
tr.473]. Là một chính đảng tiên phong cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng


5
lập và rèn luyện, 85 năm qua, thấm nhuần lời dạy của Người, Đảng ta đã luôn
coi trọng vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng, nhất là đội ngũ cán
bộ chủ chốt của hệ thống chính trị ở các cấp đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Trong những năm qua, các cấp ủy đảng huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
luôn quan tâm đến công tác quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ và coi đó là
nhiệm vụ trọng tâm của công tác cán bộ và công tác xây dựng Đảng. Nhờ đó, đã
xây dựng được đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những khó
khăn và thử thách mới, dần dần thích ứng với cơ chế thị trường, nỗ lực thực hiện
nhiệm vụ được giao, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương
nói riêng và huyện nhà nói chung.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được thì đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị
trấn ở huyện Nghi Xuân vẫn còn một số cán bộ đang hạn chế về trình độ, năng
lực lãnh đạo, thiếu trách nhiệm và chưa thực sự tâm huyết với công việc, thiếu
gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ nên chưa thực sự nhạy bén, sáng tạo
trước những vấn đề mới, còn lúng túng khi giải quyết những vấn đề khó khăn,

phức tạp, chưa đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Để góp
phần khắc phục những hạn chế nêu trên nhằm xây dựng đội ngũ bí thư cấp ủy
xã, thị trấn ở huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình xây
dựng đội ngũ cán bộ, chúng tôi chọn vấn đề: “Quy hoạch và xây dựng đội ngũ
bí thư cấp ủy xã, thị trấn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Chính trị học.
Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề được Đảng quan tâm chú trọng và
được nhiều nhà khoa học, cơ quan khoa học nghiên cứu, được các cấp ủy tổng
kết. Vấn đề cán bộ là nội dung đã được nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy đảng và
các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong số các bài viết đã đăng trên các
tạp chí, các đề tài, công trình nghiên cứu, các luận văn, luận án đã công bố, liên


6
quan đến các vấn đề cán bộ có nhiều công trình, bài viết đã có những đóng góp,
kiến nghị hết sức sâu sắc, có giá trị thực tiễn cao như:
- Nguyễn Quốc Phẩm (Chủ biên) (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và
dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Nxb
CTQG. Hà Nội. Tác giả trình bày thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị cấp cơ sở vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam trước yêu cầu thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Đề
tài cũng đã phân tích đánh giá thực trạng của đội ngũ cán bộ cấp xã ở các địa
bàn vừa nêu, đồng thời kiến nghị những phương hướng và giải pháp nhằm kiện
toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của HTCT, thực hiện quy chế dân chủ trên địa
bàn nói trên.
- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên) (2001), Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nxb CTQG. Hà Nội. Cuốn sách đã
phân tích, lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học cho việc nâng cao ĐNCB,

đặc biệt là ĐNCB lãnh đạo chủ chốt các cấp, từ đó đưa ra những kiến nghị về
phương hướng, giải pháp nhằm củng cố, phát triển cả về số lượng và chất lượng,
cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2005), Hệ thống chính trị nông thôn nước ta
hiện nay. Nxb CTQG. Hà Nội. Các tác giả đã nghiên cứu vấn đề từ quan điểm lý
luận đến thực tiễn, đồng thời cũng đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ
yếu tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở nông thôn nước ta.
- Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Chủ biên) (2005), Thể chế dân chủ
và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là công
trình tập thể với sự tham gia của các GS,TS Hoàng Chí Bảo; PGS, TS Lưu Đạt
Thuyết; PGS, TS Nguyễn Văn Mạnh; PGS,TS Nguyễn Quốc Phẩm... bàn về
dân chủ, hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị cấp cơ sở. Trong
cuốn sách này có bàn đến ĐN CB cấp cơ sở ở các vùng nông thôn Việt Nam.


7
- Cao Khoa Bảng (2008) Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố. Nxb CTQG. Hà Nội. Cuốn sách đã trình
bày những kinh nghiệm trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo thuộc diện
Ban Thường vụ quản lý, thực trạng, kinh nghiệm và những yêu cầu đặt ra.
- Nguyễn Ngọc Hiến (Chủ biên) (2001) Các giải pháp thúc đẩy cải cách
hành chính ở Việt Nam. Nxb CTQG. Hà Nội. Cuốn sách đã trình bày quá trình
cải cách hành chính ở nước ta trong những năm qua, nhưng khó khăn, nguyên
tắc phương pháp thúc đẩy cải cách hành chính.
- Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX)
về công tác quy hoạch cán bộ, lãnh đạo quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
- Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo,

sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ CB, đảng viên.
- Nghị quyết số 09-NQ/TU, ngày 19/8/2009 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Hà Tĩnh (khóa XVI) về nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng
yêu cầu của tình hình mới (nguồn xaydungdang.org.vn).
- Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
(nguồn xaydungdang.org.vn).
- Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất
nước (1988), Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Phú Trọng (1999), Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng trong điều
kiện cơ chế thị trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


8
Đề tài: Khoa học cấp nhà nước “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị đổi mới”, thuộc chương trình KX- O5
do PGS,TS Trần Xuân Sầm làm chủ nhiệm, (1999).
Đề tài: Khoa học cấp bộ “Về những yêu cầu của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, (1999), do Tiến sỹ
Nguyễn Văn Sáu làm chủ nhiệm.
Mẫu hình và con đường hình thành người lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở
(1992) của Học Viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội.
“Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã
hiện nay” (1994) của Hồ Bá Thâm, luận án tiến sỹ, (bảo vệ tại Học Viện Chính
trị Quốc Gia Hồ Chí Minh).
“Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây
Nguyên hiện nay”, (1996) của Nguyễn Mậu Dựng luận án tiến sỹ, (bảo vệ tại
Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh).
“Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng

sông Cửu Long hiện nay”, luận án tiến sỹ (2000) của Phạm Công Khâm, (bảo vệ
tại Học Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh).
“Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cấp xã ở
huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ
(2002) của Nguyễn Văn Côi, bảo vệ tại Học Viện Chính trị QG Hồ Chí Minh.
“Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện
Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ
(2005) của Trần Trung Trực, (tại Học Viện Chính trị QG Hồ chí Minh).
“Xây dựng đội ngũ chủ tịch ủy ban nhân dân xã của tỉnh Ninh Bình giai
đoạn hiện nay”, luận văn thạc sỹ (2005) của Đinh Ngọc Giang, bảo vệ tại Học
Viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.
Các công trình khoa học nêu trên đã đề cập đến đội ngũ bí thư cấp ủy xã,
thị trấn ở những địa phương, huyện, tỉnh khác nhau, thời gian khác nhau và các


9
phương pháp nghiên cứu khác nhau. Nhưng cho đến nay chưa có công trình
khoa học nào nghiên cứu về xây dưng đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn ở huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng về công tác quy
hoạch và xây dựng đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn ở huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả, chất
lượng công tác quy hoạch và xây dựng đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quy hoạch và xây dựng đội ngũ bí thư
cấp ủy xã, thị trấn hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn của
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh và thực trạng công tác quy hoạch và xây dựng

đội ngũ cán bộ trong giai đoạn vừa qua, chỉ ra những ưu khuyết điểm, nguyên
nhân và bài học kinh nghiệm trong quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp để quy hoạch và xây dựng
đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn của huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu công tác quy hoạch và xây dựng đội ngũ bí thư cấp
ủy xã, thị trấn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn và công tác quy hoạch, xây
dựng đội ngũ cán bộ bí thư cấp ủy cấp xã, thị trấn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu


10
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận mác - xít (duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử) kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgíc và lịch sử,
điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp và thống kê so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Rút ra được những kinh nghiệm, đưa ra những giải pháp phù hợp với tình
hình thực tiễn trên địa bàn huyện để từng bước quy hoạch và xây dựng đội ngũ
bí thư cấp ủy xã, thị trấn của huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đủ về số lượng,
đảm bảo chất lượng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu để thực
hiện tốt công tác quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn
nói chung và đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn nói riêng và còn có thể được dùng
làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy và học tập bộ môn Xây dựng
Đảng cho cán bộ ở trường Chính trị Trần Phú tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính

trị huyện và phục vụ đề tài sáng kiến kinh nghiệm trong công tác cán bộ của
huyện.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.


11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUY HOẠCH VÀ XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ BÍ THƯ CẤP ỦY XÃ, THỊ TRẤN
1.1. Lý luận chung về đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
- Xã, thị trấn
Xã, thị trấn là đơn vị hành chính nhà nước ở địa phương cơ sở, có vị trí
hết sức quan trọng trong bộ máy hành chính bốn cấp ở nước ta. Nói về vai trò, vị
trí của cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cấp
xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì
mọi công việc đều xong xuôi" [35, tr.371]. Tại điều 110, Hiến pháp năm 1992
sửa đổi bổ sung năm 2013 của nước ta cũng đã xác định rõ: Nước chia thành
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố
thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và
đơn vị hành chính tương đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành
phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường. Như vậy, xã,
thị trấn là đơn vị hành chính cuối cùng trong hệ thống hành chính bốn cấp ở
nước ta. Xã, thị trấn là nơi tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, biến nghị quyết thành hiện thực sinh động.
- Bí thư cấp uỷ và Đảng bộ xã, thị trấn
Bí thư Đảng ủy xã, phường, thị trấn (gọi chung là Bí thư cấp uỷ cấp xã) là

người đứng đầu đảng bộ, được Ban chấp hành Đảng bộ tín nhiệm bầu ra và được
cấp ủy Đảng quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh chuẩn y. Bí thư cấp uỷ là
cán bộ chuyên trách công tác Đảng ở đảng bộ, chi bộ (nơi chưa thành lập đảng
bộ) xã, phường, thị trấn, có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ, cùng tập thể đảng uỷ, chi uỷ lãnh đạo


12
toàn diện đối với hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trên địa bàn xã, phường, thị
trấn; đồng thời kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp trên
và cấp mình, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ, Quy định của Đảng và chịu
trách nhiệm trước đảng bộ cấp trên. Có mối quan hệ thường xuyên, chặt chẽ với
nhân dân. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong cấp uỷ và đảng bộ.
Đảng bộ xã, thị trấn là tổ chức Đảng cấp cơ sở (tổ chức cơ sở Đảng) trực
thuộc Đảng bộ cấp trên cơ sở (đó là cấp huyện), là hạt nhân chính trị, lãnh đạo
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý đô thị
trên địa bàn; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phường, thị trấn
giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Các đảng bộ
xã, thị trấn là cấp chấp hành nghị quyết của cấp trên, ra nghị quyết và tổ chức
thực hiện nghị quyết ở cấp mình. Đảng bộ xã, thị trấn xác định nhiệm vụ trọng
tâm của xã, thị trấn mình, xác định những vấn đề gì cần tập trung giải quyết
trong nhiệm kỳ, trong đó chú ý những vấn đề có tính mũi nhọn, những vấn đề
cần tập trung cho quy hoạch chiến lược, những vấn đề có tính đột phá để phát
triển kinh tế, như xác định những đột phá trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới; lãnh
đạo nhân dân xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển ngành nghề, lồng ghép các chương trình kinh tế với thực hiện chính

sách xã hội ở nông thôn.
- Quy hoạch, xây dựng đội ngũ bí thư cấp ủy xã, thị trấn
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Cấp xã là cấp gần gũi nhân dân
nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều
xong xuôi" [35, tr.371]. Từ thực tiễn, và yêu cầu mới đang đặt ra, để nâng cao
chất lượng bí thư cấp ủy xã, thị trấn, cần tập trung vào những biện pháp chủ yếu,


13
đó là: Quy định cụ thể về tiêu chuẩn đối với bí thư đảng ủy cấp xã, thị trấn sát
hợp với yêu cầu thực tiễn. Ðây là cơ sở để cán bộ, đảng viên phấn đấu trong quá
trình hoạt động của mình, đồng thời là căn cứ để đánh giá, lựa chọn, đào tạo, bố
trí, sử dụng cán bộ một cách khoa học và mang lại hiệu quả, là nhân tố bảo đảm
nguồn cán bộ kế cận ở địa phương.
Quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ là tạo sự chủ động, có tầm nhìn
chiến lược trong công tác cán bộ; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên
tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định
chính trị.
Chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào làm căn cứ để đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý các
cấp trong hệ thống chính trị vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức,
thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực
trí tuệ và thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ là nhằm phát hiện sớm nguồn cán bộ
trẻ có đức, có tài, có triển vọng về khả năng lãnh đạo, quản lý, đưa vào quy
hoạch để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn các chức danh lãnh đạo,
quản lý, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài của từng địa phương,
cơ quan, đơn vị và của đất nước. Đề án quy hoạch cán bộ là kế hoạch tổng thể,

dài hạn về đội ngũ cán bộ có triển vọng đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo,
quản lý và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng số cán bộ
đó theo quy hoạch.
Ðể tạo nguồn cán bộ cấp cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt và đội ngũ
bí thư cấp ủy cấp xã ổn định, có chất lượng cao, trước hết cần xác định và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa nguồn kế cận và nguồn dự bị lâu dài. Gắn liền với
đó, hằng năm cấp ủy các cấp ở xã và cấp huyện tiến hành xây dựng kế hoạch


14
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Coi trọng công tác bồi dưỡng cán bộ về chuyên môn
nghiệp vụ, lý luận chính trị, công tác đảng, công tác quản lý nhà nước. Cán bộ
chủ chốt cấp xã, thị trấn, nhất là đội ngũ bí thư cần được bồi dưỡng, cập nhật
thường xuyên về những kiến thức mới.
Cấp ủy cấp trên tăng cường kiểm tra, giám sát, tập trung kiểm tra, giám
sát về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao, mối liên hệ với quần chúng nhân dân... Ðể nâng cao chất lượng bí
thư đảng ủy cấp xã, thị trấn không thể không phát huy vai trò quần chúng nhân
dân. Cấp ủy các cấp cần có quy chế làm việc bảo đảm tiếp nhận được các ý kiến,
đánh giá khách quan, sát, đúng của quần chúng về phẩm chất, năng lực của bí
thư đảng ủy cấp xã, thị trấn. Ðặc biệt là những vấn đề liên quan đến công tác và
hoạt động của đội ngũ cán bộ trong nguồn quy hoạch và bí thư cấp ủy các xã, thị
trấn đương nhiệm.
Công tác quy hoạch và xây dựng đội ngũ bí thư cấp ủy cấp xã cần được
nhìn nhận sâu sắc trong quá trình tiến hành đại hội Ðảng bộ cấp xã, thị trấn.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Đảng ủy và bí thư cấp ủy xã, thị trấn
1.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Đảng ủy xã, thị trấn
* Chức năng của Đảng bộ xã, thị trấn: Căn cứ Quy định số 94-QĐ/TW
ngày 03/03/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng quy định chức năng, nhiệm
vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn, như sau:

Đảng bộ cơ sở xã, phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh
đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước và quản lý đô thị trên địa
bàn; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phường, thị trấn giàu đẹp,
văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Trong hệ thống tổ chức chính trị của đảng thì đảng bộ cấp xã, thị trấn cực
kỳ quan trọng đó là nền tảng, nền móng, vì không có đảng bộ cơ sở thì không


15
hình thành nên cả tòa nhà xã hội, nền móng có vững thì tòa nhà mới mạnh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy” [27, tr.21]. Trong hệ thống chính trị ở xã, thị trấn thì đảng bộ xã, thị
trấn là một bộ phận, đồng thời lãnh đạo hệ thống chính trị, cấp xã, thị trấn là một
loại hình tổ chức cơ sở đảng.
Đảng bộ xã, thị trấn là người trực tiếp đưa đường lối, nghị quyết, chủ
trương của cấp trên đến với nhân dân và lãnh đạo nhân dân tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết ấy; lãnh đạo toàn bộ các hoạt động ở
xã, thị trấn nhằm bảo đảm cho các hoạt động đi đúng với đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, Nghị quyết của
các cấp đề ra; đồng thời phản ánh kịp thời những tâm tư nguyện vọng chính
đáng của nhân dân với Đảng. Thông qua các hoạt động của đảng bộ xã, thị trấn
nhân dân tin tưởng chấp hành tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bảo vệ Đảng.
Là hạt nhân chính trị, đảng bộ xã, thị trấn luôn vận dụng sáng tạo đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho phù hợp với
địa phương mình; cụ thể thành những nhiệm vụ, những mục tiêu, chương trình
hành động, bảo đảm cho các hoạt động đó đúng với đường lối, quan điểm của

Đảng, pháp luật của Nhà nước. Các đảng bộ xã, thị trấn trực tiếp lãnh đạo xây
dựng chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong xây dựng, tổ chức và hoạt động
của những tổ chức đó. Đồng thời lãnh đạo chính quyền xã, thị trấn tham gia
giám sát hoạt động của các cơ quan, văn phòng đại diện, các tổ chức kinh tế
đóng trên địa bàn của xã, thị trấn.
Là cấp cơ sở, các đảng bộ xã, thị trấn là cấp chấp hành nghị quyết của cấp
trên, ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết ở cấp mình. Đảng bộ xã, thị
trấn xác định nhiệm vụ trọng tâm của xã, thị trấn mình cần tập trung giải quyết


16
trong nhiệm kỳ, trong đó chú ý những vấn đề có tính mũi nhọn, những vấn đề
cần tập trung cho quy hoạch chiến lược, những vấn đề có tính đột phá để phát
triển kinh tế, như xác định những đột phá trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới; lãnh
đạo nhân dân xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
phát triển ngành nghề, thực hiện chính sách xã hội ở nông thôn.
* Nhiệm vụ của cấp ủy xã, thị trấn: Căn cứ Quy định số 94 - QĐ/TW,
ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư, các đảng bộ xã, thị trấn có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng
Lãnh đạo thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội - xã
hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ xã, thị trấn và của cấp trên, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế và hộ gia đình sản xuất,
kinh doanh đúng chính, sách pháp luật của Nhà nước, tạo việc làm cho người lao
động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân
làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, xây dựng địa phương giàu đẹp, văn minh.
Lãnh đạo chính quyền thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp, quản lý và sử dụng tốt các nguồn vốn, xây dựng cơ sở hạ
tầng theo quy hoạch, chăm lo phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ

môi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xóa đói, giảm nghèo.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ, thực hiện tốt phương
châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”, giám sát mọi hoạt động ở cơ sở theo
đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mở rộng dân chủ
đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kịp thời giải quyết những vướng mắc
phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng pháp luật, không để tích tụ
mâu thuẫn trở thành điểm nóng, không để xẩy ra tình trạng khiếu kiện tập thể, vượt
cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị trên địa bàn.
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, và chính sách hậu
phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật an toàn xã hội, đề cao tinh


17
thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể, tính mạng và tài sản của nhân dân, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội,
nhất là ma túy, mại dâm.
Hai là, lãnh đạo công tác tư tưởng
Thường xuyên giáo dục bồi dưỡng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng, đạo
đức, tác phong Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa
xã hội trong các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên, thiếu niên, xây dựng tình
đoàn kết gắn bó thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh ở thôn, bản, trong từng gia đình, chú trọng, tuyên truyền, nhân rộng
gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trong mọi lĩnh vực.
Tuyên truyền vận động làm cho nhân dân hiểu và làm đúng đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của
địa phương, kịp thời nắm bắt những tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân
dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.
Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè

phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, phòng chống sự
suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là, lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ
Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, các
đơn vị kinh tế sự nghiệp ở cơ sở vững mạnh, xây dựng và thực hiện quy hoạch,
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ, từng
bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ công chức xã, thị trấn.
Cấp ủy xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ, nhận xét, đánh
giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với cán bộ
thuộc quyền quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ ở cơ
sở theo phân cấp, giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong tổ chức


18
đảng và nhân dân để bầu vào các chức danh chủ chốt của HĐND, UBND,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân theo luật định và điều lệ của mỗi tổ
chức.
Cấp ủy đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia vào
các cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cấp trên
và cán bộ chủ chốt ở cơ sở do cấp trên quản lý.
Bốn là, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
Lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã, thị
trấn vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ
của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và
Nhà nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của các
tầng lớp nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng
và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
và các nhiệm vụ của địa phương, trước hết là chủ trương, chính sách về nông
nghiệp, nông thôn và các chính sách xã hội khác.

Năm là, xây dựng tổ chức đảng
Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong
sạch vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở. Nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên,
nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các biểu hiện tiêu cực khác, chú trọng củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng
lãnh đạo của các chi bộ, tổ đảng ở thôn, xóm... thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, thực hiện có nền nếp và nâng cao
chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính
giáo dục và tính chiến đấu.
Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương
mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu mực, nghiêm chỉnh


19
chấp hành và vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành nghị quyết của tổ chức
đảng, quyết định của chính quyền và chương trình hành động của các đoàn thể
nhân dân. Cấp ủy xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện
nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.
Cấp ủy xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý, phân công nhiệm vụ và tạo
điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm tốt công tác động
viên, khen thưởng, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ, đảng viên
vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển đảng viên, bảo đảm về tiêu
chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh và những người lao động giỏi, có uy tín trong quần chúng nhân dân.
Xây dựng cấp ủy và bí thư cấp ủy bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất năng
lực, thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và
nhân dân tín nhiệm. Định kỳ hàng năm, cấp uỷ tổ chức để nhân dân tham gia,
đóng góp ý kiến xây dựng Đảng; bí thư cấp uỷ, chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ

tịch uỷ ban nhân dân cấp xã tự phê bình trước đại diện của nhân dân và chịu
trách nhiệm khi để xẩy ra tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở địa phương.
Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên việc chấp hành
Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy
định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Phối hợp với
các tổ chức cơ sở đảng trên địa bàn và các tổ chức cơ sở đảng có đảng viên, cán
bộ, công chức đang cư trú trên địa bàn thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của bí thư cấp ủy xã, thị trấn
* Chức năng của bí thư cấp ủy xã, thị trấn:
Theo Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng
Bộ Nội vụ quy định về chức năng của Bí thư Đảng uỷ là cán bộ chuyên trách
công tác Đảng ở Đảng bộ, chi bộ (nơi chưa thành lập Đảng bộ) xã, phường, thị


20
trấn, có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của đảng bộ, chi bộ, cùng tập thể đảng uỷ, chi uỷ lãnh đạo toàn diện đối với hệ
thống chính trị ở cơ sở trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Bí thư cấp uỷ xã, thị trấn có vị trí, vai trò, chức năng rất quan trọng, là
người đứng đầu đảng bộ, có trách nhiệm lãnh đạo mọi mặt công tác của đảng bộ
và chịu trách nhiệm trước đảng bộ cấp trên; đồng thời, cùng với đảng bộ tích
cực cụ thể hóa, vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của
cấp trên và cấp mình, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ, Quy định của Đảng.
Bí thư cấp uỷ xã trực tiếp chỉ đạo nội dung các cuộc họp Ban Thường vụ, Ban
Chấp hành Đảng bộ theo đúng Điều lệ Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ, chế độ tự phê bình và phê bình. Bằng phẩm chất, năng lực, phương pháp
công tác và sự gương mẫu của mình, thông qua hệ thống chính trị mà Bí thư cấp

uỷ xã xây dựng mối quan hệ thường xuyên, chặt chẽ với nhân dân. Bí thư cấp uỷ
xã có vai trò to lớn trong việc tổ chức hợp lý các hoạt động của các tổ chức ở địa
phương, tác động quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng
bộ; gương mẫu chấp hành các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của đảng bộ.
Bên cạnh đó, Bí thư cấp uỷ xã, thị trấn còn có trách nhiệm và quyền hạn
như: Trực tiếp quản lý và cùng cấp uỷ chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, các
khâu khó khăn, phức tạp, các nhiệm vụ mới nảy sinh. Chăm lo xây dựng tổ chức
cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, chăm lo đội ngũ cán bộ,
đảng viên; biết vận động nhân dân thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy, biết phát huy sức dân.
Trực tiếp phụ trách các vấn đề cơ mật: an ninh - quốc phòng, thường xuyên
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Giữ gìn
sự đoàn kết, thống nhất trong cấp uỷ và đảng bộ.


21
Cấp xã là nơi hội tụ sự chỉ đạo của hầu hết các nghành, các cấp, các
đoàn thể theo hệ thống ngành dọc từ trên xuống, chính vì vậy, bí thư đảng uỷ
xã là trung tâm, chủ thể lĩnh hội và thực hiện sự chỉ đạo đó, thực hiện chỉ thị,
nghị quyết của cấp trên, nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Vì vậy, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của bí thư đảng uỷ cấp xã là rất lớn, trong điều kiện đảng cầm
quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong
giai đoạn hiện nay họ lại càng quan trọng hơn. Vai trò, nhiệm vụ ấy được tăng
lên cùng với tính chất, quy mô rộng lớn của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi vai trò
trách nhiệm ngày càng cao của bí thư đảng uỷ xã. Do vậy, phải xây dựng được
đội ngũ bí thư cấp uỷ có chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ đổi mới.
* Nhiệm vụ của bí thư cấp ủy xã, thị trấn:
Theo Quyết định Số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng
Bộ Nội vụ quy định về nhiệm vụ của bí thư cấp ủy là nắm vững Cương lĩnh,

Điều lệ Đảng và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, nghị quyết và chỉ thị của cấp trên và chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ,
chi bộ cấp mình; nắm vững nhiệm vụ trọng tâm, giải quyết có hiệu quả công
việc đột xuất; nắm chắc, sát tình hình đảng bộ, tổ chức đảng trực thuộc, của
nhân dân trên địa bàn; chịu trách nhiệm chủ yếu các mặt công tác của đảng bộ.
Chủ trì cuộc họp của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và chỉ đạo việc
chuẩn bị xây dựng nghị quyết của đảng bộ, của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ
và tổ chức chỉ đạo thực hiện thắng lợi các nghị quyết đó.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động
và giữ vai trò trung tâm đoàn kết giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với các
tổ chức trong hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn.
Lãnh đạo, kiểm tra việc tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp
trên, của đảng bộ, của Ban Chấp hành và Ban Thường vụ Đảng uỷ.
Theo giáo trình Xây dựng Đảng dùng cho hệ cử nhân chính trị, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Mã số: 3KV3/CTQG- 2002 thì


22
nhiệm vụ của Bí thư Đảng uỷ: Chủ trì toàn bộ công việc của cấp uỷ, trực
tiếp nắm các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm, các nhiệm vụ mới nảy
sinh và những vấn đề cơ mật về quốc phòng, an ninh; chăm lo xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán
bộ của Đảng thuộc quyền quản lý của cấp uỷ. Bí thư cấp uỷ có trách
nhiệm tổ chức hoạt động cấp uỷ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Nhiệm vụ cụ thể của người bí thư đảng ủy:
+ Nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, các nghị quyết đại hội
của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và của cấp trên để quán triệt trong
cấp uỷ và chủ trì xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện các nghị quyết
của Đảng, đề xuất với tập thể xác định đúng đắn, chính xác các nhiệm vụ

chính trị của Đảng bộ trong từng thời gian.
+ Nắm vững nhiệm vụ chính trị, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, các
nhiệm vụ mới nảy sinh, các khâu then chốt, khó khăn, phức tạp trong từng
thời gian, chủ trí việc tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết và trực tiếp phụ
trách các vấn đề cơ mật về an ninh, quốc phòng.
+ Chủ động chuẩn bị và chỉ đạo nội dung, chương trình hoạt động
của cấp uỷ, chuẩn bị các quyết định của tập thể, chủ trì các kỳ họp của cấp
uỷ, chuẩn bị kết luận những vấn đề đã được tập thể thảo luận; chỉ đạo
nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm các điển hình tiên tiến, nơi làm điểm và
các mặt công tác trọng yếu.
+ Chăm lo đổi mới cán bộ và công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán
bộ vững mạnh và đồng bộ, bao gồm cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản
lý nhà nước, cán bộ kinh doanh, chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực, nhất là
đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Thực hiện quy hoạch cán bộ, bảo đảm sự chuyển tiếp vững vàng các thế hệ
cán bộ; thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt của cấp uỷ.


23
Thực hiện tốt các nguyên tắc tâp trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách; giữ vững đoàn kết nội bộ cấp ủy, trước hết là trong cấp uỷ chủ
chốt.
Như vậy, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của bí thư đảng uỷ cấp xã, thị trấn
là rất lớn, trong đấu tranh giành chính quyền bí thư đảng uỷ xã, thị trấn vốn đã
rất quan trọng, trong điều kiện đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong giai đoạn hiện nay thì bí thư đảng uỷ xã, thị
trấn lại càng quan trọng hơn. Vai trò, nhiệm vụ ấy được tăng lên cùng với tính
chất, quy mô rộng lớn của sự nghiệp đổi mới, đòi hỏi trách nhiệm ngày càng cao
của bí thư đảng uỷ xã, thị trấn. Do vậy, cần phải xây dựng được đội ngũ bí thư
cấp uỷ xã, thị trấn có chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới.

1.2. Nội dung cơ bản của công tác quy hoạch và xây dựng đội ngũ bí thư cấp ủy
xã, thị trấn
1.2.1. Nội dung công tác quy hoạch
Công tác quy hoạch cán bộ, là tạo sự chủ động, có tầm nhìn chiến lược
trong công tác cán bộ; khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý, bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững
vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị.
Chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ dồi dào làm căn cứ để đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý các
cấp trong hệ thống chính trị vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức,
thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực
trí tuệ và thực tiễn tốt, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tiêu chuẩn đưa vào quy hoạch
Căn cứ để đưa cán bộ vào quy hoạch là tiêu chuẩn chung và các tiêu
chuẩn của từng loại cán bộ đã nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3
(khoá VIII) và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ phải “cần, kiệm,


24
liêm, chính, chí công, vô tư”. Căn cứ vào tiêu chuẩn chung về phẩm chất chính
trị, đạo đức và năng lực của cán bộ của Trung ương, của tỉnh, trên cơ sở thực
tiễn đội ngũ cán bộ của các địa phương trong huyện, để đáp ứng yêu cầu đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và thích hợp với mỗi bước phát triển của thực tiễn cách mạng trong tình hình
hiện nay, Ban Thường vụ Huyện ủy đã ban hành Quy định số 885-QĐ/HU quy
định tiêu chuẩn cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý, trong đó đối với
chức danh Bí thư Đảng ủy cơ sở các xã, thị trấn là một trong những đối tượng
cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý phải đảm bảo tiêu chuẩn,
như sau:

+ Về hiểu biết, kiến thức và năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành: Có
tinh thần yêu quê hương, đất nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có hiệu quả
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công
nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có năng
lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng
đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện.
Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng, lãng phí và
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; có ý thức tổ chức kỷ luật;
trung thực, sâu sát, cụ thể, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín
nhiệm.
Gương mẫu về đạo đức, lối sống; có tác phong dân chủ, khoa học, có khả
năng tập hợp quần chúng, quan tâm xây dựng, củng cố khối đoàn kết thống nhất.
Am hiểu sâu sắc, toàn diện về tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của huyện, địa phương và


25
cơ quan, đơn vị. Có bản lĩnh, trách nhiệm, quyết tâm chính trị cao trong việc
thực hiện cương lĩnh, đường lối, sự nghiệp đổi mới của Đảng; có khả năng quy
tụ, xây dựng khối đoàn kết trong toàn Đảng bộ và hệ thống chính trị. Có phong
cách lãnh đạo, chỉ đạo khoa học, dân chủ, quyết đoán; có tín nhiệm cao trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có tư duy nhạy bén, có khả năng hoạch định,
phát triển của địa phương, đơn vị. Có năng lực để cụ thể hoá các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị,
quyết định của cấp trên để cùng cấp ủy đề ra chủ trương, biện pháp phù hợp với
tình hình đặc điểm của địa phương và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả.
Có khả năng tổng kết, đúc rút kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ

đạo; đề xuất đóng góp với Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
huyện những vấn đề từ thực tiễn của địa phương, đơn vị về phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
+ Về độ tuổi: những đồng chí quy hoạch lần đầu tham gia giữ chức vụ Bí
thư Đảng ủy các xã, thị trấn phải đủ tuổi để có thể công tác từ hai nhiệm kỳ trở
lên hoặc ít nhất phải trọn một nhiệm kỳ là 5 năm (dưới 55 tuổi đối với nam, dưới
50 tuổi đối với nữ tính tại thời điểm giới thiệu bầu cử); những đồng chí tiếp tục
đảm nhiệm chức vụ hiện giữ nói chung phải đủ tuổi công tác trọn một nhiệm kỳ
hoặc ít nhất được 2/3 nhiệm kỳ; những trường hợp này cần xem xét con người
và hoàn cảnh cụ thể để quyết định; không máy móc, cứng nhắc về độ tuổi.
+ Về trình độ đào tạo: Phải có trình độ chuyên môn trung cấp (những
đồng chí sinh từ 01/01/1976 trở về sau, phải có trình độ đại học) trở lên; có khả
năng sử dụng được ít nhất một ngoại ngữ để giao tiếp thông thường (trình độ B
trở lên), sử dụng được công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, điều
hành; có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên; đã qua các lớp đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế; đảm bảo sức khoẻ để
thực hiện nhiệm vụ.


×