Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tư tưởng chính trị thời trần – nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.59 KB, 24 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con ngƣời với hoạt động sống ngày càng đa dạng, phức tạp và tiến bộ, do
đó trong cộng đồng con ngƣời có tổ chức, để cho mọi hoạt động có thể thực
hiện đƣợc đều phải nhờ tới sự chỉ huy và phục tùng. Chính trị do vậy là công
việc cai trị, quản lý xã hội, duy trì sự tồn tại xã hội trong vòng trật tự và phát
triển bằng nhà nƣớc và pháp luật. Chính trị, mà biểu hiện đặc biệt của nó là
quyền lực nhà nƣớc, đã trực tiếp can thiệp và chi phối các lĩnh vực khác nhau
trong hình thái xã hội, do đó, trong xã hội có giai cấp, tƣ tƣởng chính trị là nền
tảng, là căn cứ lý luận, là nguyên tắc chủ đạo để giai cấp thống trị xây dựng nên
hệ thống quyền lực nhà nƣớc của mình, vì lợi ích giai cấp và lợi ích của dân tộc.
Đứng trên quan điểm đó nhìn nhận ở Việt Nam, song hành với phát triển kinh
tế, xây dựng văn hóa, phát triển khoa học công nghệ thì ổn định chính trị là điều
kiện tiên quyết để tiến hành các hoạt động khác nhau trong xã hội.
Sau gần 30 năm đổi mới đất nƣớc, trong bối cảnh yêu cầu hội nhập với nền
kinh tế khu vực và thế giới ngày càng khẩn trƣơng và sâu rộng hơn, Việt Nam
đã đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, tiếp thu những bài học kinh nghiệm quan
trọng, nhƣng vẫn còn tồn tại của những yếu kém, khuyết điểm. Bên cạnh những
cơ hội phát triển mà quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đem lại thì quá
trình này cũng dẫn đến những tranh chấp quyền lực, những bất ổn về kinh tế,
chính trị, xã hội ở một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia đang
phát triển. Điển hình là các hoạt động tranh chấp, xung đột cục bộ, hoạt động
khủng bố quốc tế đang gây mất ổn định chính trị ở khu vực và nhiều nơi trên
thế giới, nhƣ khủng bố ở Mỹ và các nƣớc phƣơng Tây, khủng hoảng chính trị ở
Ukcraina, tranh chấp quyền lợi kinh tế và chính trị giữa các nƣớc khu vực biển
Đông, sự nổi dậy của những phe phái tôn giáo cực đoan... Do đó, để công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công, Đảng ta luôn khẳng định nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trọng tâm, còn nhiệm vụ ổn định chính trị là then chốt. Để giữ
vững sự ổn định chính trị - xã hội trên một mảnh đất luôn bị đe dọa bởi sự xâm


lăng và nguy cơ đồng hóa nhƣ đất nƣớc ta trong lịch sử, trong suốt tiến trình
dựng nƣớc và giữ nƣớc, dân tộc ta đã biết dựa vào sức mạnh tổng hợp toàn dân
tộc để thực hiện chủ quyền độc lập, tự do của mình. Một trong những sức mạnh
tổng hợp đó chính là bản sắc văn hóa truyền thống, những giá trị tinh thần dân
tộc, hình thành nên nội lực mạnh mẽ của toàn thể dân tộc ta. Nội lực đó đã và
đang phát huy sức ảnh hƣởng mạnh mẽ đến công cuộc bảo vệ, phát triển đất
nƣớc, đồng thời góp phần tạo hình cho dân tộc ta một nghệ thuật chính trị độc
đáo, bởi lẽ “trong điều kiện kinh tế thị trƣờng và mở rộng giao lƣu quốc tế, phải
đặc biệt giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy
truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa


2

của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam”1. Vì
vậy, tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ta, trên cơ
sở đó phát huy sức mạnh của những giá trị đó trong việc xây dựng hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa của nƣớc ta trong thời đại hiện nay là việc làm có ý
nghĩa lý luận lâu dài và cấp bách.
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, thời đại nhà Trần đƣợc xem là mốc son
chói lọi trong sự nghiệp xây dựng và phát triển diện mạo văn hóa, tƣ tƣởng của
một quốc gia phong kiến độc lập, đánh dấu bƣớc ngoặt căn bản trong tƣ duy,
nhận thức của dân tộc ta về lòng yêu nƣớc và tinh thần độc lập tự cƣờng. Đồng
thời, đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, văn
hóa mà cả trong lĩnh vực chính trị, biểu hiện rõ nét trong công cuộc xây dựng
một quốc gia thống nhất, độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; trong phát
triển mọi mặt về kinh tế và văn hóa; trong tổ chức quản lý xã hội quy củ và
thống nhất từ trung ƣơng đến địa phƣơng; trong việc thống nhất tƣ tƣởng, cố kết
lòng dân, tạo sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc chiến thắng giặc ngoại xâm…
Những thành tựu ấy là minh chứng hùng hồn cho những giá trị lý luận và tƣ

tƣởng đƣợc thời đại nhà Trần vận dụng trong tổ chức và quản lý xã hội, nhất là
tƣ tƣởng chính trị. Những vấn đề chính trị nhƣ: tổ chức bộ máy nhà nƣớc, xây
dựng hệ thống pháp luật, quản lí và vận dụng sức mạnh của các tầng lớp, giai
cấp trong xã hội, khoan thƣ sức dân, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc, tổ
chức quân sự và thực hiện các chính sách ngoại giao trong xây dựng và bảo vệ
tổ quốc đƣợc vận dụng trong tƣ tƣởng chính trị thời Trần đến nay vẫn hiện diện
trong đời sống chính trị đƣơng đại. Trên bƣớc đƣờng xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tổ chức và quản lý các quá trình
kinh tế - xã hội hiện nay ở nƣớc ta, thực tế vẫn tồn tại nhiều vấn đề cả về lý luận
và thực tiễn cần tập trung giải quyết nhƣ: những bất cập tồn tại trong xây dựng
và hoàn thiện bộ máy nhà nƣớc thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; hệ thống
pháp luật chƣa đồng bộ và hoàn thiện, dẫn đến chƣa theo kịp sự phát triển của
đời sống, vấn đề quyền lực thuộc về nhân dân còn mang tính hình thức,... Để
hoàn thiện và phát huy hiệu quả vai trò của chính trị và hệ thống chính trị trong
quá trình phát triển đất nƣớc hiện nay, việc tiếp thu, kế thừa tƣ tƣởng chính trị
của cha ông ta trong lịch sử, đặc biệt là tƣ tƣởng chính trị thời Trần là hết sức
cần thiết và bổ ích. Do vậy, tác giả chọn đề tài “Tư tưởng chính trị thời Trần nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử” làm đề tài luận án của mình với mong
muốn góp phần làm sáng tỏ những điều kiện, tiền đề dẫn đến sự hình thành và
phát triển của tƣ tƣởng chính trị thời Trần, những nội dung cơ bản và những đặc
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1996, tr.
111.
1


3

điểm, ý nghĩa lịch sử của tƣ tƣởng chính trị thời Trần, góp phần không chỉ làm
rõ quy luật kế thừa của tƣ tƣởng, mà còn thông qua đó gợi nên nhiều vấn đề và
bài học quý báu đối với chúng ta hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài

Tƣ tƣởng chính trị thời Trần với tính cách là một hình thái ý thức xã hội,
một mặt phản ánh và bị chi phối bởi đặc điểm, nhu cầu của xã hội Việt Nam thời
kỳ nhà Trần; mặt khác, là sự kế thừa những tiền đề tƣ tƣởng, tôn giáo trƣớc đó.
Do vậy, để tìm hiểu tƣ tƣởng chính trị thời Trần, đã có nhiều công trình nghiên
cứu, những bài viết dƣới các phƣơng diện, hình thức và mức độ khác nhau. Có
thể khái quát các công trình nghiên cứu đó theo các hƣớng nghiên cứu sau:
Hướng thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu tƣ tƣởng chính trị thời Trần
dƣới góc độ lịch sử - xã hội, đó là những bộ sách sử lớn, nguyên bản, có uy tín
nhƣ: Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1 và tập 2 (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
2008); Việt sử lược của GS. Trần Quốc Vƣợng (Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội,
1960); Đại cương lịch sử Việt Nam do Trƣơng Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê
Mậu Hãn chủ biên (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009); Tìm hiểu xã hội Việt Nam
thời Lý - Trần của Viện Sử học (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980); Nước
Đại Việt thời Lý - Trần của Nguyễn Khắc Thuần (Nxb. Thanh niên thành phố
Hồ Chí Minh, 2002); Tìm hiểu về kết cấu xã hội thời Trần của Trƣơng Thị Yến
(Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000); Vương triều Trần trước những biến
động xã hội ở thế kỉ XIII của Trần Thị Vinh (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2000);… Những công trình khoa học nêu trên đã trình bày và phân tích khá sâu
sắc những sự kiện lịch sử xuyên suốt thời đại nhà Trần, trong đó làm nổi bật
những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của xã hội Đại Việt từ đầu thế
kỷ X đến cuối thế kỷ XIV. Hướng thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu tƣ
tƣởng chính trị thời Trần dƣới góc độ văn hóa, tôn giáo. Để tìm hiểu, trích dẫn
những điều kiện, tiền đề hình thành, những nội dung cơ bản, đặc điểm và ý
nghĩa lịch sử của tƣ tƣởng chính trị thời Trần, tác giả đã kế thừa các công trình
có liên quan đến chủ đề này nhƣ: trọn 3 tập “Thơ văn Lý - Trần” do Viện Văn
học biên soạn (Nxb. Khoa học xã hội, tập 1 xuất bản năm 1977, tập 2 xuất bản
năm 1989 và tập 3 xuất bản năm 1978). Ngoài ra, phải kể đến những công trình
bàn về văn hóa chính trị, tôn giáo nhƣ: Lịch sử các định chế chính trị và pháp
quyền Việt Nam, tập 1, của Phan Đăng Thanh, Trƣơng Thị Hoa (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995); Sự phát triển tư tưởng Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX

đến Cách mạng tháng Tám (ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các
nhiệm vụ lịch sử), tập 1, của Trần Văn Giàu (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
1993); Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập 1, của Lê Mạnh Thát (Nxb.
Văn hóa Huế, 1999); Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên
đến thế kỷ XVI), của Nguyễn Hùng Hậu (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002);


4

Việt Nam phật giáo sử luận, tập 1, của Nguyễn Lang (Nxb. Văn hóa, Hà Nội,
1994)... Liên quan đến hƣớng nghiên cứu này còn có các bài báo khoa học đăng
trên các tạp chí chuyên ngành nhƣ: Vũ Văn Vinh, Một số quan niệm về dân thời
Lý - Trần, tạp chí Triết học, số 1 (101), tháng 2-1998; Nguyễn Tài Thƣ, Về
nguồn gốc của chế độ phong kiến Việt Nam và đạo đức phong kiến Việt Nam,
tạp chí Triết học số 6 (112), tháng 10-1999, Văn Đức Thanh, Về các nhà nước
phong kiến pháp quyền và đời sống xã hội Việt Nam thời tự chủ, tạp chí Triết
học số 8 (147), tháng 8-2003…Ngoài ra, trong quá trình tìm tƣ liệu, tác giả luận
án cũng tham khảo các công trình luận án bàn về vấn đề này nhƣ: Triết học
Phật giáo thời Trần, Luận án tiến sĩ triết học của Đỗ Hƣơng Giang, Viện Khoa
học xã hội vùng Nam Bộ, 2010; Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo
Việt Nam thời Trần, Luận án tiến sĩ triết học của Vũ Văn Vinh,Viện Triết học,
Hà Nội, 1999. Hướng thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về tƣ tƣởng
chính trị thời Trần dƣới góc độ tư tưởng, triết học, cụ thể là các công trình:
Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, của Nguyễn Tài Thƣ (Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1993); Lịch sử tư tưởng Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, 1998); Tư tưởng triết học của thiền phái Trúc Lâm đời Trần
của Trƣơng Văn Chung (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Đại cương
lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Hùng Hậu chủ biên (Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002); Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, của
Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên) (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006); Tư

tưởng Việt Nam thời Lý - Trần, do Doãn Chính và Trƣơng Văn Chung chủ biên
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008); Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt
Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý - Trần, của Lê Văn Quán (Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2008); Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, từ thời kỳ dựng nước
đến đầu thế kỷ XX do Doãn Chính chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2013)... đã phân tích các vấn đề về thế giới quan, nhận thức luận, nhân sinh
quan, các quan điểm triết học của các vị vua, tƣớng lĩnh, đồng thời là những
nhà tƣ tƣởng thời Trần và khái quát các khía cạnh lịch sử, văn hóa, tôn giáo,
triết lý tƣ tƣởng của các nhà tƣ tƣởng qua các triều đại theo tiến trình lịch sử.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Về mục đích: là tập trung phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của tƣ
tƣởng chính trị thời Trần, từ đó chỉ ra những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của tƣ
tƣởng chính trị thời Trần.
Về nhiệm vụ: Để đạt đƣợc mục đích nêu trên, luận án đã thực hiện các
nhiệm vụ sau: Thứ nhất, trình bày, phân tích cơ sở xã hội và những tiền đề lý
luận hình thành tƣ tƣởng chính trị thời Trần. Thứ hai, trình bày và phân tích
những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng chính trị thời Trần thông qua các hoạt
động đối nội, đối ngoại. Thứ ba, rút ra những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử mà tƣ


5

tƣởng chính trị thời Trần đóng góp vào sự phát triển của lý luận chính trị và
thực tiễn chính trị của dân tộc ta dƣới thời Trần trị vì và hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích và nhiệm vụ trên, tác giả luận án dựa trên cơ sở thế
giới quan và phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Đồng thời, tác giả còn sử dụng hệ thống các phƣơng pháp
nghiên cứu cụ thể nhƣ: phƣơng pháp nghiên cứu sử học, phƣơng pháp hệ thống
cấu trúc, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, lôgích và lịch sử, diễn dịch và qui

nạp, đối chiếu và so sánh,… để nghiên cứu và trình bày luận án.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là hệ thống tƣ tƣởng thời Trần. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của luận án, tác giả chỉ tập trung đi sâu, làm rõ những
nội dung, đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của tƣ tƣởng chính trị thời Trần đƣợc thể
hiện tập trung thông qua đƣờng lối, chính sách chính trị của nhà Trần.
6. Cái mới của luận án
Một là, luận giải một cách sâu sắc, có hệ thống lý do và cơ sở ra đời của tƣ
tƣởng chính trị thời Trần. Hai là, hệ thống hóa những nội dung cơ bản của tƣ
tƣởng chính trị thời Trần. Ba là, khái quát những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
của tƣ tƣởng chính trị thời Trần đối với lý luận và thực tiễn chính trị thời Trần,
đồng thời liên hệ với những vấn đề chính trị của nƣớc ta hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần làm rõ nội dung và đặc điểm cơ bản
của tƣ tƣởng chính trị thời Trần, từ đó giúp ngƣời đọc tìm hiểu một cách có hệ
thống và sâu sắc về những quan điểm và thể chế chính trị đƣợc vận dụng, thực
hiện dƣới thời Trần.
Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng chính trị thời Trần, từ
đó rút ra những đặc điểm và ý nghĩa lịch sử của nó là góp phần xây dựng và
hoàn thiện tƣ duy chính trị của nƣớc ta, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền
thống của văn hóa dân tộc trong công cuộc đổi mới, hội nhập hiện nay. Kết quả
nghiên cứu của luận án có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc tìm
hiểu, nghiên cứu, giảng dạy và học tập Lịch sử tƣ tƣởng chính trị Việt Nam,
Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam.
8. Kết cấu của luận án
Với mục đích và nhiệm vụ trên, ngoài phần mở đầu, phần kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo, luận án đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng, 6 tiết, 15
tiểu tiết.
Chƣơng 1
CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN

HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN


6

1.1. CƠ SỞ VÀ NHU CẦU XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG
CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN
1.1.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ
XIII-XIV - cơ sở xã hội hình thành tƣ tƣởng chính trị thời Trần
Về kinh tế và các hoạt động kinh tế thời kì nhà Trần, do yêu cầu tăng
cƣờng sức mạnh của quốc gia và ổn định những thu nhập hằng năm mà nhân
dân và nhà nƣớc thời kỳ này đều chăm lo phát triển nông nghiệp. Việc duy trì
sự tồn tại song song hình thức công hữu (công điền) và tƣ hữu (tƣ điền) đã giúp
nhà Trần tập trung đƣợc toàn bộ của cải và nhân lực, thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp, thực hiện di dân, lập làng, làm chức năng trị thủy, thủy lợi, phát triển
công thƣơng nghiệp, mở rộng giao lƣu buôn bán, trao đổi, làm cho nền kinh tế
Đại Việt thực sự phát triển. Những vấn đề kinh tế nổi bật đó cần ở giai cấp
thống trị triều Trần một hệ thống tƣ tƣởng chính trị để đề ra những chính sách
kinh tế, những quy định pháp luật hỗ trợ cho những chính sách kinh tế đó, và
hơn hết là những quan điểm chính trị thân dân, phát huy đƣợc sức mạnh đoàn
kết toàn dân tộc, từ đó khai thác đƣợc toàn bộ sức ngƣời sức của trong dân
chúng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, chống lại thù trong địch ngoài.
Bên cạnh đó, mặc dù công thƣơng nghiệp thời kỳ này còn phát triển theo quy
luật tự nhiên, trong khuôn khổ của nền kinh tế tự cấp tự túc, trong sự ràng buộc
của địa tô phong kiến, chƣa là động lực kinh tế tạo nên những mâu thuẫn đối
lập dẫn đến sự tan rã của nền kinh tế phong kiến, nhƣng sự phát triển trên tất cả
mọi lĩnh vực ấy đã bộc lộ thành những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội, đặc biệt
là mâu thuẫn giữa hình thức công hữu với sự chiếm dụng tƣ nhân về ruộng đất,
mâu thuẫn trong chính sách thu thuế, cấp chẩn cho dân chúng... đòi hỏi sự giải
quyết thỏa đáng của một hệ tƣ tƣởng chính trị, đáp ứng nhu cầu giữ vững độc

lập, tự chủ, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đại Việt thời bấy giờ.
Trên bình diện xã hội và các hoạt động chính trị - xã hội, xã hội thời
Trần cũng diễn ra sự phân hóa mạnh mẽ, sự biến động sâu sắc về mặt kết cấu
giai cấp xã hội. Một xã hội mới với những đẳng cấp mới đã dần đƣợc hình
thành với sự tồn tại của ba đẳng cấp chính, đó là: đẳng cấp quí tộc, tôn thất,
quan lại trong chính quyền quân chủ; đẳng cấp những ngƣời bình dân; và đẳng
cấp nô tỳ. Mặc dù giữa các tầng lớp có sự phân biệt về địa vị chính trị, quyền
lợi kinh tế, trách nhiệm xã hội… nhƣng nó chƣa tạo ra hố sâu ngăn cách về
đẳng cấp quá rạch ròi, không tạo thành những mâu thuẫn xã hội gay gắt, phá
vỡ sự đoàn kết, đe dọa sự bình ổn của thể chế chính trị. Tuy nhiên, do sự khác
nhau về kinh tế và địa vị xã hội, về những ràng buộc với triều đình, cũng nhƣ
những mâu thuẫn về tƣ tƣởng dần nảy sinh trong quá trình phát triển, hai tầng
lớp quí tộc tôn thất và địa chủ quan liêu cũng đòi hỏi ở nhà Trần một lý luận
chính trị để liên kết họ thành một khối vững chắc, để có thể sử dụng đƣợc tài


7

năng trí tuệ của họ, đồng thời củng cố, bảo vệ đƣợc ngai vàng của dòng họ
mình. Mặt khác, trong giai đoạn phồn thịnh của nhà Trần, sự phân tầng xã hội là
tƣơng đối ổn định, nhƣng càng về sau, do những tác động, ảnh hƣởng của các
yếu tố chính trị, kinh tế, cũng nhƣ sự phát triển tất yếu của lịch sử, mà những
biến động, sự chuyển dịch và phân hóa các giai tầng xã hội càng thể hiện rõ.
Thực tiễn đó đòi hỏi phải xác định một hệ tƣ tƣởng lý luận chính trị đáp ứng nhu
cầu giải quyết những mâu thuẫn gay gắt nảy sinh trong xã hội lúc này.
1.1.2. Nhu cầu xã hội hình thành tƣ tƣởng chính trị thời Trần
Nhu cầu thống nhất về chính trị - xã hội và phát triển nền văn hóa Đại
Việt. Là một triều đại vừa đƣợc thiết lập, giai cấp quý tộc tôn thất nhà Trần cần
nhanh chóng ổn định trật tự xã hội và thống nhất về tƣ tƣởng, chính trị. Với
động thái chính trị rất phổ biến là chuyển giao quyền lực từ dòng họ này sang

dòng họ khác, triều Trần đã có đƣợc thiên hạ. Đó đồng thời là bƣớc ngoặt cách
mạng đáp ứng nhu cầu thống nhất đất nƣớc, ổn định chính trị lúc bấy giờ. Nhu
cầu đó buộc giai cấp thống trị triều Trần cần đến một lý luận chính trị vừa khôn
khéo, vừa kiên quyết để chấm dứt sự thống trị của vƣơng triều cũ; dẹp yên các
cuộc chiến tranh nổi dậy cát cứ, cƣớp giết trong nƣớc; khôi phục và phát triển
nền kinh tế đang hết sức trì trệ; chuẩn bị lực lƣợng quân sự để đối phó với kẻ
thù ngoại bang đang hòng chuẩn bị xâm chiếm Đại Việt.
Nhu cầu củng cố trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Nhà Trần lên nắm chính quyền trong bối cảnh xã hội mục rỗng mà triều Lý để
lại, nhu cầu bức thiết đặt ra, đó là nhanh chóng ổn định chính trị, củng cố lại trật
tự xã hội, một mặt nhằm đảm bảo lợi ích của giai cấp thống trị cầm quyền, mặt
khác là thống nhất quốc gia dân tộc cả về tƣ tƣởng lẫn thể chế cầm quyền. Để
có sự bình ổn về chính trị, nhu cầu phục hồi, chấn hƣng lại mọi mặt về kinh tế,
áp dụng nhiều biện pháp thủy lợi, thủy nông, đắp đê chống lụt nhằm khuyến
khích và bảo vệ thành quả nông nghiệp của nhà nƣớc và nhân dân, phát triển
các làng nghề thủ công nghiệp và mạng lƣới thƣơng nghiệp, thành thị thông
qua việc mở rộng, nâng cấp hệ thống giao thông, nhất là giao thông thủy bộ
trong cả nƣớc là nhiệm vụ đầu tiên đặt ra cho giai cấp cầm quyền nhà Trần.
Bên cạnh đó, nhà Trần cũng nhƣ các triều đại phong kiến khác đều quan tâm
đến nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nƣớc trung ƣơng tập quyền ngày
càng lớn mạnh, vừa đảm bảo quyền lợi của giai cấp thống trị, vừa tạo ra một
trật tự ổn định cho xã hội phong kiến. Nhu cầu xây dựng và củng cố nhà nƣớc
phong kiến trung ƣơng tập quyền cùng với sự trƣởng thành của giai cấp phong
kiến Việt Nam đặt ra những đòi hỏi cấp thiết đối với sự hình thành các quan
điểm, những nhận thức lí luận về mặt chính trị, chỉ đạo cho hoạt động thực tiễn
của nhân dân Đại Việt dƣới thời Trần.


8


Nhu cầu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc
gia dân tộc. Đất nƣớc Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên phong
phú luôn là mảnh đất màu mỡ mà nhiều kẻ thù tham lam muốn dòm ngó, xâm
lƣợc. Do vậy, nhiệm vụ lịch sử mang tính sống còn bao trùm, chi phối các
nhiệm vụ khác của thời Trần là vừa xây dựng đất nƣớc, vừa chiến đấu và bảo
vệ quyền độc lập, tự chủ, khẳng định nền độc lập thiêng liêng và bất khả xâm
phạm của đất nƣớc ta. Tinh thần yêu nƣớc nồng nàn ấy của vƣơng triều Trần và
nhân dân Đại Việt tất yếu phải đƣợc phản ánh vào trong lĩnh vực tƣ tƣởng, trở
thành những quan điểm và nhận thức lí luận về chủ quyền đất nƣớc. Những bài
học kinh nghiệm từ các cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc, mà để giành thắng
lợi, nhân dân ta phải chấp nhận những mất mát to lớn, cần phải đƣợc đúc kết về
mặt lí luận, trở thành những nguyên lí chính trị chung soi đƣờng cho công cuộc
dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc ta trong quá trình phát triển của mình. Do
vậy, nó thực sự trở thành nhu cầu xã hội - nhu cầu của công cuộc dựng nƣớc và
giữ nƣớc cho sự phát triển của tƣ tƣởng chính trị đời Trần.
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ
THỜI TRẦN
1.2.1. Giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam với việc hình thành tƣ
tƣởng chính trị thời Trần
Truyền thống văn hóa tƣ tƣởng Việt Nam trong đó có tƣ tƣởng chính trị
đƣợc hình thành trong một điều kiện đặc biệt, đó là từ khi lập quốc, song song
với công cuộc dựng nƣớc, dân tộc ta phải đấu tranh liên tiếp chống ngoại xâm.
Từ đó, lòng yêu nƣớc, ý thức tự cƣờng dân tộc, tinh thần đoàn kết chống thiên
tai, chống ngoại xâm đƣợc hình thành từ sớm, tạo nên một dân tộc có ý thức tự
chủ cao, đúc kết nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tựu chung lại, tƣ tƣởng chính
trị thời Trần đƣợc hình thành xuất phát từ văn hóa bản địa truyền thống của dân
tộc ta, với ba nội dung tiêu biểu là: ý thức độc lập dân tộc, lòng yêu nước nồng
nàn và tinh thần đoàn kết dân tộc. Trên cơ sở ý thức dân tộc, tinh thần tự cƣờng
nhƣng không bảo thủ, đóng kín, nhân dân ta đã biết kết hợp truyền thống dân
tộc với cái hay, cái đẹp của những luồng tƣ tƣởng văn hóa ngoại nhập, cải biến

nó, cách tân nó, làm cho nó trở thành giá trị văn hoá bản địa mang đậm sắc màu
dân tộc Việt Nam. Văn hóa bản địa đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam là sức
mạnh gắn kết các dân tộc trong nƣớc, tạo nên một khối thống nhất qui tụ vào
một chính quyền trung ƣơng duy nhất của nhà nƣớc quân chủ dƣới các vƣơng
triều Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần. Vì vậy, chắc chắn, nó là một trong những tiền đề
tƣ tƣởng cho sự hình thành tƣ tƣởng chính trị thời Trần.
1.2.2. Tƣ tƣởng “Tam giáo” với việc hình thành tƣ tƣởng chính trị
thời Trần


9

Sự du nhập của các trào lƣu tƣ tƣởng, điển hình là Phật giáo, Nho giáo và
Đạo giáo đã trở thành những nhân tố tinh thần tiêu biểu ảnh hƣởng đến hệ tƣ
tƣởng thời kì này nói chung, tƣ tƣởng chính trị nói riêng. Trải qua tiến trình du
nhập lâu dài để dành chỗ đứng trong đời sống tƣ tƣởng của ngƣời dân Việt, mỗi
tôn giáo có lối đi riêng với những hình thức khác nhau, có khi ôn hòa, có khi
gay gắt, tuy nhiên, ăn sâu, cắm rễ vào mảnh đất Đại Việt hòa dịu, các tôn giáo
đã dần hòa mình với truyền thống bản địa của dân tộc Việt, và bản thân chúng
cũng dung hợp lẫn nhau trên tinh thần “tam giáo đồng nguyên”, hình thành nên
một hệ tƣ tƣởng chi phối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của nhân dân ta, nhất
là hệ tƣ tƣởng chính trị. Tư tưởng chính trị - đạo đức của Phật giáo với triết lý
đạo đức, nhân sinh; với quan điểm nhân quả, họa phúc từ bi, bác ái, hỷ xã; với
quan điểm về tu dƣỡng thập thiện và ngũ giới đã tỏ ra gần gũi, phù hợp với
quan niệm truyền thống và phong tục tập quán của ngƣời Việt. Đó là nền tảng
hình thành ở giai cấp thống trị triều Trần tình cảm xót thƣơng với những nỗi
đau khổ và cực nhọc của dân chúng, từ đó xây dựng những phạm trù chính trị
dƣới thời Trần nhƣ: “khoan hòa”, “nhân từ”, “thân dân”, “khoan thƣ sức dân”...
Đồng thời, Phật giáo cũng góp phần đƣa đến cách giải quyết những vấn đề
chính trị một cách khoan dung. Tuy nhiên, dù đạo Phật có đƣợc sùng thƣợng,

“nhập thế” tới đâu về cơ bản cũng không phải là một đạo trị nƣớc. Cùng với sự
phát triển của nhà nƣớc phong kiến, tư tưởng chính trị - xã hội của Nho giáo
với quan điểm về “Thiên mệnh”, “thiên nhân cảm ứng”, “thiên bất biến đạo
bất biến”, “tam cƣơng ngũ thƣờng”, “trung quân”… đã trở thành những công
cụ tinh thần đắc lực phục vụ cho bộ máy quan liêu. Do nhu cầu phát triển của
xã hội trên mọi lĩnh vực, nhà Trần cần một nguyên tắc, một thể chế chính trị
cùng với một hệ thống quan lại đƣợc đào tạo nhằm cung cấp cho bộ máy nhà
nƣớc hoạt động ngày càng quy cũ. Cho đến nửa cuối triều Trần, bộ máy quan
liêu đông đảo các nho sĩ đã trở thành trụ cột cho nhà nƣớc trung ƣơng tập quyền
thời Trần. Đó cũng là lúc mà cuộc đấu tranh giữa Nho giáo và Phật giáo thực sự
diễn ra. Sự phê phán Phật giáo của các nho sĩ đã đánh vào chỗ dựa tƣ tƣởng của
tầng lớp thống trị triều Trần, nhằm bác bỏ hệ tƣ tƣởng ấy. Cùng với đó, những
mâu thuẫn trong tinh thần, tƣ tƣởng đã xuất hiện. Nhận thức đƣợc những nguy
cơ đó, tầng lớp quí tộc, tôn thất nhà Trần với tƣ tƣởng chính trị của mình đã cố
gắng điều hòa, làm dịu đi những mâu thuẫn đó. Cùng với Phật giáo và Nho
giáo, Đạo giáo cũng đã hòa mình vào tín ngƣỡng dân gian của dân tộc Việt, tạo
nên sự dung hợp trong tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Trƣớc những biến đổi
của cuộc sống, kết hợp với tín ngƣỡng tự nhiên, con ngƣời vẫn cần đến chỗ
dựa tinh thần, tin vào sức mạnh, sự công minh của lực lƣợng thần thánh. Do
đó, Đạo giáo trong tổ hợp tam giáo đời Trần không hoàn toàn thiên về pháp thuật
thần bí mà hết sức chân chất, thuần phác, hƣớng con ngƣời đến sự tự do, về với


10

bản tính tự nhiên vốn có, thoát khỏi sự ràng buộc của cuộc sống, trở về trạng thái
thanh nhàn. Nhƣ vậy, các tôn giáo vừa là tiền đề cho sự phát triển của nhau, vừa
góp phần làm phong phú và đa dạng hệ tƣ tƣởng thời kỳ này. Phật giáo, Nho
giáo, Đạo giáo kết hợp hòa đồng với văn hóa bản địa truyền thống của nhân dân
ta đã thực sự là những tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành và phát triển của tƣ

tƣởng chính trị thời Trần.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Đƣợc hình thành xuất phát từ những điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, tƣ
tƣởng của nƣớc ta giai đoạn đầu thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XIV, đồng thời
phản ánh những nhu cầu thực tiễn của nhân dân Đại Việt dƣới thời Trần trị vì,
tƣ tƣởng chính trị thời Trần là sự kết tinh của truyền thống văn hóa dân tộc và
sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại du nhập nƣớc ta, tiêu biểu là
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Đó là bƣớc tiếp biến đầy sáng tạo đƣợc thực
hiện bởi tầng lớp quý tộc tôn thất dòng họ Trần và tầng lớp địa chủ quan liêu
thời bấy giờ. Thực tiễn ấy đòi hỏi giai cấp thống trị thời Trần một mặt phải xây
dựng và hoàn thiện tƣ tƣởng chính trị có khả năng quản lý, điều hành đất nƣớc
ngày càng quy mô, toàn diện hơn; giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn nảy sinh
trong xã hội; mặt khác, tƣ tƣởng chính trị đó phải đáp ứng đƣợc những nhu cầu xã
hội đặt ra trong quá trình phát triển, nhằm bảo vệ địa vị, quyền lợi của giai cấp
thống trị phong kiến triều Trần, đồng thời tiến hành thắng lợi công cuộc đấu tranh
giữ nƣớc, xây dựng và phát triển Đại Việt hùng mạnh trên mọi phƣơng diện.
Chƣơng 2
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN
2.1. QUAN ĐIỂM VỀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ TỔ CHỨC XÃ HỘI
TRONG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN
Là một lĩnh vực phức tạp của đời sống xã hội, chính trị biểu hiện ở mối
quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc; ở hoạt động giành và giữ chính quyền nhà
nƣớc và tham gia vào công việc của nhà nƣớc. Do vậy, để đảm bảo cho một hệ
thống chính trị tồn tại và phát triển vững chắc, bên cạnh việc xây dựng một nền
tảng kinh tế - xã hội nhất định làm cơ sở, thì mỗi hệ thống chính trị cũng phải
hoàn thiện và tự bảo vệ mình bằng những quan điểm chính trị đƣợc xây dựng
ứng với nhu cầu thực tiễn xã hội và hoạt động chính trị của chính mình. Đứng
trên quan điểm đó nhìn nhận về thời Trần, có thể thấy, sự chuyển giao quyền lực
từ triều Lý sang Triều Trần, dù là êm thắm, nhƣng việc củng cố, kiện toàn, xây
dựng hệ thống chính trị - xã hội của Đại Việt thời Trần là nhiệm vụ cấp bách.

2.1.1. Quan điểm về cơ cấu xã hội và quan hệ giai cấp xã hội trong tƣ
tƣởng chính trị thời Trần
Tƣ tƣởng chính trị về cơ cấu xã hội thời Trần khẳng định sự tồn tại của
hai đẳng cấp cơ bản trong xã hội là đẳng cấp thống trị (vua, quan lại, tôn thất)


11

và đẳng cấp bị trị (tầng lớp bình dân). Thực chất, thời Trần kế thừa quan điểm
tổ chức chính quyền của nhà nƣớc phong kiến quân chủ tập quyền cha truyền
con nối, trong đó, vua quan là đẳng cấp cầm quyền bên trên, bình dân là đẳng
cấp bị trị bên dƣới. Trong đó, tƣ tƣởng chính trị về cơ cấu xã hội nhấn mạnh
chức năng tập trung và vai trò tối thƣợng của nhà vua đối với các tầng lớp, giai
cấp trong xã hội. Đó là bản chất của cấu trúc chính trị quân chủ phong kiến
trung ƣơng tập quyền. Do vậy, ở thời Trần, cơ cấu xã hội và sự phân hóa giai
cấp đã tạo nên một cấu trúc chính trị - xã hội khá cân bằng và ổn định, có khả
năng huy động đƣợc sức mạnh của toàn dân, đặc biệt là sức mạnh của hệ thống
cộng đồng làng xã, lực lƣợng chính tạo ra của cải vật chất cho xã hội cũng nhƣ
là lực lƣợng nòng cốt trong các cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc. Mục tiêu là
xây dựng một bộ máy nhà nƣớc vững mạnh, có khả năng chiến thắng ngoại
xâm, góp phần hoàn hoãn những mâu thuẫn xã hội bên trong và chống xung đột
đẳng cấp, giai cấp. Tuy nhiên, theo tiến trình phát triển của nhà nƣớc phong
kiến qua các triều đại lịch sử, sự chao đảo của giai cấp thống trị, quá trình mất
ổn định của hệ thống làng xã, sự nghiêm minh của con đƣờng khoa cử nối đẳng
cấp quan liêu và đẳng cấp bình dân trở nên suy đồi… thật sự đã khơi mào cho
những cuộc đấu tranh giai cấp, làm biến dạng cơ cấu xã hội và sự phân hóa giai
cấp ở thời Trần cuối thế kỷ XIV.
2.1.2. Quan điểm về quyền lực chính trị và thể chế chính trị trong tƣ
tƣởng chính trị thời Trần
Quyền lực chính trị là quyền lực của giai cấp thống trị trong việc thực

hiện ý chí của mình trong chính trị và các chuẩn mực pháp quyền, nhờ đó mà
lợi ích giai cấp thống trị đƣợc hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Nhƣ vậy,
quan điểm về quyền lực chính trị ở nhà nƣớc phong kiến thời Trần gắn liền
với cơ cấu chính trị - xã hội của nhà nƣớc đó, trong đó quyền lực của khối vua
quan là quyền của giai cấp thống trị. Vua quan thời Trần thể chế hóa quyền
của mình thông qua hoạt động của bộ máy nhà nƣớc với hệ thống pháp luật
đƣợc quy định ngày càng chặt chẽ từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Trong đó,
đẳng cấp thƣợng lƣu cầm quyền, đặc biệt là nhà vua ở đỉnh cao của quyền lực,
có vai trò cố kết cộng đồng, gắn bó mật thiết với hệ thống quý tộc, quan liêu
bằng nhiều mối quan hệ khác nhau. Cụ thể, các vua Trần nhận thức rõ một
chính quyền nhà nƣớc vững mạnh thì vai trò của vua trong việc dùng ngƣời rất
quan trọng, do vậy, triều Trần cần xây dựng một thể chế chính trị quy củ, chặt
chẽ, thống nhất từ trung ƣơng đến địa phƣơng. Thể chế chính trị ấy là công cụ
để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền trong chính trị, hiện thực hóa lợi ích
của giai cấp ấy trong đời sống xã hội. Dựa trên mô hình nhà nƣớc phong kiến
có từ các triều đại phong kiến đi trƣớc, cơ cấu nhà nƣớc phong kiến triều Trần
đã đƣợc tổ chức lại một cách chặt chẽ hơn, cụ thể hơn với nhiều cơ quan, chức


12

quan chuyên trách đáp ứng nhu cầu củng cố địa vị và quyền lợi của giai cấp
thống trị nhà Trần. Với cách thức tổ chức chính quyền đó, nhà nƣớc phong kiến
triều Trần cũng mang trong mình những yếu tố mô phỏng theo hình mẫu nhà
nƣớc lý tƣởng của Trung Quốc nhƣ việc tổ chức hành chính theo các bộ, chia
nƣớc thành lộ, phủ… Tuy nhiên, nhà Trần có những bƣớc tiếp biến đầy sáng
tạo nhƣ phép vua thời này còn nhiều yếu tố gắn với lệ làng, làm cho vị thế và
vai trò của vua gần gũi hơn với dân chúng, làm nhẹ gánh quản lý xã hội của nhà
nƣớc trung ƣơng, mở rộng khoa cử, tuyển chọn quan lại, ngƣời tài bổ sung cho
bộ máy quan liêu, khuyến khích khai hoang, lập điền trang… tạo điều kiện cho

nhiều ngƣời thuộc tầng lớp bình dân có điều kiện tham gia quan trƣờng, góp
phần pha loãng tính chất quý tộc quân quyền của nhà nƣớc. Mặc dù vậy, tƣ
tƣởng chính trị thời Trần cũng nhƣ thực tiễn chính trị thời Trần với những hạn
chế của thời đại, cũng chỉ mới dừng lại ở những nét phác họa còn sơ bộ, chƣa có
tính hệ thống, chƣa đi sâu vào cơ cấu và hệ thống tổ chức chặt chẽ, chỉ mới đề
cập đến thể chế chính trị và tổ chức nhà nƣớc theo khuôn mẫu: nhà nƣớc phong
kiến và những thành phần cơ bản của bộ máy đó nhƣ quân quyền, quan liêu.
2.1.3. Quan điểm về tổ chức và quản lý xã hội trong tƣ tƣởng chính
trị thời Trần
Thứ nhất, đó là quan điểm về cách thức tổ chức và quản lý xã hội theo
pháp luật của chính quyền phong kiến triều Trần. Pháp luật thời kỳ này là
phƣơng tiện truyền tải tƣ duy chính trị của giai cấp thống trị vào đời sống xã hội
của nhân dân Đại Việt, thể hiện ý chí của nhà nƣớc phong kiến thời Trần và
mang tính bắt buộc chung. Cụ thể, luật pháp thời Trần khẳng định và củng cố
sự phân chia đẳng cấp trong nội bộ nhà Trần và trong toàn xã hội, bảo vệ đặc
quyền đặc lợi của giai cấp quý tộc Trần; xác nhận, bảo vệ quyền tƣ hữu tài
sản, đặc biệt là sở hữu ruộng đất thông qua các chính sách phân cấp, ban
thƣởng đất đai của các vua Trần cho họ hàng tôn thất là ngƣời có công; và chú
trọng vào bảo vệ sản xuất nông nghiệp, trị thủy… Tƣ tƣởng chính trị đƣợc thể
hiện trong các văn bản pháp luật và chiếu chỉ đƣợc ban hành là công cụ chủ yếu
để điều chỉnh các quan hệ xã hội, quản lý xã hội, bảo đảm trật tự xã hội và lợi
ích của giai cấp thống trị. Thứ hai, đó là quan điểm về đào tạo nhân sự, xây
dựng đội ngũ giai cấp cầm quyền có tri thức, tài năng, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Việc nhà Trần quan tâm đào tạo nhân sự cho đất nƣớc thể hiện tầm nhìn chiến
lƣợc của giai cấp cầm quyền trong đánh giá con ngƣời, đồng thời thể hiện bài
học lịch sử trong xây dựng quốc gia là phải có đội ngũ giai cấp cầm quyền vững
mạnh. Ngoài đội ngũ quý tộc tôn thất, giai cấp cầm quyền giờ đây đƣợc bổ sung
thêm một lực lƣợng đƣợc tuyển chọn thông qua chế độ khoa cử, có tài năng
thực sự. Mặt khác, đứng trên lập trƣờng của tƣ tƣởng Nho giáo mang triết lý
chính trị, họ dựa vào các chuẩn mực của đạo Nho để đề ra các kế sách chính trị



13

phục vụ cho triều đình nhà Trần trong việc củng cố và xây dựng bộ máy nhà
nƣớc phong kiến hùng mạnh. Thứ ba, đó là quan điểm pháp trị trong tư tưởng
chính trị về tổ chức và quản lý xã hội thời Trần. Ở giai đoạn đầu, khi ngôi báu
vừa đƣợc chuyển từ nhà Lý sang nhà Trần, thực tiễn xã hội đã đặt ra cho giai
cấp thống trị nhiệm vụ phải thống nhất quốc gia, củng cố mọi mặt kinh tế, chính
trị, văn hóa, tƣ tƣởng, mà cấp bách nhất đó là phải cải tạo kinh tế, thống nhất
chính trị. Do vậy, quan điểm chính trị mang khuynh hƣớng mang khuynh
hƣớng thực tiễn chuộng lý hơn tình, dù là trong giải quyết công việc nội bộ của
gia tộc họ Trần hay trong giải quyết những công việc quốc gia đại sự của đất
nƣớc của Trần Thủ Độ tỏ ra hợp lý, đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tiễn thời bấy
giờ. Pháp trị Trần Thủ Độ xem ổn định chính trị, thống nhất quốc gia là điều
kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của đất nƣớc, thu phục
nhân tâm, thống nhất lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng nhằm phát huy khối
đại đoàn kết dân tộc. Với tƣ tƣởng chính trị ấy, nhà Trần đã bắt đầu xây dựng
đƣợc nền chính trị chính thống quốc gia chặt chẽ, nghiêm khắc hơn hẳn các
triều đại phong kiến đi trƣớc. Nhƣ vậy, trong buổi đầu nhà Trần, khuynh hƣớng
pháp trị chiếm vị trí ƣu thế trong tƣ tƣởng chính trị. Thứ tư, đó là quan điểm
đức trị trong tư tưởng chính trị về tổ chức và quản lý xã hội thời Trần. Đó là
đƣờng lối trị nƣớc dựa trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của các vua Trần đại diện tối cao nhất của giai cấp thống trị đối với nhân dân Đại Việt. Tƣ tƣởng
đức trị đó phát triển lên thành chính sách “thân dân”, “khoan thƣ sức dân” để
làm kế bền gốc sâu rễ, lấy đó làm thƣợng sách giữ nƣớc. Con đƣờng đức trị
không chỉ đƣợc thực hiện ở các vua Trần, mà còn là thƣợng sách giữ nƣớc mà
các tƣớng lĩnh nhà Trần hƣớng đến. Ở thời Trần, quan điểm chính trị không
tách rời những quan niệm đạo đức, hình thành nên đạo trị nƣớc yên dân. Thực
tiễn chính trị thời Trần cho thấy, đòi hỏi của công cuộc vừa xây dựng, vừa bảo
vệ tổ quốc phải mang tính nhân dân rộng khắp, dựa trên sự thống nhất và đoàn

kết tuyệt đối giữa các thành phần giai cấp trong xã hội với nhà nƣớc trung ƣơng
tập quyền phong kiến. Do đó, muốn duy trì sức mạnh và thực hiện thành công
công cuộc này, sự kết hợp hài hòa giữa đƣờng lối pháp trị và đức trị trong tƣ
duy và hoạt động chính trị của vƣơng triều Trần là sự lựa chọn sáng suốt, mang
tính thời đại. Đó cũng là biểu hiện của sự hoàn thiện mô hình nhà nƣớc phong
kiến ở giai đoạn cao của nền kinh tế phát triển; đồng thời còn là biểu hiện của
tinh thần đoàn kết, gần gũi vua tôi, tinh thần tƣơng thân tƣơng ái của dân tộc,
tinh thần coi nhân dân vừa nhƣ con, vừa nhƣ thực thể chính trị của giai cấp
thống trị triều Trần.
2.2. QUAN ĐIỂM ĐỐI NỘI VÀ ĐỐI NGOẠI TRONG TƢ TƢỞNG
CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN


14

2.2.1. Chủ nghĩa yêu nƣớc, ý thức tự chủ, tinh thần đoàn kết dân tộc
và tƣ tƣởng vƣơng quyền, thần quyền trong hoạt động đối nội của thời Trần
Lòng yêu nƣớc không chỉ biểu hiện ở ý thức về chủ quyền dân tộc mà còn
biểu hiện ở lòng tự hào về tông miếu xã tắc, ở ý thức tự tôn dân tộc của giai cấp
thống trị triều Trần nói riêng, dân tộc Đại Việt nói chung. Bên cạnh đó, nhà
Trần cũng nhận thức rõ chân lý “đoàn kết là sức mạnh” trong suốt tiến trình đấu
tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc. Do vậy, tƣ tƣởng chính trị thời Trần
đã biến lòng yêu nƣớc, ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần đoàn kết ấy thành động
lực kết nối toàn thể nhân dân Đại Việt vào một khối thống nhất, tạo nguồn sức
mạnh vật chất phi thƣờng. Sức mạnh ấy không chỉ đƣợc hô hào, ngƣng đọng
trong tâm tƣ, tình cảm của nhân dân, mà đƣợc thực thi cụ thể bằng hành động
với những thành tựu thu đƣợc trong lao động sản xuất và chiến đấu chống xâm
lƣợc. Lòng yêu nƣớc nồng nàn, triết lý nhân sinh, tinh thần đoàn kết, khẳng
định chủ quyền quốc gia dân tộc theo quan niệm của Trần Thủ Độ và các vua
Trần đã trở thành triết lý chính trị nằm trong tƣ tƣởng chính trị tồn tại ở thời

Trần. Nó quy định nên bản chất của các hoạt động đối nội của chính quyền
phong kiến triều Trần. Xuất phát từ những hoạt động đối nội đó, nhà Trần đã
đạt đƣợc những thành tựu rực rỡ trong đời sống văn hóa vật chất và đời sống
văn hóa tinh thần, khẳng định một thời đại văn minh, hài hòa, hoàn chỉnh, toàn
diện của trí tuệ dân tộc trong điều kiện đất nƣớc độc lập, thống nhất. Tuy nhiên,
là quan điểm chính trị của giai cấp lãnh đạo nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng
tập quyền, tƣ tƣởng vƣơng quyền và tƣ tƣởng thần quyền cũng đƣợc đƣợc thể
hiện rõ trong hoạt động đối nội thời Trần. Tƣ tƣởng ấy chính là để chỉ cho sự
vĩnh hằng, cho thiên mệnh trị nƣớc, trị dân của giai cấp thống trị thời Trần.
2.2.2. Quan điểm và cách thức tổ chức quân sự của nhà nƣớc phong
kiến thời Trần
Qua thực tiễn chỉ đạo chuẩn bị và thực hành chiến tranh, qua những tác
phẩm quân sự của Trần Quốc Tuấn, qua các áng văn thơ của vua và tƣớng lĩnh
thời Trần, một hệ thống lý luận, tƣ tƣởng về xây dựng lực lƣợng vũ trang quân
đội, về quốc phòng và chiến tranh giữ nƣớc với nhiều nội dung tiến bộ, vƣợt
thời đại đã hiện diện trong sinh hoạt tƣ tƣởng thời Trần. Những quan điểm quân
sự tiến bộ đó đã chỉ đạo các cuộc chiến tranh giữ nƣớc thời Trần giành thắng
lợi, đặt nền tảng cho sự phát triển của tƣ tƣởng lý luận quân sự nói riêng, tƣ
tƣởng chính trị nói chung của nhân dân ta các thời đại sau. Cụ thể, những quan
điểm chính trị nhƣ: quan điểm xây dựng quân đội vững mạnh về chất và lƣợng,
xây dựng lực lƣợng vũ trang rộng khắp, nhiều thứ quân, dù là thời bình hay
thời chiến thì các vua Trần cũng “xuống chiếu cho các vƣơng hầu đóng thuyền


15

chiến, chế tạo vũ khí, luyện tập binh sĩ” 1, chọn dùng cả quý tộc tôn thất và
ngƣời ngoại tộc làm tƣớng, thực hiện chính sách “ngụ binh ƣ nông”…; quan
điểm xây dựng binh pháp, mƣu lƣợc trong đánh giặc, nếu giặc dùng lối đánh
“tằm ăn lá, hành binh dần dà, không ham của dân, không cốt thắng mau, thì

phải kén dùng tƣớng giỏi…”2, và quan điểm rèn luyện binh pháp, giáo dục tƣ
tƣởng yêu nƣớc, tự tôn dân tộc, đoàn kết cho tƣớng sĩ, quân lính và nhân dân đã
là những nội dung quan trọng trong thƣợng sách chính trị - quân sự của thời
Trần. Trong hoàn cảnh đất nƣớc Đại Việt đang đứng trƣớc những hiểm họa xâm
lăng và liên tiếp phải đấu tranh chống kẻ thù xâm lƣợc, tƣ tƣởng này đã làm cho
vua tôi, tƣớng sĩ thời Trần một lòng vì nƣớc quên thân. Ba lần chiến thắng quân
thù Nguyên - Mông hung bạo của nhà Trần có đƣợc cũng là kết quả của việc
xây dựng và rèn luyện tổ chức tinh thần và khả năng chiến đấu của quân đội
nhà Trần.
2.2.3. Tƣ tƣởng về chính sách và đƣờng lối ngoại giao của chính
quyền phong kiến triều Trần
Đƣờng lối ngoại giao khéo léo của vƣơng triều Trần đƣợc thể hiện trong
quan hệ chính trị với các thế lực cát cứ trong nƣớc và các nƣớc cận bang. Chính
đƣờng lối ngoại giao này đã đóng góp vai trò không nhỏ trong những chiến
thắng của nhân dân ta với kẻ thù thù xâm lƣợc Nguyên - Mông, giữ mối quan
hệ linh hoạt, mềm dẻo, đôi khi sử dụng đối sách hòa hoãn với kẻ thù để chuẩn
bị lực lƣợng đánh giặc. Tƣ tƣởng về chính sách và đƣờng lối ngoại giao thời
Trần không khỏi tiến hành dƣới hình thức lễ nghi nhƣ sang cống, đi sứ, tiêu
biểu nhƣ Mạc Đĩnh Chi khi đi sứ sang nhà Nguyên, bằng tài năng của mình,
bao giờ cũng làm quân giặc phải nể phục, vị thế của dân tộc Đại Việt nhờ đó
mà có thể sánh ngang hàng với Trung Hoa; Đoàn Nhữ Hài đi sứ Chiêm Thành,
không theo tục cũ lạy vua Chiêm trƣớc rồi mới mở chiếu thƣ, ông bƣng ngay
chiếu thƣ để lên trên án và nói với chúa Chiêm: “Từ khi sứ thiên triều mang
chiếu thƣ của thiên tử sang, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thƣ, thực
nhƣ trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thƣ đã, rồi mới tuyên đọc sau” 3,
dùng quan hệ hôn nhân ràng buộc, dùng kế sách khoan hồng với kẻ thù,…
nhƣng đó là tƣ tƣởng đối ngoại tích cực và chủ động của dân tộc ta. Đó là sự
mềm dẻo, khôn khéo, vừa cƣơng vừa nhu với kẻ thù xâm lƣợc của giai cấp
thống trị nhà Trần. Tƣ tƣởng ấy biểu hiện tinh thần kiên định, lòng quyết tâm
giữ vững độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế quốc gia dân tộc

Đại Việt. Nó không chỉ là chính sách nhằm xác lập chủ quyền lãnh thổ, mà còn
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 133.
Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thƣợng, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1989, tr. 397.
3
Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 87.
1
2


16

nhằm giữ quan hệ thân thiện với các nƣớc lân bang, láng giềng. Tƣ tƣởng ngoại
giao ấy thành công đã tạo môi trƣờng thông thoáng, bình ổn cho sự phát triển
của quốc gia Đại Việt và sự sinh tồn của nhân dân ta.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Tƣ tƣởng chính trị thời Trần đã đƣợc hình thành với những nội dung cơ
bản thể hiện trong quan điểm về thể chế chính trị và tổ chức xã hội, trong quan
điểm đối nội và đối ngoại của vƣơng triều Trần. Mặc dù có sự mô phỏng theo
mô hình nhà nƣớc phong kiến Trung Hoa trong cơ cấu tổ chức, nhƣng với ý
thức độc lập tự chủ, với lòng yêu nƣớc nồng nàn, giai cấp thống trị thời Trần đã
không ngừng tiếp biến và sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh, lối sống và tâm
hồn của nhân dân Đại Việt, vì vậy, nhà nƣớc ấy có khả năng quản lý nhân dân,
tạo ra sự bình ổn và phát triển trên mọi lĩnh vực. Đồng thời, chính lòng dũng
cảm, nhân cách cao cả, lòng yêu dân yêu nƣớc của các vị vua và tƣớng lĩnh thời
Trần cũng đã làm nên tƣ tƣởng “nhân trị”, “đức trị” ở thời kỳ này, khiến lòng
dân khâm phục, tin yêu và noi theo. Đứng trƣớc sức mạnh của kẻ thù, tƣ tƣởng
chính trị thời Trần còn mang một nội dung quan trọng là không ngừng xây dựng
và củng cố quân đội, đào tạo tƣớng giỏi, quân dũng, hết lòng với quốc gia, dân
tộc. Với những nội dung cơ bản đó, tƣ tƣởng chính trị thời Trần phản ánh mối

quan hệ hài hòa, chƣa có sự phân biệt, ngăn cách quá rõ rệt giữa giai cấp thống
trị và mọi tầng lớp nhân dân Đại Việt, đáp ứng đƣợc những yêu cầu xã hội, làm
cho lòng dân tin yêu vào giai cấp cầm quyền, “vua tôi đồng tâm, anh em hoà
mục, cả nƣớc góp sức” tạo nên nền văn minh Đại Việt rực rỡ và hào khí Đông
A lẫy lừng qua mọi thời đại. Tuy nhiên, những nội dung đƣợc thể hiện trong tƣ
tƣởng chính trị thời Trần là tƣ tƣởng của giai cấp bóc lột phong kiến, đƣợc hình
thành trong một giai đoạn lịch sử nhất định nên không thể tránh khỏi những hạn
chế và tiêu cực do những ảnh hƣởng của thời đại và tính chất của chế độ phong
kiến tập quyền quy định.
Chƣơng 3
ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ
CỦA TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN
3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ
THỜI TRẦN
3.1.1. Tính tiếp biến trong tƣ tƣởng chính trị thời Trần
Đặc điểm về “tính tiếp biến” đƣợc đề cập đến ở đây mang nghĩa tƣ tƣởng
chính trị thời Trần đƣợc hình thành có sự tiếp thu, kế thừa và cải biến những
tƣ tƣởng, quan điểm về cách thức tổ chức bộ máy chính quyền quân chủ phong
kiến và cách thức thực thi quyền lực của giai cấp thống trị đã có từ các triều
đại trƣớc; đồng thời trên cơ sở tƣ tƣởng văn hóa truyền thống bản địa của dân
tộc Đại Việt, thích ứng và có nguồn gốc phát sinh, phát triển gắn với điều kiện


17

lịch sử cụ thể của bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội Đại Việt lúc bấy giờ. Tính
tiếp biến trong tƣ tƣởng chính trị thời Trần đƣợc thể hiện: Thứ nhất, trong quan
điểm về thể chế chính trị và tổ chức xã hội, chế độ hai vua với hai Hành khiển
ty của triều đình thời Trần thực sự là sáng kiến chính trị làm nên đặc điểm
hoàn toàn khác biệt của chính quyền nhà Trần so với các triều đại phong kiến

trƣớc đó; về quan tƣớc, nhà Trần đặt thêm nhiều chức quan với nhiệm vụ ngày
một cụ thể hơn, “theo quy chế cũ, cấm quân thuộc về Thƣợng thƣ sảnh. Đến
đây, đặt Khu mật viện để quản lãnh”1; phong tƣớc hầu, điền trang, thái ấp để
tôn thất nhà Trần cai quản các vùng đất, khi có biến thì tề tựu bàn kế và cùng
tham gia giải quyết các công việc trọng đại của quốc gia, tạo nên một chính
quyền trung ƣơng vừa đƣợc tổ chức dƣới hình thức một bộ máy quan chức
hoàn chỉnh, vừa mang tính thân tộc sâu sắc. Bên cạnh đó, quan điểm về kết cấu
giai cấp và tổ chức xã hội, quan điểm về xây dựng, thực hiện chức năng của nhà
nƣớc, quan điểm đào tạo, thi tuyển Nho học để bổ dụng làm quan, tận dụng
nguồn tri thức chính trị từ các nho sĩ có học thức cũng thể hiện tính tiếp biến
sâu sắc của nhà Trần về phƣơng diện tổ chức chính quyền. Thứ hai, trong quan
điểm đối nội và đối ngoại, tƣ tƣởng chính trị thời Trần tiếp thu, kế thừa và dung
hợp các quan điểm chính trị và hoạt động chính trị từ các triều đại đi trƣớc cũng
nhƣ các triều đại phong kiến phƣơng Đông, nhƣng phát triển nó gắn liền với
thực tiễn chính trị của xã hội Đại Việt. Tính tiếp biến của nhà Trần trong hoạt
động đối nội và đối ngoại biểu hiện thông qua việc đề cao Nho giáo, trọng
Pháp trị trong hành động, nhƣng luôn biểu thị một tinh thần dân tộc cao; kế
thừa chế độ phân phong khắc phục xu hƣớng phân tán; định hình nên một nền
chính trị thân dân, lấy tƣ tƣởng “khoan thƣ sức dân”, xem nhân dân nhƣ một
thực thể chính trị; xây dựng nghệ thuật quân sự và biện pháp ngoại giao tích
cực nhƣ giữ hòa khí, dùng quan hệ hôn nhân ràng buộc với triều đình, phong
vƣơng tƣớc... Cái mới, cái hiệu quả là ở chỗ ứng với thời thế của dân tộc, ứng
với thực lực của dân tộc Đại Việt trƣớc ba lần xâm lƣợc của quân Nguyên Mông, những quan điểm chính trị này tỏ ra thích ứng với xu thế vận động của
xã hội và phù hợp với lòng ngƣời, đã huy động đƣợc hết sức mạnh toàn dân
tộc trong sự nghiệp giữ nƣớc và xây dựng quốc gia Đại Việt hùng mạnh.
3.1.2. Tính thực tiễn trong tƣ tƣởng chính trị thời Trần
Tính thực tiễn của tƣ tƣởng chính trị thời Trần thể hiện rõ trên hai bình
diện: thứ nhất, trên phương diện phản ánh xã hội Việt Nam giai đoạn từ đầu thế
kỷ XIII đến cuối thế kỷ XIV. Có thể thấy xuyên suốt quá trình hình thành, phát
triển và suy vong của tƣ tƣởng chính trị thời Trần là một bức tranh khá trung

thực và toàn diện bối cảnh kinh tế, xã hội, văn hóa, tƣ tƣởng của dân tộc Đại
1

Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 128.


18

Việt dƣới sự thống trị của vƣơng triều Trần. Là một hình thái ý thức xã hội, tƣ
tƣởng chính trị thời Trần ra đời một mặt đáp ứng nhu cầu củng cố trật tự xã
hội, phát triển kinh tế, xây dựng một nƣớc Đại Việt thống nhất, độc lập, một
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhằm đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên bờ cõi và
chống lại ảnh hƣởng của văn hóa ngoại lai; mặt khác nó đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt tinh thần của dân tộc Việt đƣơng thời. Do đó, ứng với giai đoạn hình
thành, tƣ tƣởng chính trị phản ánh sự chuyển giao quyền lực từ triều đại nhà
Lý sang nhà Trần; ứng với giai đoạn phát triển, giai cấp thống trị triều Trần
với những vị vua anh minh, những tƣớng sĩ tài ba, trung thành, cộng với sự
giúp việc tận tình của hàng ngũ quan lại nho sĩ nối gót vào triều thông qua chế
độ khoa cử và giáo dục, đã khéo léo đề ra và thực hành đƣờng lối chính trị dựa
trên nền tảng tƣ tƣởng đƣợc kết hợp từ văn hóa bản địa truyền thống của dân
tộc ta với những yếu tố tích cực, tiến bộ của các luồng văn hóa tƣ tƣởng ngoại
lai đƣợc du nhập Việt Nam nhƣ Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo; ứng với giai
đoạn suy vi, những mâu thuẫn xã hội sâu sắc đã buộc tƣ tƣởng chính trị thời
kỳ này mất dần những yếu tố tích cực, mất đi khả năng giải quyết những vấn
đề do thực tiễn đặt ra cho giai cấp thống trị. Thứ hai là biến những quan điểm
chính trị thời kỳ này như: lòng yêu nước, ý chí về độc lập dân tộc, chủ quyền
lãnh thổ thành hành động. Tính thực tiễn này giúp nhà Trần giải quyết những
vấn đề đặt ra cho dân tộc nhƣ: vấn đề xây dựng sức mạnh và tinh thần đoàn kết
thống nhất trong chiến tranh giữ nƣớc; rèn luyện lòng yêu nƣớc cho nhân dân và
động viên nhân dân tham gia công cuộc bảo vệ đất nƣớc nhằm khẳng định quyền

độc lập tự chủ của đất nƣớc trƣớc nguy cơ ngoại xâm. Hành động chính trị mang
tính thực tiễn đó một mặt thiết lập, củng cố và phát triển Nhà nƣớc phong kiến tự
chủ Đại Việt, mặt khác là nền tảng để phát triển ý thức pháp quyền, hoàn thiện
các định chế đời sống xã hội, tạo môi trƣờng chính trị ổn định để giữ gìn độc lập
đi đôi với phát triển đời sống xã hội về mọi phƣơng diện.
3.1.3. Tính nhân bản sâu sắc trong tƣ tƣởng chính trị thời Trần
Lấy con ngƣời và đạo đức của con ngƣời làm gốc trên cơ sở đề cao con
ngƣời, quan tâm đến con ngƣời và rộng lớn hơn là vận mệnh của dân tộc, của
nhân dân là nội dung thể hiện tính nhân bản trong tƣ tƣởng chính trị thời Trần.
Tính nhân bản ấy biểu hiện: Thứ nhất, trong quan điểm thân dân, coi nhân dân
như một thực thể chính trị, đối với tầng lớp quý tộc tôn thất, vua tôi nhƣ anh
em một nhà, không hiềm khích, đố kỵ nhau; đối với tầng lớp quan lại xuất
thân từ các Nho sĩ, nhận thức rõ tài năng và sự trung thành của họ trong việc
phò giúp cơ đồ chính trị nên nhà Trần rất chú trọng sự nghiệp giáo dục khoa
cử, liên tục tổ chức thi kẻ sĩ trong nƣớc để tìm ngƣời hiền bổ sung vào bộ máy
quan lại; đối với tầng lớp bình dân, nô tỳ, nhà Trần cũng ý thức đƣợc tầm quan
trọng của họ trong đấu tranh giữ nƣớc cũng nhƣ xây dựng đất nƣớc, “chim


19

hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ
cánh ấy thì cũng là chim thƣờng thôi”1. Xuất phát từ quan điểm “thân dân”,
nhà Trần dựa vào lòng dân, “khoan thƣ sức dân”, tranh thủ sự đồng tình của
nhân dân làm kế sâu rễ bền gốc trong đánh giặc giữ nƣớc. Thứ hai, trong quan
điểm chính trị lấy đạo đức làm nền tảng cho hành động chính trị của nhà Trần.
Cụ thể, giai cấp thống trị phải không ngừng tu dƣỡng đạo đức, lấy những qui
phạm đạo đức của vua quan và nho sĩ đời Trần làm cơ sở cho hoạt động chính
trị của mình; xây dựng các nguyên tắc đạo đức, đƣa các nguyên tắc đạo đức tƣ
tƣởng vào các quyết sách chính trị để thực hành đức trị; lấy bản thân lối sống

thiện, cả đời vì đạo của chính mình làm gƣơng mà các vua quan tƣớng lĩnh
nhà Trần đã bảo đảm cho xã hội có tôn ti, trật tự mà giai cấp thống trị mong
muốn hƣớng đến. Quan điểm nhân bản lấy đạo đức làm nền tảng cho tƣ tƣởng
và quyết sách chính trị của nhà Trần đƣợc xây dựng trên cơ sở kết hợp giữa
truyền thống nhân đạo, tinh thần từ bi bác ái, nhân từ của Phật giáo và tƣ
tƣởng “đức trị” của Nho giáo đã làm cho giai cấp thống trị triều Trần trở thành
lực lƣợng đại diện cho dân tộc và nhân dân, lãnh đạo thành công công cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm, ổn định trật tự xã hội, tạo điều kiện cho xã hội
phát triển. Mặc dù quan niệm “thân dân” của nhà Trần vẫn chƣa thực sự vƣợt ra
khỏi ý thức hệ phong kiến nên tác dụng của nó còn hạn chế, tuy nhiên, quan
niệm chứa nhiều yếu tố tích cực này đã giúp giai cấp thống trị nhà Trần điều
hòa đƣợc những mâu thuẫn giai cấp vốn tồn tại rất gay gắt trong xã hội phong
kiến, giúp nhà Trần thực hiện đƣợc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động
đƣợc sức mạnh của toàn dân tham gia các cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc và
giành những thắng lợi vẻ vang, đồng thời tạo khối đoàn kết toàn dân để phát
triển kinh tế và văn hóa, làm cho nƣớc nhà thịnh vƣợng. Lòng thƣơng dân, tinh
thần độ lƣợng, yêu nƣớc… của các vua Trần xuất phát từ chủ nghĩa nhân đạo
cao cả truyền thống dân tộc đã thực sự trở thành triết lý chính trị chi phối mọi
hoạt động của nhân dân Đại Việt.
3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN
3.2.1. Ý nghĩa lý luận của tư tưởng chính trị thời Trần
Tƣ tƣởng chính trị thời Trần đã góp phần xây dựng, hệ thống hóa các khái
niệm, phạm trù, nguyên lý về chính trị, đạo đức, đóng góp cho sự phát triển của
hệ thống lý luận chính trị Việt Nam nói riêng, cho lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam
nói chung. Thứ nhất, với những sáng tạo trong tiếp biến cách thức xây dựng
chính quyền phong kiến trung ƣơng tập quyền ngày càng quy củ, có tổ chức
chặt chẽ từ trung ƣơng tới địa phƣơng; cùng với ý thức tự giác mong muốn có
một hệ tƣ tƣởng riêng, khác biệt với thời kỳ đất nƣớc bị nô dịch, đồng hóa văn
1


Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 51.


20

hóa với phƣơng Bắc là cơ sở và động lực để triều Trần nhận thức rõ tầm quan
trọng của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những phạm trù, những nguyên
lý về chính trị. Đó là các nguyên lý, phạm trù nhƣ: tổ chức chính quyền và quan
chế từ trung ương đến địa phương, quản lý nhà nước theo pháp luật, chính sách
chính trị vừa cương vừa nhu, xây dựng nghệ thuật quân sự, nghệ thuật ngoại
giao. Thứ hai, sự chuyển biến tích cực của đất nƣớc, sự khởi sắc của nền kinh tế
và sự ổn định xã hội sau cuộc khủng hoảng chính trị cuối thời Lý đã chứng tỏ
những chủ trƣơng, biện pháp nhà Trần thi hành là đúng đắn, tuy nhiên, về khía
cạnh đời sống tƣ tƣởng, ý thức hệ vẫn còn bị bỏ ngỏ. Trong khi đó, yêu cầu cấp
thiết đặt ra cho nhà Trần là phải chuyển giao quyền lực một cách triệt để, không
chỉ ở việc phế truất, nhƣờng ngôi, mà còn ở tƣ tƣởng tinh thần, sao cho dân
chúng không còn thƣơng tiếc triều cũ và khẳng định đƣợc nét riêng có của nhà
Trần. Do đó, những phạm trù chính trị nhƣ: tư tưởng quân quyền, tư tưởng vua
tôi hòa mục, tư tưởng lấy dân làm gốc, khoan thư sức dân... đƣợc nhà Trần xây
dựng đặc sắc với những nét rất riêng.
Những khái niệm, phạm trù, nguyên lý chính trị đƣợc nhà Trần xây dựng
thực sự đã đƣa tƣ tƣởng chính trị thời Trần đạt đến đỉnh cao của sự phát triển
của tƣ tƣởng chính trị Việt Nam thời phong kiến. Sở dĩ đạt đƣợc đỉnh cao đó là
vì, thứ nhất, tƣ tƣởng chính trị thời Trần đƣợc hình thành xuất phát từ những
nhu cầu lịch sử, kinh tế, xã hội thế kỷ XIII-XIV, đó không chỉ là nhu cầu củng
cố quyền lực chính trị, thiết lập vƣơng triều phong kiến mà còn phải hoàn thiện
bộ máy nhà nƣớc phong kiến để khẳng định tự tôn dân tộc, chống xâm lƣợc liên
tiếp của kẻ thù Nguyên - Mông hùng mạnh, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Chính
thời đại, chính những nhu cầu lịch sử ấy đã đƣa đến sự hình thành tất yếu của
những phạm trù, nguyên lý chính trị mà giai cấp thống trị triều Trần sáng tạo và

vận dụng trong nhiệm vụ lịch sử của mình. Thứ hai, sau một thời kỳ độc lập
kéo dài từ triều Lý trƣớc đó, nhờ sự chuyển giao quyền lực khá êm thắm từ
triều Lý sang triều Trần, mà thời đại nhà Trần đƣợc kế tục những thành tựu phát
triển về mọi mặt của triều Lý. Thời đại hòa bình tạo những điều kiện thuận lợi
cho sự xuất hiện của những nhà tƣ tƣởng, nhà thông thái đƣợc học hành, đào
tạo bài bản, có óc quan sát, khái quát cao. Nhờ đó mà họ đóng vai trò không chỉ
là ngƣời đề ra những khái niệm, phạm trù chính trị đóng góp cho lý luận chính
trị thời Trần mà còn là ngƣời chỉ huy, thực hành những lý luận chính trị ấy. Thứ
ba, thời Trần đặc biệt có những vị vua đồng thời là nhà tƣ tƣởng, các vua ở ngôi
một thời gian và lên làm Thái Thƣợng Hoàng, vừa là ngƣời tƣ vấn chính trị, vừa
tu thiền học đạo, vừa trực tiếp phụ giúp việc nƣớc khi vua còn nhỏ, khi nƣớc
gặp nguy biến. Điểm hay ở đây là ngƣời đứng đầu nhà nƣớc vừa là ngƣời hoạt
động lý luận, vừa là ngƣời hoạt động thực tiễn. Do vậy mà các vua Trần và các
tƣớng sĩ thời Trần là những tầng lớp có điều kiện thuận lợi nhất trong việc khái


21

quát lý luận, kiểm nghiệm lý luận trong thực tiễn, rồi từ thực tiễn sáng tạo
những phạm trù, khái niệm, nguyên lý chính trị đi sâu, đi sát vào hoạt động trị
nƣớc, an dân, chống kẻ thù xâm lƣợc dƣới thời Trần. Tuy nhiên, chịu ảnh
hƣởng của những hạn chế do điều kiện lịch sử - xã hội và nhận thức thời đại
quy định mà những khái niệm, phạm trù, nguyên lý chính trị nhà Trần nêu ra và
thực hiện còn đƣợc trình bày tản mạn, chƣa có hệ thống trong văn, thơ, trong
quan niệm của vua, quan, tƣớng lĩnh, còn hòa lẫn vào những triết lý đạo đức
đƣợc giai cấp thống trị triều Trần vận dụng trong răn dạy nhân dân, tƣớng sĩ.
Đó cũng là mặt hạn chế chung của tƣ tƣởng chính trị thời kỳ này. Hạn chế đó
không thể phủ nhận những giá trị lý luận sâu sắc mà tƣ tƣởng chính trị thời
Trần đóng góp cho lịch sử tƣ tƣởng chính trị Việt Nam. Sự phát triển toàn diện
của Đại Việt thời Trần làm nên hào khí Đông A vang danh bốn cõi, đánh tan ba

lần xâm lƣợc của quân Nguyên - Mông khét tiếng châu lục là minh chứng hùng
hồn cho giá trị lý luận ấy.
3.2.2. Ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng chính trị thời Trần
Là khung lý thuyết để xây dựng xã hội Đại Việt hiện thực, tƣ tƣởng chính
trị thời Trần thực hiện nhiệm vụ quan trọng của mình, đó là chỉ đạo việc hiện
thực hóa các quy luật ấy trong đời sống chính trị - xã hội của nhân dân Đại
Việt. Thứ nhất, tƣ tƣởng chính trị thời Trần góp phần hoàn thiện mô hình nhà
nước quân chủ chuyên chế quy củ đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Những giá trị
thực tiễn về xây dựng thể chế chính quyền thống nhất từ trung ƣơng đến địa
phƣơng, điều hành xã hội dựa trên luật pháp, xây dựng nền chính trị mang bản
chất văn hóa và thân dân của thời Trần đến nay vẫn hiện diện trong tiến trình
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân ở Việt Nam. Một là, trong lý luận về nhà nƣớc pháp quyền, vấn đề tối cao
của pháp luật là vấn đề quan trọng nhất. Luật pháp không chỉ là công cụ của
giai cấp cầm quyền, mà còn là công cụ của mọi công dân trong xã hội. Với
những hiểu biết sâu sắc về pháp quyền và nhà nƣớc pháp quyền, Hồ Chí Minh
đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân ở Việt Nam. Hai là, thời Trần, giai cấp cầm quyền tổ
chức hội nghị Bình Than, Diên Hồng để lắng nghe ý kiến các bô lão là đại diện
cho tiếng nói của nhân dân, trực tiếp tiếp xúc với vua, cùng vua bàn kế sách giữ
nƣớc. Kế thừa tƣ tƣởng trao quyền cho dân, nhà nƣớc ta chỉ rõ nhân dân không
trao tất cả quyền lực cho một cơ quan nào, một cá nhân nào, mà chỉ trao cho
mỗi cơ quan nhà nƣớc những quyền hành nhất định, và các cơ quan ấy chịu
trách nhiệm phối hợp hành động để có hiệu quả cao nhất. Sự kiểm tra, giám sát
của nhân dân theo nguyên tắc tập trung dân chủ đối với đại biểu do mình bầu ra
là cách tốt nhất nhằm bảo đảm cho nhân dân giữ đƣợc quyền lực của mình sau
khi đã bầu ra đại diện của mình. Ba là, vận dụng giá trị nhân bản của tƣ tƣởng


22


chính trị thời Trần vào thời đại đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
Hồ Chí Minh khẳng định trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, nhà
nƣớc phải dựa vào dân, bắt nguồn từ sức mạnh của quần chúng nhân dân để
hoàn thành sứ mệnh của nhà nƣớc.
Thứ hai, tƣ tƣởng chính trị thời Trần là nền tảng để xây dựng nghệ thuật
quân sự và đường lối ngoại giao độc đáo, bảo vệ nền độc lập, thống nhất của
dân tộc. Nghệ thuật quân sự biểu hiện ở tƣ tƣởng đánh giặc giữ nƣớc phải dựa
vào lòng dân, chú trọng bồi dƣỡng sức dân; luôn coi trọng về chất lƣợng trong
xây dựng quân đội, “quân cần tinh không cần nhiều”; “dĩ đoản chế trƣờng”, lấy
ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh. Để tạo khối đại đoàn kết trong kháng chiến,
nhà Trần khôn khéo đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích giai cấp, vua tôi đồng
lòng, anh em hòa mục, nƣớc nhà góp sức, mà trƣớc hết là đoàn kết trong nội bộ
thân tộc, trong triều đình, làm gƣơng cho sự đoàn kết toàn dân. Những ý nghĩa
thực tiễn trong nghệ thuật quân sự nhà Trần đƣợc các triều đại phong kiến về
sau vận dụng để xây dựng quân đội và quốc phòng. Trong thời đại Hồ Chí
Minh, suốt cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nƣớc, nghệ thuật
quân sự lấy nhỏ chế ngự lớn, “dĩ đoản chế trƣờng” và sự đoàn kết toàn dân làm
sức mạnh giữ nƣớc luôn đƣợc vận dụng trong chiến tranh du kích, trong các
cuộc tổng tiến công nổi dậy của dân tộc, khi mà sức mạnh của nhân dân hòa
làm một. Tƣ tƣởng giữ nƣớc ngay trong thời bình; xây dựng lực lƣợng quốc
phòng tinh nhuệ, có lòng yêu nƣớc, ý thức tự chủ dân tộc, có tinh thần đoàn kết,
xả thân vì nƣớc; lấy yếu trị mạnh, kết hợp hài hòa các mƣu lƣợc quân sự với
thái độ quân sự mềm dẻo, tùy cơ ứng biến vẫn hiện diện trong đƣờng lối quân
sự hiện nay ở Việt Nam.
Quan điểm ngoại giao vừa cƣơng, vừa nhu cũng là một giá trị thực tiễn
rất sâu sắc của tƣ tƣởng chính trị thời Trần. Sự kết hợp giữa sức mạnh quân sự
và đƣờng lối ngoại giao vừa cƣơng vừa nhu không chỉ giúp Đại Việt giữ yên
thế nƣớc, ổn định chính trị để phát triển xã hội mà còn làm nên hào khí Đông A,
ba lần thắng lợi trƣớc đội quân Nguyên - Mông hùng mạnh, lẫy lừng và là nỗi

kinh sợ của nhiều quốc gia trong khu vực thời kỳ này. Do đó, thật là thiếu sót
khi nghiên cứu giá trị thực tiễn của tƣ tƣởng chính trị thời Trần mà không kể
đến giá trị của nghệ thuật quân sự và ngoại giao thời Trần với tình hình ổn định
chính trị của khu vực Đông Á và Đông Nam Á thế kỷ XIII - XIV. Kế thừa nghệ
thuật ngoại giao thời Trần, trong sự nghiệp xây dựng đất nƣớc và bảo vệ tổ
quốc ngày nay, Việt Nam đang theo đuổi đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển, vì độc lập, tự do, thống nhất và phồn vinh của
dân tộc mình cũng nhƣ của các dân tộc trên thế giới.
Thời đại ngày nay, trƣớc những diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, trƣớc
sự tấn công, khiêu khích, hiếp đáp của kẻ thù trên phƣơng diện kinh tế cũng


23

nhƣ chủ quyền lãnh thổ thì tƣ tƣởng ngoại giao vừa cƣơng vừa nhu và quan
điểm chính trị Thân dân, Khoan thƣ sức dân là những quan điểm chính trị
chúng ta cần học hỏi, kế thừa và vận dụng trong chiến lƣợc kinh tế, chính trị để
giữ vững sự hòa bình và ổn định cho dân tộc.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Tƣ tƣởng chính trị thời Trần tựu trung lại phản ánh ba đặc điểm, bao gồm
tính tiếp biến, tính thực tiễn và tính nhân bản sâu sắc. Đây là những đặc điểm cơ
bản góp phần làm nên sự thành công của tƣ tƣởng chính trị thời Trần. Thông
qua những đặc điểm kể trên, tƣ tƣởng chính trị thời Trần còn đọng lại những ý
nghĩa sâu sắc cả về phƣơng diện lý luận và thực tiễn, soi rọi cho tiến trình lịch
sử của dân tộc và quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Về phƣơng diện lý luận, tƣ tƣởng chính trị thời Trần góp phần xây dựng, hệ
thống hóa các khái niệm, phạm trù, nguyên lý về chính trị, đạo đức, đóng góp
cho việc hoàn thiện hệ thống lý luận chính trị trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam.
Về phƣơng diện thực tiễn, tƣ tƣởng chính trị thời Trần là khung lý thuyết chỉ
đạo việc hiện thực hóa các quy luật chính trị trong đời sống chính trị - xã hội

của nhân dân Đại Việt, cụ thể là góp phần hoàn thiện mô hình nhà nƣớc quân
chủ chuyên chế quy củ đầu tiên của dân tộc Việt Nam, là nền tảng để xây dựng
nghệ thuật quân sự và đƣờng lối ngoại giao độc đáo nhằm bảo vệ nền độc lập,
thống nhất của dân tộc.
KẾT LUẬN CHUNG
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XIV, tƣ tƣởng chính trị thời Trần đã
kế thừa, phát triển tƣ tƣởng chính trị các triều đại trƣớc, chịu ảnh hƣởng, tác
động của tinh thần Tam giáo đồng nguyên, kết hợp, giao thoa với các giá trị
truyền thống của dân tộc Việt Nam; đồng thời, những nhu cầu thực tiễn của
nhân dân Đại Việt dƣới thời đại nhà Trần cũng đòi hỏi sự hình thành tƣ tƣởng
chính trị giúp thống nhất quốc gia, dân tộc, ổn định trật tự xã hội. Trên cơ sở
những điều kiện kinh tế xã hội, những nhu cầu xã hội và những tiền đề lý luận
ấy, tƣ tƣởng chính trị thời Trần đã đƣợc định hình với những nội dung phong
phú, sâu sát với thực tiễn.
Nội dung tƣ tƣởng chính trị thời Trần đƣợc thể hiện ở những điểm sau:
Một là, giai cấp thống trị triều Trần xây dựng quan điểm về thể chế chính trị và
tổ chức, quản lý xã hội với thế mạnh là lấy quan điểm thân dân làm trọng, nhằm
gắn kết lợi ích của các giai tầng trong xã hội, hƣớng đến mục tiêu lớn nhất là
đoàn kết để phát triển và bảo vệ đất nƣớc. Nhìn chung, nội dung tƣ tƣởng chính
trị thời Trần về thể chế chính trị và tổ chức xã hội còn mô phỏng tƣ tƣởng chính
trị của nhà nƣớc phong kiến tập quyền phƣơng Đông, nhƣng đã có những nét
riêng nổi bật, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc quản lí xã hội nhƣ:


24

cho Vua và Thái Thƣợng Hoàng cùng giữ ngôi báu, hạn chế sự lấn át của Phật
giáo hay Nho giáo trên trƣờng chính trị, đặt thêm nhiều chức quan chuyên trách
ở địa phƣơng, xây dựng hệ thống Pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật,

kết hợp hài hòa giữa đức trị và pháp trị trong thuật trị nƣớc của giai cấp cầm
quyền phong kiến triều Trần. Hai là, tƣ tƣởng chính trị thời Trần dẫn dắt, lãnh
đạo nhân dân thực hiện các hoạt động đối nội để ổn định trật tự chính trị - xã
hội trong nƣớc và các hoạt động đối ngoại để giữ yên bờ cõi, bảo vệ độc lập chủ
quyền đất nƣớc. Trong hầu hết các hoạt động chính trị - xã hội, giai cấp thống
trị triều Trần luôn gắn vận mệnh, lợi ích của vƣơng triều với vận mệnh, lợi ích
của toàn dân tộc, làm nâng tầm chủ nghĩa yêu nƣớc, ý thức về quyền độc lập tự
chủ của dân tộc lên một bƣớc phát triển cao hơn. Tinh thần đó còn thể hiện rõ
nét trong quan điểm và cách thức tổ chức quân sự của nhà nƣớc phong kiến thời
Trần, trong tƣ tƣởng về chính sách và đƣờng lối ngoại giao của chính quyền
phong kiến triều Trần.
Từ những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng chính trị thời Trần, có thể đúc rút
ra ba đặc điểm cơ bản phản ánh sâu sắc thực chất và ý nghĩa lịch sử của tƣ
tƣởng chính trị thời Trần, đó là tính tiếp biến, tính thực tiễn và tính nhân bản
sâu sắc trong tƣ tƣởng chính trị thời Trần. Về phƣơng diện giá trị, tƣ tƣởng
chính trị thời Trần đã đóng góp cho hệ thống lý luận chính trị của Việt Nam ta
nhiều khái niệm, phạm trù, nguyên lý chính trị không chỉ có ý nghĩa cho thời
đại nhà Trần mà còn có ý nghĩa cho tiến trình xây dựng và hoàn thiện tƣ tƣởng
chính trị ở Việt Nam hiện nay. Từ ý nghĩa lý luận đó, tƣ tƣởng chính trị thời
Trần còn hiện thực hóa những quy luật ấy về mặt thực tiễn, góp phần hoàn thiện
mô hình nhà nƣớc quân chủ chuyên chế quy củ đầu tiên của dân tộc Việt Nam,
là nền tảng để xây dựng nghệ thuật quân sự và đƣờng lối ngoại giao độc đáo
nhằm bảo vệ nền độc lập, thống nhất của dân tộc. Những bài học về dân, về sự
kết hợp sức mạnh quân sự với tinh thần đoàn kết dân tộc, về quan điểm vừa
cƣơng vừa nhu trong hoạt động ngoại giao luôn là vấn đề nóng qua các thời đại,
nhất là thời đại giao lƣu văn hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.




×