Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên trường cao đẳng sư phạm Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.17 KB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
………. ∞ ………

TRẦN THỊ VINH

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
SINHVIÊNTRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyênngành

: Chínhtrịhọc

Mãsố

: 06.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Ngườihướngdẫnkhoahọc: PGS.TS TRẦN VIẾT QUANG


ĐỒNG THÁP - 2015


3

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ VINH


GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM CẦN THƠTRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

ĐồngTháp, 6/2015


4

DANH MỤC QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CSCN

: Cộng sản chủ nghĩa

CNMLN

: Chủ nghĩa Mác lênin

ĐB SCL

: Đồng bằng sông Cửu Long

HSSV

: Học sinh sinh viên

TNCS


: Thanh niên cộng sản

TGD

: Tự giáo dục

SV

: Sinh viên

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


5

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ
của nhiều đơn vị, cá nhân.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu hiệu, Khoa giáo dục chính trị,
Phòng đào tạo sau đại hoc trường Đại học Vinh, Phòng đào tạo sau đại học
trường Đại học Đồng Tháp và tập thể cán bộ giảng viên các nhà khoa học đã tạo
điều kiện luận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ sự tri ân đến PGS.TS Trần Viết Quang đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình tôi làm luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, các đồng nghiệp và
cảm ơn sự hợp tác của các bạn sinh viên trường Cao đẳng Cần Thơ đã giúp đỡ
tôi hoàn thành luận văn này.

Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng do điều
kiện nghiên cứu và khả năng còn hạn chế, luận văn chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót về nội dung và hình thức. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý
của Hội Đồng để công trình được hoàn thiện hơn.

Đồng Tháp, tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

TRẦN THỊ VINH


6
MỤC LỤC
DANH MỤC QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT..............................................................................4
MỤC LỤC...................................................................................................................................6
A.MỞ ĐẦU.................................................................................................................................7
B. NỘI DUNG..........................................................................................................................15

Chương 1.......................................................................................................15
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC..................................15
CÁCHMẠNGCHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG......................15
1.1. Các khái niệm cơ bản................................................................................15
1.2. Nội dung và phương thức giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên...........22
1.3. Sự cần thiết của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên...................31
Chương 2.......................................................................................................46
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG.................................46
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM CẦN THƠ..................46
2.1. Khái quát về Thành phố Cần Thơ và Trường Cao đẳng Cần Thơ.................46
2.2. Công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên trường Cao đẳng Cần
Thơtrong những năm qua.................................................................................51

2.3. Thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên trường Cao đẳng Cần Thơ.......62
Chương 3.......................................................................................................79
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC............79
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG...........79
CẦN THƠ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY................................................79
3.1. Quan điểm về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên trường Cao đẳng
Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.....................................................................79
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên Trường Cao đẳng Cần Thơ trong đoạn hiện nay..................................91
KẾT LUẬN.............................................................................................................................112
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................114
E. PHỤ LỤC...........................................................................................................................118


7

A.MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh viên (SV) là lực lượng hùng hậu và ngày càng có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của xã hội. Những năm học giảng đường đại học, cao đẳng
sinh viên không chỉ được học những kiến thức cơ bản và chuyên ngành mà còn
được rèn dạy về đạo đức, hơn nữa là đạo đức cách mạng. Nhưng dường như
những giá trị này đang bị xuống cấp, thể hiện qua những hành vi bạo lực trong
nhà trường, những vụ án nghiêm trọng, những hành vi gian lận trong thi
cử,...Đến lúc chúng ta cần có cái nhìn khách quan về việc giáo dục đạo đức
trong nhà trường hiện nay.
Đạo đức cách mạng đang được Đảng, Nhà nước, nhà trường, xã hội và gia
đình quan tâm. Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh:
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý,
nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội

hóa chất lượng nền giáo dục Việt Nam. Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
nghiệp đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu hết sức to lớn và đáng tự
hào. Bên cạnh đó, không thể không thừa nhận những nguy cơ và thách thức đối
với lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự tác động
xấu của văn hóa ngoại lai... đang tác động mạnh mẽ tới nhân cách, đạo đức cách
mạng của thế hệ trẻ. Một bộ phận không nhỏ sinh viên chạy theo lối sống thực
dụng, chưa có ý thức trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống mới, nhiều giá trị
đạo đức xã hội bị đảo lộn và xuống cấp, không ít sinh viên thiếu tích cực trong
học tập và rèn luyện, không chịu phấn đấu, thiếu niềm tin, lý tưởng sống. Thực
trạng sinh viên mắc vào tệ nạn xã hội, thành lập các nhóm không lành mạnh,
đánh nhau, tổ chức đua xe trái phép, bạo lực học đường, quan hệ tình dục trước
hôn nhân ... đang là mối lo lớn của toàn xã hội ta, đã tạo ra hình ảnh không đẹp
về sinh viên.


8
Từ thực trạng đó,để phát huy tính tích cực và điều chỉnh những lệch lạc
trong suy nghĩ, hành động của sinh viên, hơn lúc nào hết.Cả xã hội đang quan
tâm tìm cách giải quyết, ngành giáo dục và đào tạo đang trăn trở tìm giải pháp,
Đảng và Nhà nước ta đang chỉ đạo quyết liệt với tính đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục nước nhà không những về chuyên môn, phải hết sức quan
tâm giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên.Tất cả điều đó đặt ra yêu cầu
bức thiết đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng đắn vai trò của giáo dục và giáo
dục đạo đức cách mạng cho sinh viên.
Trường Cao đẳng Cần Thơ là một trong những trường với vai trò vị trí
quan trọng cung cấp nguồn nhân lực cho thành phố Cần Thơ và các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long (ĐB SCL) với số lượng sinh viên rất đông, đến từ nhiều
tỉnh thành khác nhau, bên cạnh nhiều sinh viên với lập trường tư tưởng chính trị
đúng đắn có đạo đức của người sinh viên thì cũng có một bộ phận sinh viên lập
trường tư tưởng chính trị chưa vững vàng, xa rời lý tưởng, có lối sống thực

dụng,thích hưởng thụ, ngại học tập, rèn luyện, dẫn đến vi phạm nội quy, quy
chế, tệ nạn xã hội, vi phạm kỉ luật, pháp luật… Ảnh hưởng không nhỏ đến mục
tiêu cũng như hiệu quả giáo dục toàn diện của nhà trường.
Với những lý do trên và với cương vị công tác của mình, tác giả chọn vấn
đề “Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên trường Cao đẳng sư phạm
Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay”làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đạo đức cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng đã thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay đã có khá nhiều công
trình được công bố, trong đó có những công trình liên quan đến đề tài, tiêu biểu
như:


9

- Về đạo đức cách mạng:
Giáo sư Vũ Khiêu (1974) chủ biên cuốn Đạo đức mới. Trong tác phẩm này,
vấn đề đạo đức mới được làm sáng tỏ trên những nét cơ bản.
Giáo sư Nguyễn Trọng Chuẩn – Phó Giáo sư Nguyễn Văn Phúc (2003)
đồng chủ biên cuốn Mấy vấn đề về đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã bàn về những nội hàm
của đạo đức, giáo dục đạo đức trong nền kinh tế thị trường, những giải pháp
khắc phục sự tha hóa, xuống cấp trên một số mặt của đạo đức trong xã hội hiện
tại.
- "Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng", Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976. Hồ
Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng,
coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng
vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cùng hướng nghiên cứu, tác giả Trịnh Huy Duy (2009) trong công trình Xây

dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã khẳng định trong nền kinh tế thị trường có sự thay
đổi về một số hệ giá trị, sự hội nhập với các nền kinh tế bên ngoài, vì vậy, vấn đề
xây dựng đạo đức mới cần được quan tâm một cách đúng mực, phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình hiện nay.
Về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên trong điều kiện hiện nay
có các công trình:
- Phạm Đình Nghiệp, Giáo dục tư tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999. Võ Minh Tuấn, Giáo
dục đạo đức cách mạng cho sinh viên, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, tháng 5-


10
2004. Các công trình này đã nêu những nội dung giáo dục đạo đức và các hình
thức giáo dục đạo đức cho thế hệ mới. Các vấn đề đều phải chú trọng và được
quan tâm đúng, kịp thời.
Luận án tiến sỹ Triết học của tác giả Trần Sỹ Phán (1999), “Giáo dục đạo
đức đối với sự hình thành phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay”. Tác giả đã đi sâu phân tích đặc điểm nhân cách sinh viên, trong
đó khẳng định “nhân cách sinh viên là nhân cách chưa hoàn chỉnh, đang trong
giai đoạn định hình”, vì vậy, sự biến đổi đạo đức diễn ra ở tầng lớp xã hội đặc
thù này là một tất yếu. Trên cơ sở đó tác giả tập trung phân tích vai trò của giáo
dục, nhất là giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế.
Tác giả Lương Thị Bích Ngọc đã tiến hành nghiên cứu đề tài cho luận văn
thạc sỹ của mình “Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Kĩ thuật
Công nghiệp Thái Nguyên hiện nay theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh”. Tác
giả đã làm rõ tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên (SV) phân
tích nguyên nhân, thực trạng của việc giáo dục đạo đức, từ đó đề ra những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho SV trường Đại học Kĩ

thuật Công nghiệp Thái Nguyên.
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Triết học của tác giả Bùi Thị Thanh Huyền
với đề tài “Sự biến đổi đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay. Tác giả đã
nghiên cứu vai trò của SV trong đời sống xã hội, đặc điểm cơ bản đạo đức và
phân tích thực trạng sự biến đổi đạo đức SV Việt Nam hiện nay cũng như những
nhân tố tác động đến sự biến đổi đó từ đó đề ra những giải pháp cơ bản nhằm
thúc đẩy những biến đổi tích cực và hạn chế những biến đổi tiêu cực.
Ngoài ra, một số bài viết đã đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác
của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam" do Trần Văn
Giàu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980. Bài viết xoay quanh các giá


11
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà nổi lên hàng đầu đó là tinh thần yêu
nước, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, luôn chăm
lo xây dựng và bảo vệ đất nước, có ý thức giữ gìn và phát triển bản sắc dân tộc,
luôn tự hào về dân tộc…
“Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống
cho thanh niên học sinh, sinh viên trong chiến lược phát triển toàn diện con
người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước” của tác giả Trần Kiều
(2001). Tác giả đã nghiên cứu về thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống
của thanh niên học sinh sinh viên trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tìm ra nguyên nhân của thực trạng từ đó đề ra giải pháp để giáo dục đạo đức, tư
tưởng chính trị, lối sống cho thanh niên học sinh, SV.
"Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp
giáo dục lối sống cho sinh viên", Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32
do Mạc Văn Trang chủ biên (Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục
và Đào tạo), 1995.
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu chuyên sâu và bài viết của tác giả Đặng
Cảnh Khanh về đối tượng thanh niên đã cho cái nhìn khá đầy đủ về vai trò, đặc

điểm phát triển đạo đức, cũng như những thay đổi trong sự phát triển đạo đức, lối
sống và định hướng giá trị của họ trong điều kiện mới. Như các công trình
nghiên cứu Xã hội học Thanh niên (2006); Cần đẩy mạnh hơn nữa những
nghiên cứu khoa học về thanh niên, (Tạp chí Cộng sản số 6/2011).
GS. TSKH Huỳnh Khái Vinh với bài viết “Một số vấn đề về lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội”. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ những vấn đề
lí luận về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội và sự vận động của nó dưới tác
động của các nhân tố chính trị, kinh tế và xã hội.


12
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí Triết học xoay
quanh các vấn đề về tư tưởng chính trị, đạo đức của sinh viên như:
Tạp chí Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên
Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà
Nội, 1994.
Tác giả Nguyễn Văn Phúc (2000), “Tình cảm đạo đức và giáo dục tình
cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí Triết học. Bài viết này cho
chúng ta một cách nhìn khái quát về vai trò của tình cảm đạo đức trong đời sống
con người, trên cơ sở đó khẳng định sự cần thiết phải giáo dục tình cảm đạo đức
cho mọi đối tượng xã hội.
Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề
giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Hoàng Trung.
"Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường,
Tạp chí Triết học, số 6, 2002…
Các chuyên khảo, đề tài, bài viết đã nghiên cứu đạo đức cách mạng và giáo
dục đạo đức cách mạng dưới nhiều góc độ khác nhau, đề xuất nhiều giải pháp
tiến hành giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, sinh viên. Tuy
nhiên chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách trực tiếp, toàn diện có hệ

thống toàn diện về giáo dục đạo đức cách mạng của sinh viên Trường Cao đẳng
Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của tác giả không
trùng lặp với các công trình khác đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng, đề xuất giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên trường Cao đẳng
Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.


13

3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
các trường Cao đẳng.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
trường Cao đẳng Cần Thơ trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách
mạng cho sinh viên trường Cao đẳng Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tương và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách cho sinh
viên các trường Cao đẳng.
4.2. Phạm vi
Luận văn tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên trường Cao đẳng Cần Thơ từ năm 2014 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục đạo đức cách mạng

cho sinh viên; dựa trên các Nghị quyết, các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo
và Sở Giáo dục và Đào tạo của Ủy ban nhân dân Thành phố Cần Thơ về công
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho SV.Luận văn kế thừa các kết quả nghiên
cứu của những công trình liên quan đã công bố, nghiệm thu, đồng thời còn sử
dụng những tài liệu của các Đảng bộ, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trường
Cao đẳng Cần Thơ có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


14
+ Nghiên cứu thực tế: điều tra thực trạng; điều tra bằng bảng câu hỏi được
thiết kế sẵn, điều tra bằng nghiên cứu tài liệu, hồ sơ lưu trữ.
+ Sử dụng các phương pháp: thống kê xã hội học, phân tích, so sánh... để
xử lý kết quả điều tra, khảo sát.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của vấn đề giáo dục đạo đức
cách mạng cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về giáo dục
đạo đức cách mạng cho sinh viên trường Cao đẳng Cần Thơ.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho sinh viên nói chung và sinh viên của trường Cao đẳng Cần Thơ
nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.


15

B. NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CÁCHMẠNGCHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm đạo đức
Thuật ngữ đạo đức bắt nguồn chữ“Mos” (tiếng La tinh) - lề thói (morolia).
Nghĩa là khi nói đến đạo đức tức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối
quan hệ nhất định giữa người với người trong cuộc sống. Đạo đức là khái niệm
triết học, nó tồn tại ở mỗi người trong một xã hội nhất định. Đạo đức là một
trong những hình thái sớm nhất của ý thức xã hội, bao gồm những chuẩn mực xã
hội điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng
đồng.Căn cứ vào chuẩn mực ấy, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo
các quan niệm về cái tốt với cái xấu, cái thiện với cái ác; chống lại cái giả dối,
cái xấu… hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ.
Trong lịch sử, cùng với sự vận động biến đổi của tồn tại xã hội, đạo đức
cũng có nhiều thay đổi và cũng đã tồn tại nhiều những quan niệm về đạo đức
khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Quan điểm duy tâm tôn giáo cho rằng đạo đức
là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực rút ra từ những lực lượng siêu nhiên
hay những bản tính trừu tượng "ý niệm tuyệt đối", "thượng đế" rồi đem áp dụng
vào đời sống hiện thực của con người mà không xuất phát từ điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội, từ quan niệm xã hội hiện thực để suy ra lĩnh vực tư tưởng
trong đó có tư tưởng đạo đức.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin,đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh


16
và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với
xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức
mạnh của dư luận xã hội [27; 8].

Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, chế độ kinh tế – xã hội là nguồn gốc của quan
điểm về đạo đức con người. Sự phát sinh phát triển của đạo đức xét đến cùng là
một quá trình do sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định. Chính
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Xét cho cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước
cho đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế lúc bấy giờ” [28;137].
Tâm lý học định nghĩa đạo đức theo hẹp và nghĩa rộng như sau:
+ Theo nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các
quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh
hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với
tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân- cá nhân và quan hệ cá nhân- xã hội.
Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lý, những quy tắc chuẩn mực ứng xử trong
quan hệ của con người. Trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người
cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực ứng
xử của con người với con người, với công việc với bản thân, kể cả thiên nhiên
và môi trường sống.
+ Theo nghĩa rộng: Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm
điều chỉnh và đánh giá cách ửng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội
và quan hệ với tự nhiên. Đạo đức còn được hiểu là hệ thống các quy tắc, chuẩn
mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với
cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với bản thân mình. Như vậy, khái niệm đạo
đức liên quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là
thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân


17
đã được xã hội hóa. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh,
trong sáng.
Xét về góc độ chính trị học với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo
đức mang bản chất xã hội, có tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp. Là sản
phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế, cho nên tương ứng với mỗi

chế độ kinh tế, mỗi phương thức sản xuất có một loại hình đạo đức nhất định.
Mặt khác mỗi dân tộc có một bản sắc riêng, bản sắc đó được phản ánh vào đời
sống đạo đức tạo nên tính độc đáo trong đời sống đạo đức của mỗi dân tộc.
Trong xã hội có giai cấp đạo đức bao giờ cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp
có vai trò, địa vị, lợi ích khác nhau trong hệ thống kinh tế, xã hội. Đạo đức với
tư cách là hình thái ý thức xã hội phản ánh và thể hiện lợi ích của các giai cấp.
Mỗi giai cấp có những lợi ích riêng và do dó cũng có những quan niệm đạo đức,
có nền đạo đức riêng. Mặt khác mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức của mình như
là một công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Tuy nhiên, nền đạo đức được
áp đặt cho toàn xã hội luôn là nền đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù trong
cuộc sống mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo lợi ích trực tiếp của giai cấp mình.
1.1.2. Khái niệm giáo dục đạo đức
Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La tinh
"Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình, cách
thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".
Giáo dục được coi là một hiện tượng xã hội, hiện tượng này nảy sinh, tồn
tại, phát triển và tiến bộ cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội loài người,
trong đó nổi bật là việc các thế hệ đi trước truyền thụ lại các kinh nghiệm sống,
kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm hoạt động xã hội nói chung cho các thếhệ.
Các nhà nghiên cứu lịch sử giáo dục học đã chứng minh rằng: Từ thời cổ
xưa cho đến nay, khi nói đến giáo dục là người ta nói đến những tác động làm
phát triển con người cả về thể chất lẫn tâm hồn tức là dạy dỗ, bảo ban, nuôi


18
dưỡng, chăm sóc. Xã hội ngày càng phát triển, nội dung kinh nghiệm ngày càng
phong phú và việc truyền thụ kinh nghiệm ngày càng được chuyên môn hóa dần.
Trong xã hội dần dần xuất hiện những nhà tri thức – nghề dạy học ra đời.
Như vậy về thực chất, nếu xét theo phương diện lịch sử, giáo dục là hiện
tượng xã hội trong đó thế hệ trước truyền thụ cho thế hệ sau những kinh nghiệm

lịch sử xã hội (chứa đựng những giá trị văn hóa của xã hội, kinh nghiệm xã hội
bao gồm: Những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, niềm tin, các thái độ …Tức làcác
chuẩn mực, các phương thức và các phương tiện của các hoạt động và giaolưu
của con người), thế hệ sau lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội đó biến nóthành
kinh nghiệm của bản thân, thành nhân cách của mình để có thể tham giavào
cuộc sống, tham gia vào hoạt động lao động sản xuất và các hoạt động xãhội
khác, cũng như các mối quan hệ xã hội. Nếu xét về phương diện xã hội thìgiáo
dục là sự truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội giữangười này
và người kia. Trong quá trình lĩnh hội và sử dụng những kinh nghiệm lịch sử xã
hội, nhân cách được hình thành và ngày càng phát triển đầy đủ hơn. Trong quá
trình đó các thế hệ sau không chỉ tiếp thu, lưu trữ, giữ gìn mà còn phát triển giá
trị văn hóa xã hội, do đó góp phần phát triển xã hội. Cho nên, sự kế tục các thế
hệ đó là quy luật của sự tiến bộ xã hội.
Về giáo dục đạo đức thì có nhiều định nghĩa khác nhau về giáo dục đạo
đức, tuy nhiên có thể hiểu giáo dục đạo đức như sau:
Giáo dục đạo đức là sự hướng dẫn và giảng dạy của hành vi tốt và giá trị.
Giáo dục đạo đức được dạy cho mọi người, mọi lứa tuổi cung cấp cho họ cảm
giác lịch sự và hợp pháp. Đây là một quá trình nhà sư phạm tổ chức có mục
đích, có kế hoạch cho người được giáo dục hình thành được ý thức đạo đức,
hình thành tình cảm đạo đức và thể hiện hành vi có giá trị đạo đức.
1.1.3. Khái niệm đạo đức cách mạng


19
Đạo đức cách mạngchính là đạo đức mới của giai cấp công nhân hay còn
gọi là đạo đức cộng sản. Nó mang bản chất của giai cấp công nhân, do giai cấp
công nhân xây dựng nên và nó vận động, phát triển gắn liền với cuộc đấu tranh
cách mạng của giai cấp công nhân. Vì vậy, đạo đức cộng sản phản ánh lợi ích
căn bản của giai cấp công nhân trong cách mạng vô sản, là vũ khí tinh thần giúp
giai cấp công nhân xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ

nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Theo Lênin, đạo đức cộng sản đó là "những gì góp
phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người
lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của người
cộng sản" [29; 41]. Như vậy đạo đức cộng sản là bước phát triển mới về chất,
phù hợp với tiến bộ xã hội. Là đạo đức của những con người đấu tranh cho tự
do, cho những giá trị cao đẹp của nhân loại, hướng con người vươn tới chân,
thiện, mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí minh đã chỉ rõ đạo đức cách mạng: “là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người” [31; 5]. Đạo đức mới, đạo đức cách mạng ở
nước ta được hình thành trong quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam để giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ
đất nước. Đó là nền đạo đức do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với
Đảng ta lãnh đạo xây dựng, phát triển. Là nền đạo đức mang bản chất của giai
cấp công nhân, được xây dựng trên cơ sở những quan niệm đạo đức của chủ
nghĩa Mác- Lênin, đồng thời kế thừa, tiếp thu những giá trị đạo đức tốt đẹp của
dân tộc và nhân loại. Nó là sự kết hợp, sự thống nhất biện chứng giữa lý tưởng
đạo đức với lý tưởng chính trị, giữa tính cách mạng và tính khoa học.
Từ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, của chủ tịch Hồ
Chí Minh và cũng là quan điểm của Đảng ta về đạo đức cách mạng. Từ đó ta có
thể quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức mới, hình thành trong cuộc đấu


20
tranh do giai cấp công nhân lãnh đạo; là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc,
chuẩn mực để điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của những người cách mạng
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin vào
mục đích, lí tưởng cộng sản, bởi sức mạnh của cách mạng, của truyền thống và
dư luận xã hội [37; 16].
Về nội dung của đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí Minh có thể khái quát

thành bốn nội dung cơ bản sau:
- Trung với nước, hiếu với dân: Đây là phẩm chất bao trùm nhất, quan
trọng nhất chi phối các phẩm chất khác, là điểm xuất phát mang tính cách mạng
trong quan niệm về đạo đức. "Trung với nước" là trung thành với sự nghiệp
dựng nước, giữ nước của nhân dân, của Đảng; "hiếu với dân" là đem lại cuộc
sống "ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân", "thương dân, gần dân, gắn bó với
dân, kính trọng lễ phép với dân, học tập dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc".
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
+ Cần: Là chuyên cần, cần mẫn. Mọi người cần phải có đức tính cần cù,
chủ động tích cực, sáng tạo mới mang lại hiệu quả cao trong công việc mà mình
đảm nhận. Tính hiệu quả là yêu cầu khách quan, là chuẩn mực quan trọng để
đánh giá cán bộ đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải chuyên cần, phải yêu, say mê
công việc của Đảng, của nhân dân giao phó như chính công việc của gia đình
mình. Phải tìm tòi, sáng tạo, phát hiện các sáng kiến, kinh nghiệm hay, vận dụng
vào thực tiễn có hiệu quả.
+ Kiệm: Là tiết kiệm, không xa xỉ hoang phí, mục đích của tiết kiệm là
nâng cao hiệu quả của lao động sản xuất, mọi người phải thực hành tiết kiệm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, việc gì không
nên tiêu sài dù một hào cũng không nên tiêu, việc gì đáng làm mà có ích cho


21
nhân dân cho đất nước thì dù có tốn đến bao nhiêu công, bao nhiêu của cũng vui
lòng, như thế mới đúng là tiết kiệm.
+ Liêm: Là trong sạch, không tham lam, không tham tiền của, địa vị, danh
lợi, không tham ăn ngon, mặc đẹp. Cán bộ, đảng viên phải lấy chữ Liêm làm
đầu, phải thường xuyên rèn luyện phẩm chất, liêm khiết trước nhân dân, trước
Đảng. Cán bộ, đảng viên phải thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho
nhân dân.
+ Chính: Là ngay thẳng, không tà, đứng đắn, là người làm việc công, phải

công tâm, công đức, chớ đem của công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm
việc công, việc gì cũng phải công minh chính trực, không nên tư ân, tư huệ hoặc
tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng người có tài năng, làm
được việc, thực sự cần, kiệm, liêm, chính.
+ Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư đối với người, với việc, ham
làm những việc ích nước lợi dân, không ham địa vị, công danh phú quý. Chí
công vô tư là chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà, chăm lo việc tập thể như
việc gia đình. Như vậy, chí công vô tư không phải là không chăm lo đến lợi ích
riêng, Bác chỉ yêu cầu trong quan hệ lợi ích chung và riêng phải hài hòa, nghĩ
lợi ích riêng nhưng cần tính toán ưu tiên đến lợi ích chung.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những phẩm chất đạo đức căn bản
của người cách mạng.
- Thương yêu, quý trọng con người: Người cách mạng, người có lý tưởng
xã hội chủ nghĩa không thể là người không có tình yêu thương con người. Rộng
lượng, khoan dung với người, biết cách nâng đỡ con người, thái độ tôn trọng con
người luôn gắn liền với yêu thương, quý trọng con người và đồng thời phải
nghiêm khắc với bản thân mình.


22
Tình yêu thương con người không chung chung trừu tượng, phi giai cấp mà
gắn với cuộc đấu tranh giải phóng, giành độc lập tự do cho dân tộc và tiến lên chủ
nghĩa xã hội; con người được giải phóng, được sống trong đất nước độc lập, trở
thành chủ nhân thật sự của đất nước, được "ấm no, tự do, hạnh phúc".
- Tinh thần quốc tế trong sáng: Theo Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước phải
gắn liền với tinh thần quốc tế trong sáng, chân chính. Nếu chỉ có tinh thần yêu
nước mà không có tinh thần quốc tế trong sáng, chân chính thì sẽ dẫn đến hoặc
kỳ thị dân tộc, chủng tộc, nước lớn hoặc dân tộc hẹp hòi. Tinh thần quốc tế trong
sáng chân chính là tinh thần quốc tế vô sản, đoàn kết các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản toàn thế giới trong cuộc đấu tranh cho tiến bộ, hòa bình, độc lập

dận tộc, hữu nghị, và chủ nghĩa xã hội(XHCN), chủ nghĩa cộng sản(CSCN).
1.2. Nội dung và phương thức giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
1.2.1.Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
Con người sinh ra, tồn tại và phát triển tất yếu phải nhận thức và cải tạo thế
giớitự nhiên, xã hội và bản thân. Việc nhận thức thường diễn ra từ đơn giản đến
phức tạp, con người ngày càng mở rộng tầm nhìn, tìm hiểu ngọn nguồn của hiện
thực. Kết quả nhận thức là những quan niệm, quan điểm, nguyên tắc, hình thành
lý tưởng, niềm tin, những định hướng giá trị chung và trở lại soi sáng định
hướng cho cuộc sống cụ thể của con người.
Việc giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên là một trong những định
hướng giáo dục của xã hội chủ nghĩa cơ bản và quan trọng. Để hiểu rõ về đạo
đức cách mạng phải có lý tưởng cách mạng, mà để có lý tưởng cách mạng phải
thông qua sự phân tích, chứng minh có căn cứ lý luận và thực tiễn sâu sắc. Việc
giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên đã
được đặt ra và giữ vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Bồi dưỡng sinh viên có nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, nâng cao
ý chí phấn đấu vì lý tưởng cao cả là độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng thành


23
công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong việc giáo dục, rèn luyện cán bộ,
đảng viên năm 1965 tại Hội nghị bồi dưỡng chỉnh huấn do Trung ương triệu tập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Người cộng sản chúng ta không một
chút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho tổ quốc hoàn toàn
độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên thế
giới”[36; 374].
Dựa trên quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về nội dung của đạo đức
cách mạng, đặc biệt là dựa trên quan điểm của Đảng ta về những phẩm chất cơ
bản của con người Việt nam trong giai đoạn mới, căn cứ vào quy định của Luật
giáo dục Việt Nam năm 2005 về mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu giáo

dục Đại học nói riêng, điều 2 của luật giáo dục xác định: “Mục tiêu giáo dục là
đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức tri thức sức khỏe,
thẫm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc” và “mục tiêu của
giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý
thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành tương xứng với
trình độ đào tạo, có sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
Quốc”(điều 39). Sinh thời Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Thanh niên là chủ
tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà yếu hay mạnh, thịnh hay suy một
phần lớn là do các thanh niên” [34;123].Đạo đức là một vấn đề tiên quyết của
việc xây dựng con người mới, theo Người cần giáo dục thế hệ trẻ những nội
dung sau:
Một là: Làm cho thế hệ trẻ nhận thức được đạo đức cách mạng, trung với
nước, hiếu là với dân, Hồ Chí Minh đã dùng đạo đức của Nho giáo. Nước ở đây
là nước của vua, trung với nước là trung thành với vua. Hiếu là hiếu thảo với cha
mẹ, thương yêu chăm sóc cha mẹ. Ta thấy, Hồ Chí Minh đã nâng cao hơn chuẩn


24
mực đó, trung là trung với nước, hiếu là hiếu với dân, phải có lòng yêu thương
nồng nàn, suốt đời phấn đấu hi sinh vì lợi ích của nhân dân “Nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Hiếu
không dừng ở hiếu với nhân dân, mà còn hiếu với đồng bào, gia đình và xã hội.
Vì vậy cần thương yêu nhân dân, sống lao động chiến đấu vì nhân dân. Thường
xuyên chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, việc gì có lợi cho dân thì
làm, việc hại cho dân thì hết sức trách, chống lại mọi biểu hiện phiền hà nhũng
nhiễu nhân dân, dựa vào dân, làm dân tin tưởng vào chế độ XHCN.
Hai là: Chú trọng phát triển những phẩm chất cao quý, cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:

“Trời có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
Đất có bốn phương đông, tây, nam, bắc.
Người có bốn đức cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời,
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Ở đây, “Cần” là cần cù, siêng năng lao động, học tập, “kiệm” là tiết kiệm thời
gian của cải, không hoang phí, xa xỉ “Còn “Liêm” là trong mọi tình thế luôn giữ
cho mình trong sạch, ngay thẳng, thật thà. Hồ Chí Minh mong muốn thế hệ trẻ
luôn trao dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, không kiêu căng tự mãn, không xa
hoa lãng phí.Cần kiệm trong lao động học tập và có đời tư trong sáng. Thực hành
tự phê bình và phê bình, thẳng thắn để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Ba là: Đạo đức cách mạng của thế hệ trẻ phải tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng, ra sức phấn đấu cho lý tưởng XHCN. Đảng cộng sản Việt
Nam là đội quân tiên phong, là người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi


25
đến bờ thắng lợi. Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng. Vì vậy, thế hệ trẻ
phải không ngừng học tập, nâng cao hiểu biết lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
nắm vững đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, phấn đấu hi sinh vì lợi ích
của nhân dân, vì lý tưởng XHCN và cộng sản chủ nghĩa với tinh thần “ Đâu cần
thanh niên có, đâu khó có thanh niên”
Bốn là: Giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ phải chú trọng cả đức
và tài. Tài ở đây Hồ Chí Minh nói đến sự hiểu biết tinh thông về văn hóa, khoa
học, chính trị, kỹ thuật, quân sự và khả năng vận dụng sự hiểu biết đó vào cuộc
sống. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh
tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm gì được
cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví nhưng
ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người”.[31;

222].Vì vậy, hai mặt đức và tài “ hồng” và “ chuyên”, phẩm chất và năng lực phải
kết hợp hài hòa với nhau làm cho thế hệ trẻ phát huy tài năng trí tuệ và tâm hồn
một cách toàn diện để xứng đáng những con người mới XHCN.
Năm là: Giáo dục đạo đức cách mạng của thế hệ trẻ là phải tự giáo dục, tự
rèn luyện. Vì tuổi trẻ là lứa tuổi đang trong giai đoạn phát triển mạnh về nhân
cách, với ham muốn tự khẳng định mình. Theo Hồ Chí Minh khi mặt tự giáo dục
thực sự đặt ra ở mỗi người thì việc giáo dục mới có hiệu quả và chắc chắn. Vì vậy,
người muốn nhắc nhở thế hệ trẻ phải tự tu dưỡng trên mọi phương diện: đạo đức,
lý tưởng, trình độ nghề nghiệp.
Đối với thiếu niên nhi đồng, Hồ Chí Minh khuyên: “Cácem cần rèn luyện
cái đức tính thành thật và lòng dũng cảm. Ở trường thì kính thầy yêu bạn đoàn kết
và giúp đỡ nhau, ở nhà thì kính yêu và giúp đỡ cha mẹ. Ở xã hội thì tùy sức mình
mà tham gia những công việc có lợi ích chung” [27; 74].Phải cố gắng học tập, cố
gắng lao động hơn nữa để sau này trở thành những người XHCN [33; 203]


×