Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Qua khảo sát thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.87 KB, 95 trang )

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_____________________________________________________________

LÊ XUÂN HÙNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
(QUA KHẢO SÁT THỰC TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2015


1
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_________________________________________________________________

LÊ XUÂN HÙNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
(QUA KHẢO SÁT THỰC TIỄN Ở TỈNH THANH HÓA)

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS, TS NGUYỄN THÁI SƠN

Nghệ An, 2015


1
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học; Khoa Giáo dục chính trị
Trường Đại học Vinh;
Quý thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ chúng tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu;
Huyện ủy, UBND huyện Nông Cống, Ban Tuyên giáo các huyện, thị,
thành ủy, đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy Thanh Hóa cùng bạn bè, đồng nghiệp đã
tận tình giúp đỡ, ủng hộ, cung cấp tư liệu, tạo điều kiện thuận lợi trong quá
trình học tập và nghiên cứu, tham gia đóng góp ý kiến quý báu cho việc triển
khai thực hiện đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng, song Luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý của quý
thầy, cô giáo và đồng nghiệp để Luận văn hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Lê Xuân Hùng


2

MỤC LỤC
Trang
Chuyên ngành: Chính trị học...............................................................................1
C. KẾT LUẬN....................................................................................................88


3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1.

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2.

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

3.

HĐND

:


Hội đồng nhân dân

4.

UBND

:

Ủy ban nhân dân

5.

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Chuyên ngành: Chính trị học...............................................................................1
C. KẾT LUẬN....................................................................................................88


5
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Công tác tuyên giáo có một vị trí vai trò quan trọng trong hệ thống chính
trị Việt Nam, là công việc không thể tách rời với quá trình xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn liền với sự nghiệp xây dựng Đảng ngày
càng phát triển, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới.
Công tác tuyên giáo chỉ các hoạt động tham mưu, chỉ đạo, tuyên truyền,
định hướng, triển khai, kiểm tra của tổ chức đảng về lĩnh vực tư tưởng, văn hóa,
khoa học, giáo dục. Công tác tuyên giáo được tiến hành tại tất cả các cấp, các
ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang… Từ
khi Đảng ta ra đời đến nay, công tác tuyên giáo đã góp phần xứng đáng vào mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới đất
nước, dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công
tác tuyên giáo có nhiều đổi mới cả về nhận thức và hoạt động, cả về nội dung và
phương thức, tiếp tục góp phần tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới.
Trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta hiện nay, cấp huyện là đơn
vị hành chính trung gian, là cầu nối giữa cấp trung ương, tỉnh, thành với cơ sở.
Trong hệ thống tổ chức Đảng cấp huyện, Ban Tuyên giáo cấp huyện có vai trò
hết sức quan trọng trong việc tham mưu, chỉ đạo và kiểm tra giúp cấp ủy triển
khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước trên địa bàn. Ban Tuyên giáo cấp huyện và đội ngũ cán bộ làm công tác
tuyên giáo thực sự đã trở thành “cánh tay nối dài” trên mặt trận tư tưởng - văn
hóa của Đảng. Xuất phát từ đó, có thể thấy công tác tuyên giáo cấp huyện đang
ngày càng có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong giai đoạn hiện nay, cả nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh những thuận lợi, công tác tuyên giáo cũng gặp


6
không ít khó khăn, thách thức. Trên thế giới, cuộc khủng hoảng kinh tế, nhất là
vấn đề nợ công ở một số nước châu Âu có nguy cơ làm đổ vỡ nhiều nền kinh tế.

Xung đột vũ trang, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo còn xảy ra ở nhiều nơi. Tình
hình tranh chấp lãnh thổ, biển đảo diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng đến môi
trường hòa bình thế giới. Các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân
quyền, tôn giáo để xuyên tạc, kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá” trong nội bộ ta, nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ
Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Trong nước, tình hình kinh tế xã hội đã có những dấu hiệu phục hồi, phát triển, nhưng hậu quả của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới đang tác động nhiều tiêu cực đến nước ta. Đời sống của
nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai còn khó khăn. Công
tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị tuy đạt được kết quả
quan trọng nhưng vẫn còn hạn chế nhất định. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống như Nghị quyết Trung ương 4
(khoá XI) đã nêu đang làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước
và chế độ Xã hội chủ nghĩa. Trước yêu cầu đó việc nâng cao chất lượng công tác
tuyên giáo cấp huyện là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Là một cán bộ trực tiếp tham gia và chỉ đạo công tác tuyên giáo cấp huyện
nhiều năm qua, trên cơ sở năng lực nghiên cứu của bản thân và yêu cầu cấp bách
của nhiệm vụ, tôi lựa chọn đề tài "Nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo
cấp huyện thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Qua khảo sát
thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa)" làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành
Chính trị học.
Chất lượng công tác tuyên giáo và nâng cao chất lượng của công tác tuyên
giáo là mảng đề tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học,
nhiều học viên cao học và nghiên cứu sinh thuộc chuyên ngành Chính trị học và


7
các chuyên ngành khoa học khác có liên quan. Trong quá trình triển khai nghiên
cứu, chúng tôi đã tham khảo một số công trình có liên quan trực tiếp đến vấn đề

này như:
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: “Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ,
công tác tuyên giáo ở cơ sở”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2005), với nội
dung nâng cao nhận thức lý luận chính trị, học tập quán triệt nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, truyền thống đấu tranh cách
mạng của Đảng bộ địa phương.
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: “Tài liệu bồi dưỡng lý luận chính
trị”, Nxb Lao Động - Xã hội (2007), tìm hiểu vấn đề độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội khoa học là mục tiêu là lý tưởng của Đảng và dân tộc ta,
vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền
tảng tinh thần của xã hội.
- Ban Tuyên giáo Trung ương: “Giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam”,
Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội (2008), đã nêu ra nội dung xây dựng con người
Việt Nam thấm sâu chủ nghĩa yêu nước.
- GS.Trần Văn Giàu: “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam” Nxb khoa học xã hội, Hà Nội (1980), có nội dung bàn về giáo dục truyền
thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX” Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2004), nghiên cứu
vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn
luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện hội nghị ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa X” Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2009), tìm hiểu nhiệm vụ
tăng cường sự thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng, bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, của đại đoàn kết toàn dân tộc.


8
- Đảng Cộng sản Việt Nam: “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội (2011), nghiên cứu một số nội dung về
nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo.
- Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương:“Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết
hội nghị lần thứ năm ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX”, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội (2002), đưa ra những phương hướng, giải pháp công tác chính
trị tư tưởng trong tình hình mới.
- Ban Tuyên giáo Trung ương: “Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết hội
nghị Trung ương VII, khóa X”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2008), tìm hiểu
công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho Thanh niên và đưa ra một số giải pháp
đối với công tác Thanh niên.
- Ban Tuyên giáo Trung ương: “Tài liệu kham khảo phục vụ nghiên cứu
các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội (2011), gồm những nội dung đánh giá những chuyển biến
trong nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
- Ban Tuyên giáo Trung ương “Tài liệu nghiên cứu các văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng”, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
(2011), nội dung trong đại hội XI của Đảng chỉ rõ cần tăng cường xây dựng
Đảng về chính trị.
- "Đổi mới tư duy về công tác cán bộ tuyên giáo" của Tiến sĩ Lương Khắc
Hiếu và Tiến sĩ Nguyễn Viết Thông, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 2/2002;
- "Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao năng
lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh" của
Nguyễn Đình Trãi, Tạp chí Triết học số 1/1993;
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ
bản cả về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để


9

nâng cao chất lượng của công tác tuyên giáo. Tuy nhiên, cho tới nay chưa có
công trình nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ thống và chuyên sâu về
thực trạng cũng như nêu ra những chủ trương, giải pháp để nâng cao chất
lượng công tác tuyên giáo ở cấp huyện. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp
phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện
trong cả nước nói chung và ở Nông Cống Thanh Hóa nói riêng trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng tới việc đề xuất một số giải
pháp để nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu nêu trên, chúng tôi xác định ba nhiệm
vụ nghiên cứu chủ yếu như sau:
- Xác định cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo
cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Khảo sát, đánh giá, tìm hiểu thực trạng chất lượng công tác tuyên giáo
cấp huyện trong thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
tuyên giáo cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là chất lượng, hình thức, nội dung,
phương pháp công tác tuyên giáo cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài không nghiên cứu công tác tuyên giáo nói chung mà tập trung phân
tích, đi sâu, làm rõ thực trạng chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện và



10
nghiên cứu đề xuất phương hướng và các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng
cao chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó phạm vi những vấn đề nghiên cứu của
đề tài được xác định trong khuôn khổ chất lượng công tác tuyên giáo, bám sát
những nội dung cơ bản nhất, trọng tâm nhất, thiết yếu nhất của công tác tuyên
giáo cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Khảo sát, phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích, so sánh, logic - lịch sử.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần xác định cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng
của công tác tuyên giáo cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đồng thời luận văn dự kiến góp phần làm rõ thực trạng
công tác tuyên giáo tại tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua. Ngoài ra, luận văn
có thể làm tư liệu giảng dạy tại trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, làm tài liệu
tham khảo cho những công trình nghiên cứu có liên quan.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn dự kiến bao gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng công tác tuyên
giáo cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2. Thực trạng công tác tuyên giáo ở tỉnh Thanh Hóa trong thời
gian qua.
Chương 3. Mục tiêu, định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.



11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN TRONG THỜI KỲ
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm công tác tuyên giáo
Khi nói đến công tác tuyên giáo là nói đến công tác tư tưởng, đây là hoạt
động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành, phát
triển, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng
đi tới hành động. Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ
phận cấu thành rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, là hoạt động
truyền bá, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước nhằm xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản,
giá trị đạo đức đúng đắn. “Công tác tư tưởng góp phần tạo sự thống nhất cao
trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy tính chủ động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện
thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [3, tr. 132].
Như vây, công tác tuyên giáo là cụm từ chỉ các hoạt động tham mưu, chỉ
đạo, kiểm tra của tổ chức đảng về lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và khoa giáo. Công
tác tuyên giáo được tiến hành tại tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, cơ
quan, đơn vị, trường học, lực lượng vũ trang… Trong 85 năm qua, từ khi Đảng
ta ra đời đến nay, công tác tư tuyên giáo của Đảng đã góp phần xứng đáng vào
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sau 30 thực hiện đường lối đổi mới đất
nước, dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác



12
tuyên giáo của Đảng có nhiều đổi mới cả về nhận thức và hoạt động, cả về nội
dung và phương thức, tiếp tục góp phần tích cực vào thành công của công cuộc
đổi mới.
1.1.2. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Từ cuối thế kỷ thứ XVIII đến nay, trong lịch sử đã diễn ra các loại công
nghiệp hoá khác nhau: Công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa. Các loại công nghiệp hoá này, xét về mặt lực lượng sản xuất,
khoa học và công nghệ là giống nhau. Song chúng có sự khác nhau về mục đích,
về phương thức tiến hành, về sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị. Công
nghiệp hoá diễn ra ở các nước khác nhau, vào những thời điểm lịch sử khác
nhau, trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, do vậy nội dung khái
niệm có sự khác nhau.
Tuy nhiên, theo nghĩa chung, khái quát nhất, công nghiệp hoá là quá trình
biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng ta đã xác định:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh , dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng
sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự
phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học, công nghệ nhằm tạo ra năng suất
lao động xã hội cao” [16, tr.358].
Bằng việc kết hợp với các quan điểm về cách mạng kĩ thuật và cơ cấu
kinh tế, ta có thể thấy rõ khái niệm CNH trên đây được Đảng ta xác định rộng
hơn những quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất, kinh doanh,
cả về dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội hiện đại cùng với kĩ thuật và cộng nghệ
cao. Như vậy, CNH theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ
các lực lượng sản xuất đơn thuần, kĩ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ



13
công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây. Sở dĩ nước ta phải đưa ra
khái niệm kép về CNH, HĐH là do quá trình CNH đã được chủ nghĩa tư bản
tiến hành từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII ở Tây Âu mà ta gọi là cách mạng công
nghiệp mở đầu từ nước Anh. Còn ngày nay thế giới đang tiến hành cuộc cách
mạng khoa học- công nghệ để chuyển từ cơ giới hoá lên tự động hoá, nước ta
phải tiến hành CNH trong điều kiện thế giới đang tiến hành cuộc cách mạng
khoa học- công nghệ do đó nước ta phải kết hợp cả hai cuộc cách mạng- kĩ thuật
vì vậy khái niệm kép về CNH, HĐH ra đời. Cũng chính từ điều kiện lịch sử thực
hiện kết hợp cả hai cuộc cách mạng kĩ thuật làm cho công nghiệp hoá ở nước ta
hiện nay mang nhiều đặc điểm riêng như sau:
+ Thứ nhất, CNH phải gắn liền với HĐH.
+ Thứ hai, công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Ở nước ta CNH nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho CNXH, tăng
cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
+ Thứ ba, CNH, HĐH trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết
của nhà nước.
+ Thứ tư, CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá
nền kinh tế, vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế là tất yếu
đối với đất nước ta.
Tất cả để đạt tới mục tiêu dài hạn CNH, HĐH là xây dựng cơ sở vật chấtkĩ thuật của CNXH, dựa trên nền khoa học tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất
mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố
quốc phòng - an ninh, nâng cao hợp tác phát triển với bên ngoài, thực hiện mục
tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bởi vậy, hiểu rõ và
nắm vững nội dung cụ thể của CNH, HĐH là hết sức cần thiết, để chúng ta có


14
những bước đi đúng đắn, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

theo con đường XHCN.
1.2. Nội dung, nhiệm vụ và chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện
1.2.1. Nội dung về công tác tuyên giáo cấp huyện
- Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng.
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm bồi dưỡng, nâng cao nhận thức lý
luận chính trị, lòng yêu nước, yêu quê hương, tình cảm cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân, thông qua việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác giáo
dục lý luận chính trị tạo nên sự nhất trí, tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng
lợi các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cán bộ,
đảng viên và nhân dân.
- Công tác tuyên truyền nhằm phổ biến, truyền bá đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức khoa học, kỹ thuật,
công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống, thông tin kịp thời tình hình thời sự, chính
trị..., định hướng tư tưởng trước các sự kiện tác động đến tư tưởng, tình cảm,
tâm trạng của quần chúng nhân dân.
- Công tác cổ động, nêu gương tốt, điển hình tiên tiến nhằm cổ vũ hành
động của quần chúng nhân dân, biến nhận thức tư tưởng thành niềm tin, hành
động cách mạng cụ thể, thành phong trào quần chúng rộng rãi...
- Công tác văn hoá, văn nghệ, lĩnh vực văn hoá ở đây được hiểu chủ yếu ở
khía cạnh tư tưởng, chính trị của văn hoá. Công tác văn hoá, văn nghệ nhằm
thoả mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân, qua đó giáo dục đạo đức, lối sống,
phát huy truyền thống cách mạng, xây dựng đời sống văn hoá.
- Công tác nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội và định hướng tư
tưởng, dư luận xã hội, nhằm kịp thời nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân, những vấn đề tiêu cực gây bức xúc trong nhân dân, từ đó
tham mưu cấp ủy cùng cấp có những giải pháp giải quyết và định hướng dư luận


15

xã hội.
- Đấu tranh tư tưởng, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, tin đồn và
tài liệu xấu lan truyền, phát tán trong xã hội.
Ngoài các nội dung cơ bản trên, công tác tuyên giáo còn có các nội dung
khác, như giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể lực, giáo dục về sinh thái, môi
trường... qua các hoạt động trong lĩnh vực khoa giáo.
1.2.2. Nhiệm vụ của công tác tuyên giáo cấp huyện
Một là, giáo dục mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn, kiên định, vững
vàng trước mọi khó khăn, thách thức. Kiên quyết đấu tranh chống những quan
điểm sai trái, thù địch; ngăn ngừa ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi
hình thức.
Hai là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn góp phần phát triển, hoàn thiện đường
lối và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Tiến hành phổ biến, quán triệt sâu
rộng các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng
lực thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những biểu hiện của
chủ nghĩa thực dụng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực
hiện có hiệu quả việc "Học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh".
Bốn là, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con
người mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Năm là, xây dựng và phát huy nhân tố con người qua thực hiện tốt các
lĩnh vực khoa giáo ở cơ sở. Chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ thúc đẩy phong trào thi
đua yêu nước và các phong trào xã hội khác, coi trọng việc bồi dưỡng, nhân



16
rộng các điển hình, nhân tố mới, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính
trị trong từng giai đoạn.
Sáu là, giáo dục ý thức cảnh giác, chống các hoạt động “diễn biến hòa
bình”, cơ hội chính trị, lôi kéo, chia rẽ sự đoàn kết trong Đảng và trong nhân
dân. Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn nội bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu
kiện kéo dài, khiếu kiện tập thể, điểm nóng.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện
Chất lượng công tác tuyên giáo (chất lượng công tác tư tưởng) có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong công tác tư
tưởng của Đảng nói riêng. Nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện
là một đòi hỏi bức thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo, một vấn đề hết sức quan trọng là
phải xây dựng cho được hệ tiêu chí đánh giá chất lượng của nó. Tuy nhiên, đây
là một vấn đề khá phức tạp cả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn ở cơ sở.
Về mặt lý thuyết, có thể xây dựng thành các quy trình tiến hành công tác
tư tưởng, nhưng trên thực tế nó luôn được vận hành một cách linh hoạt tuỳ theo
đối tượng và điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Mặt khác, mục đích của công tác tư
tưởng là làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành động của đối tượng, nên kết
quả của nó khá trừu tượng, diễn ra dần dần, một số hành vi phải có hoàn cảnh
thích hợp mới bộc lộ ra được. Do đó, việc đánh giá chất lượng công tác tư tưởng
là vô cùng khó khăn và thường chỉ được đánh giá về mặt định tính là chính. Nói
như vậy, không có nghĩa là không thể đánh giá được chất lượng công tác tư
tưởng. Vấn đề đặt ra là phải thống nhất được quan niệm về chất lượng công tác
tư tưởng, trên cơ sở đó mới xác định được tiêu chí và cách thức đánh giá.
Trong lĩnh vực kinh tế, chất lượng sản phẩm hàng hoá được coi là những
thuộc tính thoả mãn nhu cầu của con người và các nhu cầu đó được lượng hoá
thành các tiêu chuẩn xác định. Sản phẩm thoả mãn đầy đủ các tiêu chuẩn đề ra,
dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của người sản xuất có lương tâm, trách nhiệm,



17
đồng thời đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng thì sản phẩm đó có chất
lượng tốt và ngược lại. Chất lượng không chỉ là thuộc tính của sản phẩm hàng
hóa, mà còn có thể áp dụng cho một hệ thống hay một quá trình. Sự khác nhau
cơ bản giữa chất lượng một sản phẩm với chất lượng một hệ thống, một quá
trình là ở chỗ, chất lượng một sản phẩm bao gồm những thuộc tính, đặc trưng
bản chất của chính nó; còn chất lượng của một hệ thống, một quá trình là tổng
hợp chất lượng của các yếu tố, các bộ phận, các khâu, các bước cấu thành hệ
thống hoặc quá trình đó.
Công tác tư tưởng là hoạt động sáng tạo, truyền bá hệ tư tưởng làm cho nó
trở thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội, do đó nó là
một quá trình liên tục bao gồm các khâu: sản xuất hệ tư tưởng, tái sản xuất hệ tư
tưởng và vật chất hoá hệ tư tưởng. Tương ứng với ba quá trình đó, Lênin coi
công tác tư tưởng gồm ba hình thái (bộ phận) là công tác lý luận, công tác tuyên
truyền và công tác cổ động. Xét ở góc độ này, chất lượng công tác tư tưởng là
tổng hợp chất lượng của công tác lý luận, tuyên truyền và cổ động. Chất lượng
mỗi bộ phận là sự đáp ứng mục tiêu, yêu cầu do chủ thể công tác tư tưởng xác
định, đồng thời phù hợp với đặc điểm, nhất là nhu cầu, lợi ích của đối tượng.
Xét ở góc độ thực tiễn, công tác tư tưởng bao gồm các mặt hoạt động cụ
thể như sau: công tác nghiên cứu và giáo dục lý luận chính trị; công tác tuyên
truyền, cổ động; công tác văn hóa, văn nghệ; công tác nghiên cứu dư luận xã
hội; công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng; công tác khoa giáo; công tác
đấu tranh trên mặt trận tư tưởng… Ở góc độ này, chất lượng công tác tư tưởng
cũng là tổng hợp chất lượng các mặt hoạt động của nó.
Đánh giá chất lượng công tác tư tưởng bằng việc tổng hợp chất lượng các
bộ phận hay các mặt hoạt động như trên có cụ thể hơn nhưng vẫn khá phức tạp
và trừu tượng, bởi trên thực tế, các bộ phận, các mặt hoạt động của công tác tư
tưởng luôn diễn ra đồng thời, đan xen vào nhau, rất khó phân định một cách rạch
ròi, minh bạch.



18
Một cách tiếp cận khác, khiến cho việc đánh giá chất lượng công tác tư
tưởng dễ dàng hơn, đó là nghiên cứu công tác tư tưởng ở góc độ hệ thống cấu
trúc. Ở góc độ này, các nhà khoa học cho rằng công tác tư tưởng được cấu thành
bởi các yếu tố: chủ thể, đối tượng, mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp,
phương tiện, hiệu quả. Theo lôgíc nêu trên, có thể coi chất lượng công tác tư
tưởng là tổng hợp chất lượng của chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức và
hiệu quả của nó.
Trong các thành tố nêu trên, hiệu quả công tác tư tưởng có đặc điểm là
luôn nằm ở đối tượng và được đánh giá ở đối tượng. Nói cách khác, hiệu quả
công tác tư tưởng là sự chuyển biến về nhận thức, niềm tin và hành động của đối
tượng sau tác động của công tác tư tưởng. Do vậy, nói đến chất lượng đối tượng
thì trong đó đã bao hàm hiệu quả của công tác tư tưởng. Như vậy, đối tượng,
chính xác hơn là ý thức của đối tượng vừa là một yếu tố cấu thành, vừa là sản
phẩm cuối cùng của công tác tư tưởng. Không thể nói chất lượng của các khâu,
các bước của quá trình sản xuất tốt mà chất lượng sản phẩm lại tồi. Do đó, có
thể khẳng định, chất lượng chính trị của đối tượng là biểu hiện tập trung nhất
chất lượng của công tác tư tưởng.
Đối tượng của công tác tư tưởng có thể là cá nhân, tổ chức hoặc toàn xã
hội. Ở bình diện cá nhân, chất lượng công tác tư tưởng biểu hiện tập trung ở
nhận thức, niềm tin và hành động chính trị tích cực của đối tượng. Ở bình diện
tổ chức và xã hội, chất lượng công tác tư tưởng được biểu hiện ở chất lượng
chính trị của các tổ chức và kết quả thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ quan, đơn vị và toàn xã hội.
Như vậy, có thể quan niệm chất lượng công tác tuyên giáo (chất lượng
công tác tư tưởng) là tổng hợp chất lượng của các yếu tố cấu thành, là mức độ
đạt được so với mục đích, yêu cầu đề ra và biểu hiện tập trung nhất ở đối tượng
sau tác động của công tác tư tưởng.



19
Căn cứ quan trọng nhất để xem xét đánh giá chất lượng công tác tư tưởng
là bản chất giai cấp, mục tiêu, nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng nói chung
và của từng cơ sở nói riêng. Trên cơ sở quan niệm về chất lượng công tác tư
tưởng nêu trên có thể xây dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng công
tác tuyên giáo (chất lượng công tác tư tưởng) cấp huyện như sau:
Nhóm tiêu chí về sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng (tiêu chí về
chủ thể)
Tổ chức các hoạt động công tác tư tưởng là trách nhiệm của cấp ủy, chính
quyền cấp huyện mà nòng cốt là Ban Tuyên giáo Huyện ủy. Đánh giá chất lượng
về sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý các hoạt động công tác tư tưởng ở cấp huyện
cần xem xét ở các khía cạnh chủ yếu sau đây:
Một là, nhận thức và trách nhiệm của của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể
cấp huyện về công tác tư tưởng.
Hai là, chủ trương, biện pháp, chương trình, kế hoạch tiến hành công tác
tư tưởng.
Ba là, phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chỉ đạo, tổ chức các
họat động tư tưởng của cấp uỷ và cơ quan tuyên giáo cấp huyện.
Bốn là, sự chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy công tác tư tưởng ở
huyện.
Năm là, khả năng của cơ quan tham mưu và cấp uỷ trong giải quyết
những vấn đề tư tưởng nảy sinh, dự báo đúng tình hình và đấu tranh có hiệu quả
trên mặt trận tư tưởng.
Chất lượng công tác tuyên giáo cấp huyện phụ thuộc trực tiếp vào vai trò
tổ chức, chỉ đạo, quản lý của Ban Thường vụ Huyện ủy. Muốn nâng cao chất
lượng công tác tuyên giáo phải chăm lo xây dựng, củng cố, kiện toàn bộ máy,
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo. Muốn đánh giá chính
xác chất lượng chủ thể, cần căn cứ vào tiêu chuẩn xây dựng các tổ chức, tiêu

chuẩn cán bộ, đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy để đánh giá.


20
- Nhóm tiêu chí về nội dung, phương thức tiến hành công tác tư tưởng
Nhiệm vụ, nội dung công tác tư tưởng nói chung và công tác tư tưởng cấp
huyện nói riêng thường có sự chỉ đạo thống nhất của cấp ủy cấp trên. Mỗi địa
phương lại có nhiệm vụ cụ thể, có thời gian hoạt động không hoàn toàn giống
nhau. Do đó, đánh giá chất lượng nội dung, phương thức tiến hành công tác tư
tưởng phải xem xét ở khía cạnh thực hiện chỉ thị, hướng dẫn của trên và việc
vận dụng sáng tạo của từng đơn vị. Đặc biệt phải xem xét nội dung, hình thức,
phương pháp hoạt động công tác tư tưởng phong phú hay nghèo nàn, linh hoạt
hay công thức, đơn điệu, sự phù hợp với đối tượng như thế nào, tính khoa học,
tính nghệ thuật ra sao. Việc duy trì nền nếp, đi đôi với đổi mới, cập nhật nội
dung, phương pháp, hình thức công tác tư tưởng có thể coi là một tiêu chí trọng
điểm để đánh giá chất lượng công tác tư tưởng. Nội dung đúng đắn, khách quan,
khoa học, ngắn gọn; phương pháp, hình thức phong phú, lôi cuốn, hấp dẫn là
yếu tố bảo đảm cho công tác tư tưởng có chất lượng cao. Hiện nay, nhóm tiêu
chí này chưa được tiêu chuẩn hóa. Mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương cần dựa vào
mục tiêu, nhiệm vụ của công tác tư tưởng và đặc điểm đối tượng của cơ sở mình
để xây dựng thành các tiêu chuẩn, trong đó lấy sự phù hợp với đối tượng là tiêu
chuẩn căn bản nhất để đánh giá chất lượng nội dung, phương thực tiến hành
công tác tư tưởng.
- Nhóm tiêu chí về cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện công tác tư tưởng
Cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện là công cụ của chủ thể công tác tư
tưởng. Chất lượng của nó được đo bằng tính năng, tác dụng, độ bền, sự tiện
dụng, mức độ hiện đại và được lượng hoá thành các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật.
Hiện nay, cơ sở vật chất, phương tiện công tác tư tưởng ở cấp huyện thường
được hình thành từ nguồn trên cấp, nghân sách cấp huyện và nguồn do cơ sở tự
bảo đảm. Việc xem xét chất lượng của chúng, ngoài các tiêu chuẩn về kinh tế,

kỹ thuật còn phải chú ý ở hai điểm: có sử dụng đúng, đủ kinh phí, phương tiện
được cấp hay không và khai thác sử dụng phát huy hiệu qủa như thế nào.


21
Trong các phương tiện của công tác tư tưởng, hệ thống thiết chế văn hóa
là phương tiện rất quan trọng. Vì vậy, chất lượng các thiết chế văn hoá phải
được xem là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá chất lượng công tác tư
tưởng. Cần phải xem thực trạng chất lượng của các thiết chế đó, nề nếp hoạt
động, sử dụng và phát huy vai trò của nó trong việc góp phần nâng cao hiệu qủa,
tăng phạm vi ảnh hưởng của công tác tư tưởng, đồng thời giảm cường độ lao
động của chủ thể.
Nhóm tiêu chí về hiệu quả tác động của công tác tư tưởng ở bình diện cá
nhân, chất lượng công tác tư tưởng được đo ở nhận thức, niềm tin và tính tích
cực chính trị - xã hội của đối tượng.
Cấp uỷ cấp huyện cần căn cứ vào mục đích, nội dung, chương trình học
tập, tuyên truyền, giáo dục; chức trách, nhiệm vụ, cương vị công tác, lĩnh vực
hoạt động của từng đối tượng để xác lập các tiêu chuẩn đánh giá phù hợp.
Ở bình diện xã hội, chất lượng công tác tư tưởng là việc nâng cao nhận
thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chi Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, tình hình chính trị trong nước và
quốc tế, pháp luật Nhà nước; niềm tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng; hành động tích cực, tự giác của nhân dân tham gia hiện thực hóa
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện
các nhiệm vụ chính trị của địa phương thông qua tính chất và quy mô các phong
trào cách mạng. Cuối cùng, chất lượng của công tác tư tưởng phải được đo bằng
kết quả xây dựng các tổ chức ở cơ sở vững mạnh; chính trị ổn định, kinh tế phát
triển; văn hoá, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao;
an ninh, quốc phòng được giữ vững…

Những kết quả này vừa tồn tại ở dạng vật chất, vừa tồn tại ở dạng tinh
thần. Những tiêu chí về vật chất có thể được đánh giá bằng các chỉ số kinh tế, kỹ
thuật như: tỷ lệ tăng trưởng GDP, tỷ lệ hộ nghèo, số vụ việc vi phạm pháp luật,


22
tỷ lệ người tham gia các hoạt động chính trị, xã hội ở địa phương… Các tiêu chí
về tinh thần như nhận thức, thái độ, niềm tin của đối tượng cần được đo bằng
phương pháp điều tra dư luận xã hội.
Vận dụng quan niệm về chất lượng trong lĩnh vực sản xuất vật chất vào
lĩnh vực sản xuất tinh thần, bước đầu cho phép chúng ta đưa ra được khái niệm
chất lượng và từ đó xác định bốn nhóm tiêu chí và cách thức đánh giá chất
lượng công tác tư tưởng. Điều đó có thể chưa thực sự đầy đủ, cần tiếp tục phải
nghiên cứu thêm, nhưng tạm thời khắc phục được những khó khăn, lúng túng
trong đánh giá chất lượng công tác tư tưởng hiện nay.
Đánh giá chất lượng công tác tư tưởng ở các cấp nói chung và ở cấp
huyện nói riêng là một vấn đề khá phức tạp, nhưng không thể không làm. Chỉ
trên cơ sở đánh giá khách quan, chính xác chất lượng công tác tư tưởng, cấp uỷ
cấp huyện mới có thể đề ra các chủ trương, biện pháp công tác tư tưởng phù
hợp. Chất lượng công tác tư tưởng còn là căn cứ để đánh giá năng lực của cán
bộ, đảng viên, đồng thời là cơ sở để đánh giá tình hình chính trị, kinh tế, xã hội
của địa phương. Nhận thức sâu sắc vai trò của việc đánh giá chất lượng, tiến tới
tiêu chuẩn hoá các tiêu chí đánh giá chất lượng là một trong những biện pháp
thiết thực để nâng cao chất lượng công tác tư tưởng hiện nay.
1.3. Yêu cầu, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của tuyên giáo
cấp huyện trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.3.1. Yêu cầu đối với cán bộ tuyên giáo cấp huyện
Đối với cán bộ tuyên giáo cấp huyện phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Có trình độ lý luận chính trị, nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và khả năng vận dụng vào thực tiễn.
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng và lợi ích dân
tộc; có niềm tin sâu sắc, kiên định về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; tuyệt đối trung thành với Đảng, với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa


23
xã hội, nói và làm theo đúng nghị quyết của Đảng; có đạo đức và lối sống lành
mạnh, giàu lòng nhân ái, tôn trọng tập thể, trung thực và thẳng thắn, khiêm tốn
và quyết đoán, có sức quy tụ và đoàn kết mọi người; có trách nhiệm cao trong
công tác, nói đi đôi với làm; biết phát hiện, cổ vũ cái mới, kiên quyết đấu tranh
chống các tệ nạn xã hội, các hiện tượng tiêu cực, lạc hậu. Cán bộ làm công tác
tuyên giáo phải là người đi đầu trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.
- Có kiến thức tổng hợp về các lĩnh vực: chính trị, văn hóa, xã hội,
giáo dục; đất nước, con người Việt Nam; địa phương, truyền thống; tình
hình thế giới...
- Gần gũi quần chúng, sát cơ sở; gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân;
đối với những việc có liên quan tới lợi ích của quốc gia, dân tộc, tới cương lĩnh,
đường lối và nguyên tắc của Đảng, có thái độ rõ ràng, không chủ quan phiến
diện; có lòng nhiệt tình, cống hiến, có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với
công việc, không dao động trước khó khăn, thử thách.
- Có năng lực độc lập nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, khả năng
nắm bắt, hướng dẫn dư luận xã hội, phát hiện, lý giải những khuynh hướng tư
tưởng phát sinh trong đời sống xã hội và trong các tầng lớp dân cư khác nhau, có
khả năng dự báo tình hình và tính sáng tạo trong công tác.
- Nắm vững, phản ánh được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân
dân, có khả năng viết và nói hấp dẫn để thuyết phục người nghe hiểu, tin và làm
theo; đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
vào cuộc sống. Có phong cách làm việc dân chủ, khả năng đối thoại, lôi cuốn,

thuyết phục quần chúng, để quần chúng “4 phục”: lý phục, tâm phục, khẩu phục
và đức phục.
- Có năng lực tham mưu, giúp cấp ủy hướng dẫn, triển khai thực hiện chủ
trương, đường lối và những định hướng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực văn
hóa tư tưởng, khoa giáo, nghiên cứu lịch sử Đảng ở địa phương. Có khả năng


×