Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh trung học cơ sở ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.09 KB, 112 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN NGUYÊN KHẢI

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Ở HUYỆN PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số : 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

Đồng Tháp, năm 2015


2

Lời cảm ơn
Trong quá trình học tập và làm đề tài luận văn tôi xin chân thành cảm ơn:
Lãnh đạo trường Đại học Vinh; Phòng Sau đại học trường Đại học Vinh;
Trường Đại học Đồng Tháp, Phòng Sau đại học trường Đại học Đồng Tháp và
quý thầy cô trong khoa Lý luận chính trị đã giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình
khóa học; Các giảng viên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập và làm luận văn, đặc biệt là PGS. TS Nguyễn Lương Bằng, người đã tận
tình động viên, chia sẻ và hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn này.


Để hoàn thành khóa học cũng như luận văn, tôi cũng xin chân thành cảm
ơn các cơ quan Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội huyện Phú
Quốc; Xin cảm ơn lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo Phú Quốc và các trường
Trung học cơ sở đã tạo điều kiện cung cấp một số số liệu, tư liệu, thông tin cần
thiết giúp toàn hoàn thành luận văn. Lãnh đạo trường THCS An Thới 1, cùng
tập thể giáo viên và học sinh đã tạo điều kiện giúp đỡ về mặt thời gian cũng như
cung cấp một số tư liệu, thông tin cần thiết để tôi hoàn thành luận văn; Tôi cũng
xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, đặc biệt là người cha kính yêu quá
cố của tôi đã hết sức động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập cũng
như hoàn thành luận văn.
Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện song luận văn sẽ không tránh
khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô giáo, các anh chị
và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đồng Tháp, ngày 1 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Trần Nguyên Khải


3

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục

Trang
1
2

3

Danh mục các chữ viết tắt

5

MỞ ĐẦU

6

NỘI DUNG

12

Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh

12

trung học cơ sở
1.1. Giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng
1.2. Giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh trung học cơ sở trong

12

bối cảnh hiện nay
Kết luận chương 1
Chương 2: Thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh

31
45


trung học cơ sở ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá xã hội ảnh hưởng tới việc

46

giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh trung học cơ sở ở huyện
Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
2.2. Tình hình, đặc điểm học sinh và các trường trung học cơ sở ở

46

huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
2.3. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh

53

trung học cơ sở trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang

55
76

Kết luận chương 2
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh trung học cơ sở ở huyện
Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang

78



4

3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng
cho học sinh trung học cơ sở ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
3.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức

78

cách mạng cho học sinh trung học cơ sở ở huyện Phú Quốc, tỉnh
Kiên Giang
Kết luận chương 3
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐD CMHS

Ban đại diện cha mẹ học sinh

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

81
107
108

110


5

CT-XH

chính trị - xã hội

CSVC

Cơ sở vật chất

GDCD

giáo dục công dân

GDĐT

Giáo dục đào tạo, giáo dục và đào tạo

GS.TS

Giáo sư, Tiến sỹ

GVBM

giáo viên bộ môn

GVCN


giáo viên chủ nhiệm

KT-XH

kinh tế xã hội

Nxb

Nhà xuất bản

TDTT

Thể dục thể thao

THCS

Trung học cơ sở

TH-THCS

Tiểu học - Trung học cơ sở

TNCS

Thanh niên Cộng sản

TNTP

Thiếu niên tiền phong


TPT

Tổng Phụ trách

VH-XH

Văn hoá – xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội
trước hết cần có con người Xã hội chủ nghĩa”. Con người Xã hội chủ nghĩa
(XHCN) đó là con người: “phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo
đức, thể chất, năng lực, sáng tạo, có ý thức cộng đồng, có lòng nhân ái, khoan


6

dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình,
cộng đồng và xã hội”. Sự khẳng định đó hết sức đúng đắn xuất phát từ đòi hỏi
cơ bản nhất của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Nếu ví con người XHCN như cây tre rắn chắc, thì ta phải nghĩ ngay đến
măng tre đang nhô mình khỏi đất. Nếu măng được uốn nắn từ nhỏ, thì lớn lên
mới thành cây tre thẳng. Cũng như vậy, con người XHCN tương lai chính là lớp
thanh, thiếu niên, nhi đồng trong hiện tại. Để xây dựng con người XHCN thì

chúng ta phải giáo dục, rèn luyện lớp trẻ em này, nhất là học sinh trung học cơ
sở (THCS), lứa tuổi đang hình thành nhân cách và định hình lý tưởng.
Tuy nhiên, lý tưởng cộng sản, nhiệt huyết cháy bỏng, khát vọng lớn lao
của những con người có thể trở thành con người XHCN như Võ Thị Sáu, Lê
Văn Tám, Lý Tự Trọng…đã hiếm dần. Thực trạng đạo đức cách mạng của
học sinh THCS hiện nay đang nổi lên một số vấn đề đáng lo ngại. Một bộ
phận thiếu niên sống thiếu niềm tin, lí tưởng, chạy theo lối sống cá nhân, thực
dụng, sa vào các tệ nạn xã hội, tiếp thu thiếu chọn lọc lối sống thực dụng từ
bên ngoài…
Để phát huy tính tích cực và điều chỉnh những lệch lạc trong suy nghĩ,
hành động của học sinh THCS, hơn lúc nào hết, ngoài việc giáo dục tri thức,
kỹ năng sống. . . phải hết sức quan tâm giáo dục đạo đức cách mạng. Đại hội
X của Đảng ta chủ trương phải “Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên
khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp của
bản thân với tương lai của cộng đồng, dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh
viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại”.
Vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Cho đến nay đã có khá nhiều công trình
được công bố, trong đó có những công trình liên quan đến đề tài có thể phân
chia thành nhóm các vấn đề.
Nhóm những vấn đề lý luận chung về đạo đức


7

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, biến đổi cùng với sự biến đổi của
xã hội, đạo đức mang tính giai cấp và có tính độc lập tương đối với tồn tại xã
hội. Vì vậy các nhà lý luận luôn quan tâm đến vấn đề này, chẳng hạn "Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng". Nxb Sự thật. Hà Nội. Năm 1976. "Chủ động và
tích cực xây dựng đạo đức mới". Nxb Sự thật. Hà Nội. Năm 1983.

- "Tư tưởng đạo đức cách mạng - truyền thống, dân tộc, nhân loại", Vũ
Khiêu (chủ biên). NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1993. “Giáo dục tư
tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới”. Phạm Đình
Nghiệp. Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999. “Giá trị truyền thống trước những
thách thức của toàn cầu hóa” Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên. Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Năm 2002. “Giáo trình đạo đức học”. Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh- Khoa Triết học. Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Năm 2000.
- “Giáo trình Mỹ học Mác – Lênin”. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Năm 2003. “Thông tin những vấn đề
triết học và đời sống”. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Triết
học. Năm 2004. “Tư tưởng đạo đức cách mạng - truyền thống, dân tộc, nhân
loại”. Vũ Khiêu. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Năm 1993.“Giáo trình Đạo
Đức học”. Trần Hậu Kiểm (chủ biên). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Năm 1997.
- “Giáo dục truyền thống cho thanh niên”. Lương Ngọc. Nxb Thanh niên,
Hà Nội. Năm 1992.
Nhóm thứ hai những bài viết có liên quan đến đề tài
- “Truyền thống đạo đức trọng nhân nghĩa và ảnh hưởng của nó đối với
sinh viên hiện nay” (Nguyễn Lương Bằng).Tạp chí Giáo dục, Số 4 (2006), 1315. “Sinh viên với việc học tập đạo đức Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập
quốc tế”. Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông. Học viện Chính trị – Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh – Học viện báo chí và tuyên truyền, Số 5 (2009), 48 -


8

51. “Những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cho thanh
thiếu niên tỉnh Nghệ An” (đồng tác giả), Sách nghiên cứu, Nxb Nghệ An.
Năm 2004.
- "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển của

xã hội hiện đại" (Lương Quỳnh Khuê). Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 51986. “Đến hiện đại từ truyền thống”. (GS Trần Đình Hượu). Tạp chí Triết học,
số 4-1992. Nxb Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
- “Truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa Đất
nước”. (GS Phan Huy Lê). Nxb Hà Nội. Năm 1995. "Lý tưởng đạo đức và việc
giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay". (Đoàn Văn
Khiêm). Tạp chí Triết học, số 3, 2001.v.v..
Nhóm thứ ba là những luận án, luận văn có liên quan đến đề tài
Bao gồm “Chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng trong các trường sĩ
quan ngoại ngữ quân đội nhân Việt Nam”. (Cao Ngọc Hải). Luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị, Hà Nội. Năm 2005. “Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Bắc Giang hiện
nay”. (Dương Quốc Quân). Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội. Năm 2005.
“Đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục ở các trường thuộc
Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh hiện nay – thực trạng và giải
pháp”. (Trần Thị Thanh). Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị. Hà Nội.
Năm 2005.
Các chuyên khảo, đề tài, bài viết đã nghiên cứu đạo đức cách mạng và giáo
dục đạo đức cách mạng dưới nhiều góc độ khác nhau, đề xuất nhiều giải pháp
tiến hành giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, giáo viên và học
sinh. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện về chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS ở huyện
Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.


9

Phú Quốc là một huyện đảo của tỉnh Kiên Giang. Trong tương lai Phú
Quốc sẽ trở thành đặc khu kinh tế, khu nghỉ dưỡng, du lịch có tầm cỡ quốc gia,
khu vực và quốc tế. Cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện đại
hoá (HĐH), Phú Quốc đang rất cần lực lượng lao động trẻ có phẩm chất đạo

đức, lý tưởng, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu phát triển trong
tương lai. Vì thế, ngay từ bây giờ, các nhà trường phải đào tạo ra những con
người vừa “hồng”, vừa “chuyên” đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho địa
phương, góp phần thực hiện thành công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Để đáp ứng đòi hỏi trên phải có giải pháp kịp thời, tích cực nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS ở huyện Phú
Quốc, tỉnh Kiên Giang. Với những lí do trên tôi chọn vấn đề: “Giáo dục đạo
đức cách mạng cho học sinh trung học cơ sở ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS
ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS.
Phân tích vai trò và ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh
THCS, những nhân tố tác động đến quá trình giáo dục đạo đức cách mạng cho
học sinh THCS trong điều kiện hiện nay.
- Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS ở
huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ


10

thể đáp ứng yêu cầu phát triển của huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong giai
đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng
cho học sinh THCS ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang từ năm 2010 đến nay và
định hướng giải pháp đến năm 2020. Nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cách
mạng cho học sinh THCS dưới góc độ chính trị học. Tập trung nghiên cứu sự
chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, các tổ chức chính trị - xã hội (CT – XH), nhà
trường, cán bộ giáo viên, xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, cơ sở vật
chất (CSVC). . . của các nhà trường THCS ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Đề tài sử dụng các phương pháp
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp
lịch sử và lôgíc, phương pháp nghiên cứu tài liệu, ...
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra xã hội học,
thống kê, khảo sát, phương pháp phỏng vấn, phân tích và tổng hợp. . .
6. Đóng góp của đề tài
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh
THCS và thực trạng chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS
trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu
để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh THCS ở
huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục đạo đức cách
mạng cho học sinh THCS ở huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang; làm tài liệu tham


11

khảo để nghiên cứu, định hướng, quản lý chỉ đạo và thực hiện các hoạt động

giáo dục đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng


12

1.1.1. Khái niệm giáo dục, đạo đức, cách mạng, đạo đức cách mạng
Giáo dục: "Giáo dục" theo từ tiếng Anh là "Education" - vốn có gốc từ
tiếng La tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra", tức là "giáo dục là quá trình,
cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".
Giáo dục được coi là một hiện tượng xã hội, hiện tượng này nảy sinh, tồn
tại, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, trong đó nổi bật là
việc các thế hệ đi trước truyền thụ lại kinh nghiệm sống, sản xuất, hoạt động xã
hội nói chung cho các thế hệ đi sau. Các nhà nghiên cứu lịch sử giáo dục học đã
chứng minh rằng: Từ thời cổ xưa cho đến nay, khi nói đến giáo dục là nói đến
những tác động làm phát triển con người cả về thể chất lẫn tâm hồn. Xã hội ngày
càng phát triển, nội dung kinh nghiệm ngày càng phong phú và việc truyền thụ
kinh nghiệm ngày càng được chuyên môn hóa. Vì vậy, xã hội dần dần xuất hiện
những nhà tri thức – nghề dạy học ra đời. Như vậy, nếu xét theo phương diện
lịch sử, giáo dục là hiện tượng xã hội, trong đó, thế hệ trước truyền cho thế hệ
sau những kinh nghiệm lịch sử xã hội bao gồm: tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, niềm
tin, thái độ …tức là các chuẩn mực, phương thức và phương tiện của hoạt động

và giao lưu của con người, thế hệ sau lĩnh hội kinh nghiệm xã hội đó biến nó
thành kinh nghiệm của bản thân, thành nhân cách của riêng mình để có thể tham
gia vào cuộc sống, lao động sản xuất và các hoạt động xã hội khác, cũng như các
mối quan hệ xã hội. Nếu xét về phương diện xã hội thì giáo dục là sự truyền thụ
và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử xã hội giữa người này và người kia.
Trong quá trình lĩnh hội và sử dụng những kinh nghiệm lịch sử xã hội, nhân
cách được hình thành và ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Trong quá trình
đó thế hệ sau không chỉ tiếp thu, lưu giữ mà còn phát triển các giá trị văn hóa xã
hội, do đó góp phần phát triển xã hội. Vì thế, sự kế tục các thế hệ là quy luật của
sự tiến bộ xã hội. Việc truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm đã được tích luỹ trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người là nét đặc trưng cơ bản của giáo dục với
tư cách là một hiện tượng xã hội. Nó là nhu cầu sống còn của con người, là chức
năng không thể thiếu của xã hội loài người. Dù là xã hội nào, thì mục đích của
giáo dục đều là chăm sóc, bồi dưỡng con người, là truyền thụ một cách có ý thức


13

cho thế hệ sau những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hóa – tinh thần của
loài người và của dân tộc nhằm làm cho thế hệ sau có khả năng tham gia mọi
mặt của cuộc sống góp phần phát triển xã hội.
Vì vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người, giáo dục mang tính phổ biến và tồn tại cùng với
xã hội loài người.
Đạo đức: Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư
tưởng đạo đức học đã xuất hiện rất lâu trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn
Độ, Hy Lạp cổ đại. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) lề thói, moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa. Còn “luân lí”
thường xem như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos
nghĩa là lề thói, tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức,
tức là nói đến lề thói, tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với

người trong giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai
khái niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học.
Ở Phương Đông, các học thuyết đạo đức của người Trung Hoa cổ đại bắt
nguồn từ cách hiểu về “đạo” và “đức” của họ. “Đạo” là một trong những phạm
trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. “Đạo” có nghĩa là con
đường, đường đi, về sau khái niệm “đạo” được vận dụng trong triết học để chỉ
con đường của tự nhiên. “Đạo” còn có nghĩa là con đường sống của con người
trong xã hội. Khái niệm đạo đức xuất hiện lần đầu tiên trong kinh văn đời nhà
Chu và từ đó nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng. “Đức” dùng để nói đến
nhân đức, đức tính và nhìn chung “đức” là biểu hiện của đạo, là nguyên tắc luân
lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những
yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân thủ.
Hầu hết các quan điểm đương đại đều thống nhất cho rằng: đạo đức là
một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã
hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ


14

với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Quan điểm duy vật lịch sử về đạo đức đã khẳng định rằng, với tư cách
một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có nguồn gốc từ những điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội, từ cơ sở kinh tế - xã hội (KT – XH). Nghĩa là đạo đức nảy
sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở
KT - XH nảy sinh và quyết định; quan hệ đạo đức là biểu hiện quan hệ vật chất
xã hội và biến đổi theo đời sống vật chất xã hội. Trong quá trình phát triển xã
hội, trên cơ sở phát triển sản xuất vật chất mà đạo đức dần được hoàn thiện. Đạo
đức phát triển từ thấp đến cao cùng với sự phát triển của các hình thái KT-XH,
thông qua đấu tranh, lọc bỏ, kế thừa để tiến bộ và phát triển không ngừng. Tuy

là sản phẩm của kinh tế, đạo đức cũng có tác động mạnh mẽ trở lại, có khả năng
tạo ra những biến đổi to lớn đối với đời sống KT - XH.
Nhờ có đạo đức và thông qua đạo đức, những chuẩn mực xã hội mới phát
huy hết chức năng điều chỉnh hành vi, hoạt động giao tiếp và hành vi ứng xử của
con người nhằm đảm bảo sự thống nhất cần thiết giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể và lợi ích chung của cộng đồng. Có thể nói, đạo đức là nội dung cốt yếu của
tính cách con người, nó có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội. Vì vậy,
các giai cấp, các tập đoàn xã hội bao giờ cũng sử dụng đạo đức như là một công
cụ, một động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, đạo đức cũng luôn
thay đổi tùy theo sự thay đổi của tồn tại xã hội, thay đổi từ thời đại này sang thời
đại khác, từ dân tộc này đến dân tộc khác. Nếu không thấy quy luật này, không
nhìn giá trị đạo đức với một quan điểm biện chứng và lịch sử thì nhất định sẽ
mắc vào những sai lầm của Chủ nghĩa bảo thủ và sẽ không phù hợp trong
xã hội mới.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức sinh ra trước hết là
từ nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong đấu tranh
xã hội, trong phân phối sản phẩm để con người tồn tại và phát triển. Cùng với sự


15

phát triển của sản xuất, các quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức
đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó ngày càng phát triển, ngày càng nâng
cao, phong phú, đa dạng và phức tạp.
Đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố khách quan và chủ quan, là
sản phẩm của hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ
con người – con người, cá nhân - xã hội càng có ý thức, tự giác, ý nghĩa và hiệu
quả của chúng càng có tính chất xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người
càng có đạo đức. Trong tập 3, Mác, Ăngghen toàn tập nêu rõ đạo đức “đã là một
sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.

Cách mạng là “Cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản được thực
hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời lập nên một chế độ xã hội mới,
tiến bộ” [1, tr.99]. Cách mạng là xóa bỏ cái cũ và thay thế cái mới tiến bộ hơn,
là một thay đổi sâu sắc, thường là xảy ra trong một thời gian tương đối ngắn.
Các cuộc cách mạng có thể dẫn đến một thay đổi trong các thể chế CT - XH,
hoặc một thay đổi lớn trong một nền kinh tế hay văn hóa. Cách mạng đã từng
xảy ra trong các lĩnh vực như: xã hội, chính trị, văn hóa, kinh tế, công nghiệp …
kéo theo việc hình thành những chuẩn mực đạo đức mới.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), tinh thần yêu nước
được Đảng nâng lên một tầm cao mới, đưa dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác và đã trở thành tinh hoa đạo đức cách mạng của dân tộc Việt
Nam trong hơn 85 năm qua. Từ đó đến nay, nước ta đã hoàn thành các cuộc
cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ là “Cách mạng chống đế quốc và phong
kiến, giành độc lập dân tộc và dân chủ, thực hiện những nhiệm vụ của cách
mạng dân chủ tư sản” [1, tr.99]. Cách mạng giải phóng dân tộc là “Cách mạng
nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của Chủ nghĩa đế quốc, giành độc
lập dân tộc” [1, tr.99] Cách mạng XHCN là “Cách mạng nhằm thủ tiêu chế độ
người bóc lột người và xây dựng CNXH”.


16

Đạo đức cách mạng: Theo Hồ Chí Minh: “Đạo đức cách mạng là trung
với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc,
vì Chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn
yêu thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế
trong sáng… Và đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của
người cách mạng" [18, tr.305]. Đạo đức cách mạng là nhằm giải phóng và đem
lại hạnh phúc, tự do cho con người, đó là đạo đức của những con người được

giải phóng là sự thương yêu, tôn trọng tất cả các dân tộc, nhân dân các nước,
chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một trang sử mới cho dân
tộc Việt Nam. Đảng đã vận dụng Chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào đấu
tranh của dân tộc Việt Nam. Đảng đã thức tỉnh hàng triệu con người Việt Nam,
trong đó có thanh niên về tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng, tiếp cận chân lý
sáng ngời. Lý Tự Trọng - một trong 13 đoàn viên đầu tiên của Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh, đã anh dũng hy sinh khi anh vừa 17 tuổi, khi thực dân Pháp xem xét
để tha bổng vì anh chưa đủ tuổi thành niên, nhưng anh đã cương quyết tuyên bố
với kẻ thù rằng: “Tôi hành động có suy nghĩ, tôi hiểu việc tôi làm, tôi làm vì
mục đích cách mạng, chưa đến tuổi trưởng thành nhưng tôi đã đủ trí khôn để
hiểu con đường của thanh niên là con đường cách mạng”.
Trong “Bản Tuyên ngôn độc lập” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc trước
đồng bào cả nước: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...”. Đây cũng là lời
tuyên bố trước thế giới biết rằng: “... Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và thật sự đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”[17, tr.4]


17

Đất nước giành độc lập không lâu, thì thực dân Pháp quay trở lại xâm
lược Việt Nam. Cả dân tộc Việt Nam cùng đứng lên đánh giặc giữ nước, cả
nước triệu người như một, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc”[17, tr.480] toàn dân đứng dậy đánh
giặc cứu nước.Trong cuộc chiến đấu này, có những người con đã anh dũng “cảm

tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đến
chiến dịch Điện Biên Phủ suốt chín năm cả “đất nước đứng lên” làm nên một
chiến thắng Điện Biên Phủ “Chấn động địa cầu”. Trong chiến dịch này nổi lên
những anh hùng lấy thân mình “làm giá súng”, “lấp lỗ châu mai”, tiêu biểu cho
chủ nghĩa yêu nước và đạo đức cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954). Việt Nam thực hiện hai cuộc cách mạng
XHCN và cách mạng giải phóng dân tộc. Nhân dân hai miền Nam - Bắc cùng
đoàn kết, gắn bó sắt son trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong
thời kỳ này, đạo đức cách mạng là thanh niên “ba sẵn sàng”, phụ nữ “ba đảm
đang”, “một người làm việc bằng hai”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “xe
chưa qua nhà không tiếc”, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”.v.v..Với tinh thần đạo đức cách mạng đó trong công cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, hàng chục triệu đồng bào ta đã chiến đấu anh dũng hy sinh
giành lại độc lập tự do cho dân tộc, có những người mẹ đã động viên chồng con
ra tiền tuyến, nhiều thanh niên gác bút nghiên xung phong ra trận, trong đó có
những lá đơn xin nhập ngũ viết bằng máu. Trong giai đoạn này, tất cả đều giành
cho tiền tuyến, có những người con đã anh dũng hy sinh khi tuổi đời mới chỉ
mười tám, đôi mươi.
Có được những chiến công ở Khe Sanh, Ấp Bắc, Vạn Tường, Xuân Mậu
Thân 1968, Thành cổ Quảng Trị với 81 ngày đêm “mùa hè đổ lửa”, “Điện Biên
Phủ trên không”... là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đứng đầu là Hồ
Chí Minh vĩ đại. Trong phong trào đó đã đào tạo nên những người có đạo đức


18

cách mạng tiêu biểu như anh hùng Nguyễn Viết Xuân với câu khẩu hiệu: “nhằm
thẳng quân thù mà bắn”, anh hùng Nguyễn Văn Trỗi “có những phút làm nên
lịch sử, có những con người hoá thành bất tử”. Với lòng căm thù giặc sâu sắc và
tình yêu quê hương tha thiết, với tinh thần cách mạng của nhân dân ta, trong

vòng 21 năm trường kỳ kháng chiến, dân tộc ta đã làm nên một đại thắng mùa
Xuân năm 1975 “đánh cho Mỹ cút” rồi đến “đánh cho Ngụy nhào”, đưa non
sông thu về một mối, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên phạm
vi cả nước, đưa cả nước tiến lên XHCN.
Đánh giá sự thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Báo cáo
chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã ghi rõ: “Năm
tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang
chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và trí tuệ con người, đã đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ
đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời
đại sâu sắc” [12, tr.71]
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập,
thống nhất và quá độ lên CNXH, nhiệm vụ cách mạng của thời kỳ này là: “Nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất,
Cách mạng khoa học - kỹ thuật, Cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó Cách
mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH; xây dựng chế độ làm
chủ tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn XHCN, xây dựng nền văn hoá
mới, xây dựng con người mới XHCN; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá
bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố
quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ
quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và XHCN; góp phần tích cực vào


19

cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
CNXH” [12,tr.54]. Từ năm 1986, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ kinh tế tập

trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự định hướng XHCN. Đạo đức cách mạng trong công
cuộc đổi mới được các Đại hội Đảng cụ thể hóa hướng tớí những hành động đưa
đất nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển cơ bản trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020 vì mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Ngày nay đất nước không còn chiến tranh, đạo đức cách mạng là phải thực
hiện đồng bộ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí
Minh đã từng nói: “Các Vua Hùng có công dựng nước. Bác cháu ta cùng nhau
giữ lấy nước”. Ngày nay, xây dựng CNXH phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Đạo đức cách mạng là thể hiện tinh thần đem hết khả năng của
mình trong việc xây dựng đất nước nhằm đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, kém phát triển. Những gương sáng về học tập, lao động và nghiên cứu khoa
học ngày càng nhiều. Ngày càng có nhiều “hoa trạng nguyên”, doanh nhân, “sao
vàng đất Việt” đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc xây dựng đất nước. Chúng
ta cần phải nêu cao tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu chống phá cách mạng
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Đấu tranh trên mặt trận trị an,
phòng chống các loại tội phạm, phòng chống tham nhũng, các tệ nạn xã hội để
lành mạnh hoá xã hội. Đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay còn thể hiện
tinh thần quốc tế cao cả: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” [13,
tr.217]. Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung
sướng, vẻ vang hơn là trau rồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp xây dựng CNXH và giải phóng loài người”.


20


1.1.2. Giáo dục đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng một yếu tố hợp thành hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh
và bị quy định bởi tồn tại xã hội. Điều đó có nghĩa là, các quan niệm, quan điểm,
nguyên tắc, chuẩn mực, lý tưởng, niềm tin và tình cảm đạo đức… tức toàn bộ ý
thức đạo đức, xét đến cùng, đều là biểu hiện của một trạng thái, một trình độ phát
triển nhất định những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Như vậy, đạo đức
phản ánh tồn tại xã hội, mang bản chất xã hội. Đạo đức mang bản chất xã hội, nó
chỉ xuất hiện trong xã hội loài người. Trong thế giới động vật không có đạo đức.
Một số quan điểm đạo đức hạ thấp đạo đức xuống quy luật sinh tồn như loài vật
là sai lầm. Trong đời sống xã hội con người luôn đấu tranh vươn tới không chỉ
do sự sinh tồn, mà còn là hoàn thiện bản chất nhân văn, nhân đạo và tiến bộ.
Chính những nhu cầu bên trong vốn có đó mà loài người sáng tạo ra những giá
trị đạo đức. Cuộc đấu tranh để vươn tới cái nhân đạo, nhân văn, tiến bộ và hoàn
thiện nhân cách con người là quá trình không ngừng đào thải những cái phản
nhân đạo, nhân văn. Đó là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác. Lịch sử phát triển
đạo đức trải qua những giai đoạn, những bước thăng trầm khác nhau, nhưng xu
thế chung và cuối cùng cái thiện sẽ chiến thắng. Cuộc đấu tranh đó xuyên suốt
lịch sử và trên bề rộng toàn bộ các lĩnh vực xã hội. Bởi cái thiện bao giờ cũng
đại diện cho xu hướng phát triển.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội bao gồm ý thức đạo đức, hành vi đạo
đức, quan hệ đạo đức. Tiếp cận đạo đức phải xác định nó là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng. Nó không chỉ là tư tưởng mà còn là hành vi, quan hệ và
hành động đạo đức. Đạo đức cũng là một chỉnh thể bao gồm các yếu tố khác
nhau trong tính thống nhất. Bản chất đạo đức là cái phản ánh hiện thực xã hội,
tức là đạo đức hình thành, phát triển trên nền tảng hiện thực là cơ sở hạ tầng ấy.
Như vậy, sự phát triển đạo đức phụ thuộc vào phát triển của nền tảng kinh tế, cơ
sở hạ tầng xã hội.


21


Cùng với tính thời đại và tính dân tộc, Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý đến tính
giai cấp của đạo đức. Trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp, mỗi giai cấp
có vai trò, địa vị khác nhau trong hệ thống KT- XH, do đó, họ có các lợi ích khác
và đối nghịch nhau và ông cho rằng, trong xã hội có phân chia giai cấp, mỗi hệ
thống đạo đức đều biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Đạo đức với tư
cách là hình thái ý thức xã hội đã phản ánh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp,
ý thức đạo đức giúp mỗi giai cấp hiểu được lợi ích của nó, hiểu được những cách
thức, biện pháp bảo vệ và khẳng định lợi ích giai cấp, mỗi giai cấp đều sử dụng đạo
đức của mình như là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Như vậy, tính giai cấp của
đạo đức là biểu hiện đặc trưng bản chất xã hội của đạo đức trong xã hội có giai cấp,
ý thức đạo đức mang bản chất giai cấp sâu sắc. Bản chất giai cấp của đạo đức là
mỗi giai cấp khác nhau có hệ thống chuẩn mực, quan hệ đạo đức khác nhau.
Trong xã hội có giai cấp thì xung đột giá trị, chuẩn mực đạo đức diễn ra gay go,
quyết liệt. Do đó, không có đạo đức chung chung, đứng trên mọi sự phân biệt giai
cấp, trong xã hội có giai cấp, các chuẩn mực, giá trị đạo đức của giai cấp thống trị
đóng vai trò chi phối toàn bộ đời sống đạo đức xã hội và áp đặt truyền bá trong
toàn xã hội. Kế thừa và phát triển tư tưởng trước đó, C.Mác viết: “Nếu như lợi ích
đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích
riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người” [9, tr.199200]
Đối với ông, vấn đề không phải ở chỗ đối lập một cách tách rời giữa lợi ích và
đạo đức, mà là giải quyết như thế nào quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
để hành vi thực hiện lợi ích của con người trở thành hành vi đạo đức. Lợi ích cá
nhân, khi phù hợp với lợi ích xã hội thì trở thành một bộ phận của lợi ích xã hội; và
trong trường hợp đó, hành vi thực hiện lợi ích cá nhân là chính đáng về mặt đạo
đức. Tuy nhiên, trong điều kiện xã hội còn phân chia giai cấp thì lợi ích cá nhân
khó có thể phù hợp với lợi ích xã hội một cách phổ biến. Vì vậy, ra sức làm cho lợi
ích của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người có nghĩa là, ra



22

sức đấu tranh cho sự hình thành xã hội Cộng sản chủ nghĩa, nơi mà lợi ích cá nhân
hoàn toàn thống nhất với lợi ích xã hội, của loài người. Theo C.Mác đạo đức không
phải là sự phản ánh trực tiếp cơ sở kinh tế, quan hệ giữa kinh tế với đạo đức không
phải là quan hệ đơn trị, một chiều. Vì vậy, không phải mọi biến đổi nào trong cơ sở
kinh tế cũng đều nhất thiết và ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi tương ứng trong đạo
đức. Nhìn nhận đạo đức như một hình thái ý thức xã hội, C.Mác không những đã
chỉ ra tính quy định của kinh tế đối với đạo đức, mà còn cho thấy những ảnh
hưởng của triết học, chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo… nghĩa là toàn bộ đời
sống tinh thần đối với đạo đức. Đồng thời ông cũng chỉ ra sự kế thừa đó lại bị quy
định bởi lợi ích giai cấp đang tiến hành xây dựng hệ thống đạo đức của mình.
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin rất coi trọng giáo dục đạo
đức. C.Mác, Ph.Ăngghen cho rằng: chỉ có một cuộc cách mạng mới cho phép
giai cấp đi lật đổ giai cấp kia vứt bỏ được mọi sự thối nát cũ khỏi bản thân mình
và trở thành có năng lực xây dựng xã hội trên cơ sở mới.
Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là “gốc”, là “nền tảng”, là cái “căn
bản” của người cách mạng. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức và
luôn quan tâm đến việc giáo dục đạo đức trong sự nghiệp trồng người. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm niệm “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Điều đó đã lý giải vì sao suốt cuộc đời và
sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giáo dục và đào tạo con
người, nhất là giáo dục đạo đức. Người luôn cho rằng, “hiền dữ phải đâu là tính
sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Đối với Người, việc quan tâm đến giáo
dục là vì muốn “đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà”.
Những công dân tốt, những cán bộ tốt đó, đương nhiên phải có đủ cả
đức lẫn tài.
Giáo dục đạo đức cách mạng chính là phương thức và quá trình chuyển
những nguyên tắc, những chuẩn mực, những quan điểm và lý tưởng đạo đức của
xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, thành nhu cầu và tình cảm đạo



23

đức, thành niềm tin và tri thức, thành trách nhiệm và nghĩa vụ, thành ý chí và
động cơ cá nhân, thành năng lực sáng tạo và đánh giá đạo đức của mỗi con
người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, công việc này phải tiến hành thường
xuyên, phải “rèn luyện bền bỉ hàng ngày”, đây cũng là một công việc hết sức
khó khăn, nó đòi hỏi một sự nỗ lực, tính tự kiềm chế và cả đức tính kiên trì.
Đảng Cộng sản Việt Nam sớm nhận thấy rằng, trong điều kiện cơ chế thị
trường, mở cửa với thế giới, cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác
động của nhiều nhân tố phức tạp, kể cả sự chống phá của các thế lực thù địch,
vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân và phẩm chất, đạo đức cộng sản
đứng trước những thách thức mới. "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém
ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức và lối sống. Một số thoái hóa về chính
trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu"[13, tr.93]. Đại
hội IX của Đảng (4-2001) cũng thẳng thắn chỉ ra rằng: "Tình trạng tham nhũng,
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán
bộ, Đảng viên là rất nghiêm trọng"[13, tr.93]. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ
máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe
dọa sự sống còn của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đánh giá: Cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa
đạt yêu cầu và nêu rõ: "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng". Đảng nhìn nhận
một cách thẳng thắn, nghiêm túc. Có thể quy lại ba nguyên nhân chính như sau:
Một là, do tác động của nhiều nhân tố phức tạp trong điều kiện của nền
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường, mở cửa với bên ngoài.
Hai là, công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng

viên của các tổ chức đảng chưa được chú ý đúng mức, thậm chí còn buông lỏng.


24

Ba là, không ít cán bộ, đảng viên mang nặng chủ nghĩa cá nhân, không
chịu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức cách mạng.
Để chặn đứng đà suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên,
một mặt, phải chủ động phòng ngừa những tác động tiêu cực từ bên ngoài; mặt
khác, chủ yếu và quan trọng và phải tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện cán
bộ, đảng viên và mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự nghiêm túc tự rèn luyện, tự
mình nâng cao đạo đức cách mạng của chính bản thân mình.
1.1.3. Những yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển đạo đức.
Đạo đức xét đến cùng là sự phản ánh của các mối quan hệ KT - XH. Giá
trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của
con người. “Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát
khỏi ách bóc lột lao động”. Bàn về đạo đức cách mạng, Lênin cho rằng: “Đó là
những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất
cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội
mới của những người cộng sản”. Đây là quan niệm mang tính cách mạng và
khoa học về đạo đức mà các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới.
Đạo đức ngoài sự chi phối của các điều kiện KT - XH, còn chịu tác động của sự
tự ý thức và niềm tin về bản thân mình, về dân tộc, giai cấp theo những lý tưởng
và những định hướng giá trị nhất định. Do đó, đạo đức có tính độc lập tương đối.
Cho nên sự giàu có về vật chất sẽ giàu có về tinh thần đạo đức và ngược lại.
Quan điểm “Đức là gốc” của con người xuất hiện từ xưa trong học thuyết
“đức trị” của Nho giáo. Rõ ràng, quan điểm “đức là gốc” của Nho giáo chứa
đựng những yếu tố hợp lý nhất định. “Đức là gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
là đạo đức mới, đạo đức cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân loại.

Quan điểm “Đức là gốc” của Hồ Chí Minh với những nội dung như sau:
Thứ nhất: Đạo đức là “gốc”, là nền tảng của người cách mạng, giống như
cây phải có gốc, sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức


25

cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ
gian khổ khó khăn. Trong “Đường Kách mệnh” tác phẩm “gối đầu giường” của
những người cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giành chương đầu tiên để
bàn về tư cách người cách mạng, sau đó mới nói về lý luận và đường lối cách
mạng. Với Hồ Chí Minh, “Đức là gốc” cho nên, đạo đức cách mạng không chỉ
giúp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới mà còn giúp người cách mạng
không ngừng cầu tiến và hoàn thiện bản thân mình.
Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại chỉ
là tạm thời... cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ
vững tinh thần khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, hưởng thụ, thật sự
trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Đạo đức cách mạng là
thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bất
cứ ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
Thứ hai: Trong mối quan hệ giữa Đức và Tài thì “Đức là gốc”. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”. “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, có cái đức sẽ đi đến cái trí, cái
tài. Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình
độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Thứ ba: "Đức là gốc", trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày
thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hình tượng về Đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản: ….Đảng ta "là đạo đức, là văn minh" trong đó đạo đức là "gốc",

vẫn là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt lên trên hết, trước hết. Bởi Đảng Cộng sản
muốn đóng được vai trò tiên phong thì trước hết phải là một Đảng tiêu biểu cho
đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân.
Quan niệm lấy đức làm “gốc” của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt
đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là


×