Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Chuyên đề dạy học theo chủ đề và việc ứng dụng trong giảng dạy bộ môn GDCD bậc THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.98 KB, 18 trang )

Chuyên đề

DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ VỚI VIỆC ỨNG DỤNG TRONG GIẢNG DẠY BỘ
MÔN GDCD THPT

Chương 1

DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ
VỚI CHỦ TRƯƠNG ĐỔI MỚI GIÁO DỤC HIỆN NAY

1.1. Thế nào là dạy học theo chủ đề?
Dạy học theo chủ đề (themes based leraning) là hình thức tìm tòi những khái niệm, tư
tưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,… có sự giao thoa, tương đồng lẫn
nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các
môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con đường tích hợp những nội dung
từ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau) làm thành nội dung học[1] trong
một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn để
tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện đại, ở đó
giáo viên không dạy học chỉ bằng cách truyền thụ (xây dựng) kiến thức mà chủ yếu là
hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các
nhiệm vụ có ý nghĩa thực tiễn.
Dạy học theo chủ đề là một mô hình mới cho hoạt động lớp học thay thế cho lớp học
truyền thống (với đặc trưng là những bài học ngắn, cô lập, những hoạt động lớp học mà
giáo viên giữ vai trò trung tâm) bằng việc chú trọng những nội dung học tập có tính tổng
quát, liên quan đến nhiều lĩnh vực, với trung tâm tập trung vào học sinh và nội dung
tích hợp với những vấn đề, những thực hành gắn liền với thực tiễn.
Với mô hình này, học sinh có nhiều cơ hội làm việc theo nhóm để giải quyết những vấn
đề xác thực, có hệ thống và liên quan đến nhiều kiến thức khác nhau. Các em thu thập
thông tin từ nhiều nguồn kiến thức.



Việc học của học sinh thực sự có giá trị vì nó kết nối với thực tế và rèn luyện được nhiêu
kĩ năng hoạt động và kĩ năng sống. Học sinh cũng được tạo điều kiện minh họa kiến thức
mình vừa nhận được và đánh giá mình học được bao nhiêu và giao tiếp tốt như thế
nào.Với cách tiếp cận này, vai trò của giáo viên chỉ là người hướng dẫn, chỉ bảo thay vì
quản lý trực tiếp học sinh làm việc.
Dạy học theo chủ đề ở bậc THPT là sự cố gắng tăng cường tích hợp kiến thức, làm cho
kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; là sự tích hợp vào nội dung những ứng
dụng kĩ thuật và đời sống thông dụng làm cho nội dung học có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn.
Một cách hoa mỹ; đó là việc “thổi hơi thở” của cuộc sống vào những kiến thức cổ điển,
nâng cao chất lượng “cuộc sống thật” trong các bài học.
Theo một số quan điểm, dạy học theo chủ đề thuộc về nội dung dạy học chứ không phải
là phương pháp dạy học nhưng chính khi đã xây dựng nội dung dạy học theo chủ đề,
chính nó lại tác động trở lại làm thay đổi rất nhiều đến việc lựa chọn phương pháp nào là
phù hợp, hoặc cải biến các phương pháp sao cho phù hợp với nó.
Vì là dạy học theo chủ đề nên căn bản quá trình xây dựng chủ đề tạo ra quá trình tích
hợp nội dung[2] (đơn môn hoặc liên môn) trong quá trình dạy.
1.2. Ưu thế của dạy học chủ đề so với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện
nay.
Mọi sự so sánh giữa bất kì mô hình hay phương pháp dạy nào cũng trở nên khập khiễng
bởi mỗi một mô hình hay phương pháp đều có những ưu thế hoặc những hạn chế riêng
có.
Tuy nhiên, nếu đặt ra vấn đề cho ngành giáo dục hiện nay là: Làm thế nào để nội dung
kiến thức trở nên hấp dẫn và có ý nghĩa trong cuộc sống? Làm thế nào để việc học tập
phải nhắm đến mục đích là rèn kĩ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt là các vấn đề đa dạng
của thực tiễn? Có phải cứ phải dạy kiến thức theo từng bài thì học sinh mới hiểu và vận
dụng được kiến thức? Làm thế nào để nội dung chương trình dạy luôn được cập nhật
trước sự bùng nổ vũ bão của thông tin để các kiến thức của việc học và dạy học thực sự
là thế giới mới cho những người học?
Việc trả lời các câu hỏi trên đồng nghĩa với việc xác định mục tiêu giáo dục, mô hình dạy

học trong thời đại mới. Đồng thời, cũng sẽ chỉ ra cho ta thấy những lợi thế nhất định của
từng mô hình khi áp dụng vào giảng dạy.
Rõ ràng, nếu căn cứ vào việc tìm câu trả lời cho những câu hỏi này thì dạy học theo chủ
đề khi so sánh với dạy học theo cách tiếp cận truyền thống hiện nay, sẽ có những ưu
điểm[3] sau:


Dạy học theo cách tiếp cận truyền thống
hiện nay
1- Tiến trình giải quyết vấn đề tuân theo
chiến lược giải quyết vấn đề trong khoa học
vật lý: logic, chặt chẽ, khoa học.. do giáo
viên (SGK) áp đặt (G.viên là trung tâm).

Dạy học theo chủ đề

2- Nếu thành công có thể góp phần đạt tới
mức nhiều mục tiêu của môn học hiện nay:
chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hoạt
động, bồi dưỡng các phương thưc tư duy
khoa học và các phương pháp nhận thức
khoa học: PP thực nghiệm, PP tượng tự, PP
mô hình, suy luận khoa học…)

2- Hướng tới các mục tiêu: chiếm lĩnh nội
dung kiến thức khoa học, hiểu biết tiến trình
khoa học và rèn luyện các kĩ năng tiến trình
khoa học như: quan sát, thu thập thông tin,
dữ liệu; xử lý (so sánh, sắp xếp, phân loại,
liên hệ…thông tin); suy luận, áp dụng thực

tiễn.

1- Các nhiệm vụ học tập được giao, học sinh
quyết định chiến lươc học tập với sự chủ
động hỗ trợ, hợp tác của giáo viên (Học sinh
là trung tâm).

3- Dạy theo từng bài riêng lẻ với một thời
lượng cố định.
3- Dạy theo một chủ đề thống nhất được tổ
chức lại theo hướng tích hợp từ một phần
trong chương trình học.
4- Kiến thức thu được là các khái niệm trong
4- Kiến thức thu được rời rạc, hoặc chỉ có một mối liên hệ mạng lưới với nhau.
mối liên hệ tuyến tính (một chiều theo thiết
kế chương trình học).
5- Trình độ nhận thức sau quá trình học tập 5- Trình độ nhận thức có thể đạt được ở mức
thường theo trình tự và thường dừng lại ở độ cao: Phân tích, tổng hợp, đánh giá.
trình độ biết, hiểu và vận dụng (giải bài tập).
6- Kết thúc một chương học, học sinh không
có một tổng thể kiến thức mới mà có kiến 6- Kết thúc một chủ đề học sinh có một tổng
thức từng phần riêng biệt hoặc có hệ thống thể kiến thức mới, tinh giản, chặt chẽ và
kiến thức liên hệ tuyến tính theo trật tự các khác với nội dung trong sách giáo khoa.
bài học.
7- Kiến thức còn xa rời thực tiễn mà người
học đang sống do sự chậm cập nhật của nội
dung sách giáo khoa.
7- Kiến thức gần gũi với thức tiễn mà học
8- Kiến thức thu được sau khi học thường là sinh đang sống hơn do yêu cầu cập nhật
hạn hẹp trong chương trình, nội dung học. thông tin khi thực hiện chủ đề.

8- Hiểu biết có được sau khi kết thúc chủ đề
thường vượt ra ngoài khuôn khổ nội dung


9- Không thể hướng tới nhiều mục tiêu nhân cần học do quá trình tìm kiếm, xử lý thông
văn quan trọng như: rèn luyện các kĩ năng tin ngoài nguồn tài liệu chính thức của học
sống và làm việc: giao tiếp, hợp tác, quản lý, sinh.
điều hành, ra quyết định…
9- Có thề hướng tới, bồi dưỡng các kĩ năng
làm việc với thông tin, giao tiếp, ngôn ngữ,
hợp tác.

* Điểm tương đồng giữa dạy học chủ đề và dạy học truyền thống là VẪN COI VIỆC
LĨNH HỘI NỘI DUNG LƯỢNG KIẾN THỨC NỀN TẢNG, vì thế dạy học theo chủ đề
là mô hình dạy học có thể vận dụng vào thực tiển hiện nay dễ dàng hơn một số mô hình
khác. Điều cần làm để có thể vận dụng nó là phải tổ chức lại một số bài học thành một
chủ đề được cho là sự tích hợp tốt hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn cách trình bày của sách
giáo khoa mà chúng ta đang có.
* Điểm khác biệt cơ bản dẫn tới nhiều khác biệt ở trên là:
Một, dạy học theo chủ đề cũng như một số mô hình tích cực khác, giáo viên không đựoc
coi học sinh là chưa biết gì trước nội dung bài học mới mà trái lại, luôn phải nghĩ rằng
các em tự tin và có thể biết nhiều hơn ta mong đợi, vì thế dạy học cần tận dụng tốt đa
kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng có sẵn của các em và khuyến khích khả năng biết nhiều
hơn thế của học sinh về một vấn đề mới để giảm tối đa thời gian và sự thụ động của học
sinh trong khi tiếp nhận kiến thức mới, để tăng hiểu biết lên nhiều lần so với nội dung cần
dạy.
Hai, dạy học theo chủ đề nhắm tới việc sử dụng kiến thức, hiểu biết vào thực tiễn các
nhiệm vụ học tập nhắm tới sự lĩnh hội hệ thống kiến thức có sự tích hợp cao, tinh giản và
tính công cụ cao, đồng thời hướng tới nhiều mục tiêu giáo dục tích cực khác (VD các
năng lực), trong khi dạy học theo truyền thống lại coi trọng việc xây dựng kiến thức nên

chỉ nhắm tới các mục tiêu được cho là quá trình này có thể mang lại.
Ba, trong dạy học theo chủ đề kiến thức mới được học sinh lĩnh hội trong quá trình giải
quyết các nhiệm vụ học tập, đó là kiến thức tổ chức theo một tổng thể mới khác với kiến
thức trình bày trong tất cả các nguồn tài liệu. Hơn nữa, với việc học sinh lĩnh hội kiến
thức trong quá trình giải quyết nhiệm vụ học tập, cũng mang lại một lợi thế to lớn đó là
mở rộng không gian, thời gian dạy học, tinh giản thời gian dạy, độ ứng dụng thực tế cao
hơn nhiều.
Bốn, với dạy học theo chủ đề, vai trò của giáo viên và học sinh cơ bản là thay đổi và khác
so với dạy học truyền thống. Người giáo viên từ chỗ là trung tâm trong mô hình truyền
thống đã chuyển sang là người hướng dẫn, học sinh là trung tâm.


1.3. Tại sao nên quan tâm đến dạy học theo chủ đề trong tiến trình đổi mới giáo dục
hiện nay?
* Về mặt lý luận
Hiện nay, có ba lý do quan trọng cần lưu tâm và đặt chúng ta phải nghĩ đến một giải pháp
làm thế nào để đáp ứng và giải quyết được ba vần đề này, chình là:
Một, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú trọng đổi mới
phương pháp, cách tiếp cận dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Hai, tính giới hạn về định lượng nội dung trong sách giao khoa và quá trình bùng nổ
thông tin, tri thức kèm theo đó là nhu cầu cập nhật kiến thức vô hạn đối với sự học của
người học.
Ba, với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống hiện có, liệu chúng ta đủ khả năng để thực
hiện các mục tiêu dạy học tích cực như; tăng cương tích hợp các vấn đề cuộc sống, thời
sự vào bài giảng; tăng cường sự vận dụng kiến thức của học sinh sau quá trình học vào
giải quyết các vấn đề thực tiễn; rèn luyện các kĩ năng sống phong phú vốn rất cần cho
người học hiện nay?
Thêm vào đó, ngoài việc quá trình dạy học hướng tới định hướng nội dung học như đã
có, thì đổi mới dạy học hiện nay còn có tham vọng tiến xa hơn đó là định hướng hình
thành NĂNG LỰC cho học sinh.

Do đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở trên so với
dạy học theo cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết được ba vấn đề
trên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi mới chương trình và sách giáo
khoa trong thời gian tới.
* Trên phương diện thực tiễn
Cần khẳng định rằng, mục tiêu giáo dục hiện nay của chúng ta đã bắt đầu chuyển hướng
sang chú trọng tới định hướng phát triển năng lực học sinh. Theo đó, chúng ta kì vọng
vào quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá chú trọng tăng cường tính vận dụng kiến thức
vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của người học và nhờ vào quá trình đó các năng
lực được hình thành.
Tuy nhiên, trong thực tế, diện mạo đời sống xã hội không hiện diện đầy đủ ở bất cứ bài
nào trong chương trình học. Nói cách khác, không thể gom hết toàn bộ xã hội sinh động
vào nội dung chương trình của bất kì một môn học nào như một dạng kim chỉ nam xuyên
suốt, kinh điển, giáo điều.
Thực tế trên cho thấy, khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và
xã hội, đòi hỏihọc sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp hoặc liên quan đến nhiều môn
học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp đa chiều, liên môn. Do đó,


hệ quả là buộc chúng ta phải xây dựng các chủ đề để tiến hành dạy học. Tất nhiên, việc
xây dựng các chủ đề trong dạy học cũng không tham vọng sẽ giải quyết việc đưa toàn bộ
thực tiễn vào chương trình, thậm chí mô hình này cũng chưa thể tạo ra một phương pháp
giáo dục hoàn toàn mới, nhưng quan trọng hơn hết chính là nó mở đường cho giáo viên
và học sinh tiếp cận với kiến thức theo một hướng khác. Không phải là sự thụ động mà là
chủ động của học sinh. Không phải là sự tiếp nhận kiến thức sau khi học mà có thể là
ngay khi làm nhiệm vụ học. Nó cũng không chỉ dừng ở mục tiêu “đầu vào” về kiến thức
mà nó còn hướng tới định hướng “đầu ra” (tức khả năng vận dụng kiến thức vào giải
quyết thực tiễn[4]) nhờ vào việc xác định các năng lực cần phát triển song song với
những mục tiêu về chuẩn nội dung kiến thức, kĩ năng trong chương trình học.
Ngoài ra, một thực tế khác cũng đáng quan tâm: hiện nay, ít nhiều trong chương trình học

(bao gồm cả trong một bộ môn theo bậc hoặc các môn khác nhau theo một bậc) cũng có
nhiều đơn vị kiến thức có tính giao thoa, liên hệ tương đối gần hoặc trùng lặp.
Ví dụ 1: Ở cấp độ đơn môn, môn GDCD bậc THPT, các đơn vị bài: bài 8 – Nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, (GDCD 11, tr 81); bài 7 – Công dân với các quyền dân chủ (GDCD 12,
tr 68 - 78), nội dung có sự liên hệ;
Hoặc: bài 12 – Công dân với tình yêu hôn nhân và gia đình (GDCD 10); mục 1 bài 4
– Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội (GDCD 12, tr
32 -35), nội dung có sự liên hệ gần nhau và phát triển cao hơn ở tầm nhận thức lũy tiến từ
khối 10 lên khối 12, từ giáo dục ý thức đạo đức lên ý thức pháp luật.
Ví dụ 2: ở cấp độ liên môn như: bài 14 – Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc (GDCD 10, tr95); bài 14 – Chính sách quốc phòng an ninh (GDCD 11, tr 110); và
bài 5 – Chính sách quốc phòng an ninh và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa (GDQP) có
nội dung tương đối gần và có sự lặp lại ở một số khái niệm.
Nhằm tránh hiện trạng trên, cũng như nhằm tạo ra một đơn vị kiến thức học có tính sâu
sắc hơn, có tính liên hệ tổng thể, bao quát và đầy đủ hơn, thì việc xây dựng các chủ đề
tích hợp các nội dung như đã trình bày là cần thiết.

Chương 2

NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN TRONG VIỆC ỨNG DỤNG DẠY HỌC THEO
CHỦ ĐỀ ĐỐI VỚI BỘ MÔN GDCD THPT


2. 1. Tình hình ứng dụng việc dạy học theo chủ đề trong bộ môn GDCD hiện nay
Dạy học theo chủ đề không phải là mô hình dạy học hoàn toàn mới trên thế giới. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, việc quan tâm đến mô hình này mới chỉ dừng lại ở bước đầu tiếp cận.
Song, căn cứ vào thực tiễn và kế hoạch đổi mới căn bản nền giáo dục hiện nay, có thể
khẳng định mô hình dạy học này sẽ còn tiếp tục được nghiên cứu và thử nghiệm để có
được những bài học kinh nghiệm xác đáng trước khi chính thức áp dụng phục vụ cho chủ
trương đối mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.

Nhìn lại quá trình tiếp cận và triển khai, có thể liệt ra một số chủ trương lớn và các hoạt
động bổ trợ liên quan đã và đang cụ thể hóa trong “khâu chuẩn bị” trong lộ trình xây
dựng mô hình dạy học theo chủ đề ở nước ta như sau:
+ Chủ trương giảm tải, cắt bỏ nhiều nội dung không cần thiết và trùng nhau gây áp lục và
khó khăn cho việc dạy và học trong suốt những năm qua.
+ Tập huấn về đổi mới kiểm tra đánh giá đầu ra theo định hướng phát triển năng lực học
sinh (2014). Thực chất, đây là khâu “đi tắt, đón đầu” trong lộ trình trang bị kiến thức cần
thiết cho giáo viên dần tiếp cận việc dạy học theo chủ đề, trước khi có sự đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục trên phương diện nội dung, đó là: cơ cấu lại môn học sau năm
2015. Đây cũng là bước đệm quan trọng của Bộ GD & ĐT nhằm trang bị cho giáo viên
những kỹ năng, thao tác, quy trình để giáo viên có thể áp dụng trước vào khâu kiểm tra
đánh giá học sinh khi các em tham gia vào một tiết học theo chủ đề.
+ Bên cạnh đó, trong năm 2014, việc triển khai Hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi
mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá… theo công văn số 5555/ BGDĐT, ngày
18/10/2014 của Bộ giáo dục và Đào tạo, theo đó; mỗi tổ chuyên môn (trong đó có môn
GDCD) xây dựng ít nhất một học kỳ 02 chủ đề để giảng dạy thử, dự giờ, phân tích, rút
kinh nghiệm…cũng là khởi đầu quan trọng giúp giáo viên có được vốn hiểu biết nhất
định về thế nào là xây dựng tiết dạy, bài dạy theo chủ đề trước khi có khung chương trình
cụ thể.
+ Ở Đồng Nai, các nội dung trên cũng đã được tổ chức, kèm theo đó là Kế hoạch tổ chức
Hội thi Sử dụng kiến thức liên môn để giải quyết nội dung bài dạy ở các bộ môn năm
2014(trong đó có môn GDCD) cũng là minh chứng cho thấy tình hình ứng dụng dạy học
theo chủ đề hiện nay là có cơ sở và được quan tâm nhiều từ các phía ban ngành.
Các hoạt động trên, chính là tiền đề thuận lợi giúp giáo viên bộ môn có cơ hôi tiếp cận
mô hình dạy học này trong giai đoạn sắp tới mà không vấp phải sự bỡ ngỡ, khó khăn
ngay khi chúng ta bước vào giai đoạn thực hiện khung chương trình đổi mới giáo dục.
2. 2. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện dạy học theo chủ đề đối với bộ môn
GDCD bậc THPT
Bất kì môn học nào hiện nay khi đối diện với vấn đề dạy học theo chủ đề cũng gặp khó
khăn nhất định. Phần vì đây là cách tiếp cận mới. Hơn nữa, chưa có một khung chương



trình thống nhất hoặc hướng dẫn địa chỉ cần xây dựng chủ đề trong chương trình học hiện
hành...v.v. Không những vậy, khó khăn này còn thể hiện ở chỗ: không chỉ bởi sự độc
lập[5] hay sự khác biệt tương đối về mặt nội dung[6] mà còn xuất phát từ phía giáo viên
bộ môn với những hạn chế như: sự hiểu biết sâu, rộng về kiến thức liến khối, liên môn;
khả năng, kinh nghiệm nắm bắt các thao tác, quy trình xây dựng chủ đề; kĩ năng vận
dụng phương pháp dạy học linh hoạt đối với từng chủ đề mình xây dựng.
Tuy nhiên, ngoài khó khăn cũng không phải không có những thuận lợi khi áp dụng.
Trong bài viết, xin được nêu ra lợi thế xét trên cả hai khía cạnh: nội dung và khả
năng hiện nay của giáo viên dạy bộ môn GDCD THPT (bao gồm kiến thức, kĩ năng sử
dụng kĩ thuật, phương pháp dạy học).
Về phần nội dung
Một, như đã biết, bộ môn GDCD có nội dụng học là vô cùng bao quát, phổ biến. Nội
dung môn học trang bị bao gồm thế giới quan và nhân sinh quan, cũng như các vấn đề cơ
bản của đời sống xã hội trên rất nhiều lĩnh vực có tính thực tiễn, gần gũi. Do đó, nội dung
đề cập đến một lượng kiến thức dồi dào, thực tiễn, sinh động, không trừu tượng (như
toán, hóa, lý…). Điều này cũng có nghĩa là khi xây dựng chủ đề, nhất là chủ đề liên môn,
giáo viên sẽ có trước tiên là nhiều môn học, đề tài được chọn để đưa vào tích hợp, thêm
vào đó trong quá trình dạy các nhiệm đặt ra đối với học sinh cũng dễ dàng được tiến hành
một cách chất lượng và đảm bảo bởi hai yêu tố: nguồn tài liệu dồi dào (từ thực tiễn, hoặc
kiến thức liên môn khác mà học sinh sẵn có) và tri thức thực tiễn sẵn có từ học sinh.
Vì là bộ môn trang bị thế giới quan và nhân sinh quan cũng như các vấn đề cơ bản của
đời sống xã hội, nên quá trình tích hợp xây dựng chủ đề liên môn, bản thân đơn vị kiến
thức môn GDCD trong chủ đề thường là được sử dụng thường xuyên làm kim chỉ nam
cho định hướng giải quyết vấn đề của học sinh, do đó giáo viên cũng dễ dàng kiểm soát
được nội dung cơ bản của chủ đề môn học, không rơi vào tình trạng sa đà, lệch chuẩn.
Hai, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có chứa nhiều đơn vị kiến thức liên đới nhau theo
chủ đề từng chương mục[7]. Ví dụ: GDCD 10- Phần thứ nhất, toàn bộ nội dung chỉ xoay
quanh chủ đề thế giới quan, phương pháp luận (triết học); Phần thứ 2: Nội dung xoay

quanh chủ đề đạo đức học. Trong chủ đề này có thể chia ra các chủ đề nhỏ như: Đạo đức
và các phạm trù cơ bản (tích hợp 2 bài 10 và 11);
Hoặc như, trong phạm vi bậc THPT, chủ đề Đạo đức với đời sống, chúng ta cũng tìm
thấy nội dung có sự liên hệ và đưa vào chủ đề là Mối quan hệ giữa Pháp luật và đạo
đức (mục c. bài 1, GDCD 12, tr 9)
Do đó, việc xây dựng chủ đề là khá dễ dàng, ngay cả khi môn này nhận thêm nhiệm vụ
tích hợp, lông ghép các chủ đề ngoài giờ lên lớp khác.
Ví dụ: lồng ghép, tích hợp giáo dục phòng chống tham nhũng[8] và học tập làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh[9], cũng có thể được đưa vào chủ đề Đạo đức với đời sống.


Ba, bộ môn GDCD cũng là bộ môn có nội dung liên hệ nhiều với các bộ môn như Sử,
Địa, Văn, Sinh học, GDQP, NGLL… Do đó, khi dạy theo chủ đề, học sinh dễ dàng tiếp
cận hơn, dễ dàng nhận nhiệm vụ học tập nhờ vào sức tự tin về kiến thức sẵn có khi yêu
cầu giải quyết nhiệm vụ thực tiễn. Vì thế, môn học cũng hứa hẹn thái độ tích cực, hứng
thú và chủ động hơn từ phía học sinh.
Về khả năng của giáo viên
Khả năng của giáo viên bao gồm: kiến thức, kĩ năng sự dụng kỹ thuật, phương pháp dạy
học.
Ưu thế vượt trội của giáo viên GDCD so với các giáo viên khác chính là việc quen thuộc
với nhiều phân loại kiến thức khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội và nhân văn. Từ triết,
đạo đức học, kinh tế chính trị, pháp luật học cho đến các chủ đề nhỏ từng được đưa vào
giảng dạy tích hợp, lồng ghép hàng chục năm qua như giáo dục kĩ năng sống, giáo dục
trật tự ATGT, giáo dục sức khỏe giới tính, bình đẳng giới, tích hợp giáo dục tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, giáo dục chủ quyền biển đảo, giáo dục bảo vệ môi trường, giáo
dục phòng chống các tệ nạn xã hội, …. Do vậy, dữ liệu các kênh tri thức liên môn là vô
cùng phong phú, dồi dào. Đây cũng là các chủ đề dễ dàng được giáo viên tích hợp thành
chủ đề để đưa vào giảng dạy nếu được áp dụng mô hình dạy học này.
Ngoài ra, về phương diện sử dụng kĩ thuật và phương pháp dạy học, không chỉ riêng giáo
viên GDCD mà ở các bộ môn khác cho đến nay, về cơ bản đã từng tiếp cận và kinh qua

tương đối thành công rất nhiều các kĩ thuật và phương pháp dạy học tích cực (vd: như
phương pháp dự án, thảo luận nhóm, trực quan…), điều này vô cùng hữu dụng và là tiền
đề cho việc sử dụng nó vào việc khai thác các đơn vị kiến thức trong tiết dạy học theo
chủ đề. Về cơ bản, dạy học theo chủ đề rất cần những phương pháp này để khai thác nội
dung bài học, cũng như đây là cách để học sinh liên hệ thực tiễn.
Đối với học sinh
Khả năng đón nhận cao vì trước hết, các chủ đề được xây dựng theo dạng tích hợp, liên
môn có tính thực tiễn sinh động nên chủ đề học bao giờ cũng hấp dẫn, dễ tạo ra động cơ,
hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, liên môn, học sinh được tăng
cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi
nhớ kiến thức một cách máy móc. Quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp
cho học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học
khác nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng
như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, riêng với môn học GDCD khi áp dụng dạy học theo
chủ đề cũng gặp một số khó khăn, như:
+ Giáo viên chưa chuẩn bị tâm lý, ngại thay đổi.
+ Học sinh vẫn coi GDCD là môn phụ.


+ GDCD là môn học có tần suất và nội dung được đưa vào tích hợp nhiều những vấn đề
khác ngoài chương trình, do đó có thể gây khó khăn và lúng túng cho giáo viên khi xác
định nội dung xây dựng chủ đề hoặc phá vỡ kết cấu nội dung, làm nhạt nội dung chính
của chương trình.
+ Thời gian học 1 tiết trên lớp, khiến chủ đề khi đưa vào giảng dạy dễ bị chia nhỏ, manh
mún, ảnh hưởng đến việc trình bày sản phẩm, kết quả học tập của học sinh. Đồng thời,
khiến chủ đề học dễ rơi vào tình trạng chỉ là một dạng thức hình thành trên cơ sở của
tổng đại số đơn thuần các đon vị kiến thức (không liên hệ, không mở rộng, không lũy
tiến).
+ Độ ngắn dài hay nội dung chủ đề phụ thuộc rất nhiều vào nhóm năng lực mà từng giáo

viên, từng môn, từng địa phương đề ra trong quá trình giáo dục, khó thống nhất dễ gây
xáo trộn chương trình chung.
+ Quan trọng hơn hết là chưa có một khung chương trình xây dựng các chủ đề, từ đơn
môn đến liên môn. Do đó, điều này cần sự bàn bạc, thống nhất giữa các giáo viên trong tổ
bộ môn và giữa các bộ môn, thậm chí là những nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia giáo
dục để có sự thống nhất đồng bộ, đảm bảo không thiếu sót hoặc lặp lại kiến thức, không
tạo ra tính ỷ lại ở bộ môn này cho môn khác; không tạo ra sự mầu thuẫn giữa các quan
điểm lập trường chuyên môn người dạy giữa các môn; không quan trọng hóa môn học
này hay môn học khác trong quá trình tích hợp theo chủ đề.
2.3. Xây dựng chủ đề dạy học trong bộ môn GDCD và những điểm cần chú ý
Trước tiên, cần tái khẳng định lại rằng; dạy học theo chủ đề là một cách tiếp cận hoàn
toàn mới mẻ. Do đó, việc đưa ra những định hướng trong quá trình xây dựng chủ đề, bao
gồm cách thức, quy trình và những nguyên tắc xây dựng chủ đề chỉ là những gợi mở,
tham khảo và chờ đợi sự đóng góp tích cực từ kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên trực
tiếp tham gia thực hiện mô hình này để chuyên đề có tính khả dụng.
Tuy nhiên, từ các dữ liệu nghiên cứu, hầu hết đều cho rằng, trước khi bắt tay vào xây
dựng chủ đề học (không chỉ đối với môn GDCD mà còn cả đối với các môn học khác)
cần nắm vững những điểm sau:
Một là; Chủ đề tích hợp được soạn theo yêu cầu hình thành một năng lực nào đó cho học
sinh trong thực tiễn. Các năng lực này tùy vào tình hình thực tế tại cơ sở có thể thay đổi
tùy vào trình độ của học sinh.
Hai là; Công cụ của dạy học theo chủ đề là: giáo án về chủ đề đó, có liên quan đến ít nhất
kiến thức của hai đơn vị nội dung học hoặc bài trong một bộ môn hoặc hai bộ môn trở
lên. Trong quá trình này, phương pháp dạy học có thể sử dụng chính các phương pháp
tích cực trong dạy học hiện nay để khai thác chủ đề (phương pháp dự án, thảo luận…).
Đồng thời, chú trọng đến yếu tố Công nghệ thông tin như một phương tiện hỗ trợ đắc lực
khi khai thác chủ đề.


Ba là; Kết quả chủ yếu, căn bản cần đạt được khi dạy học theo chủ đề phải trả lời cho câu

hỏi: Sau chủ đề học, học sinh biết làm gì? Hình thành năng lực gì?
Bốn là; Tùy theo nội dung chương trình sách giáo khoa hiện nay mà việc xây dựng chủ
đề dạy học có thể là:
Chủ đề tích hợp: dành cho giáo viên (đưa kiến thức từ đời sống đến bài dạy);
Chủ đề liên môn: dành cho học sinh (đưa kiến thức từ nhiều môn học để giải quyết các
tình huống trong thực tiễn cuộc sống).
Chủ đề dạy học: tập hợp các đơn vị kiến thức gần nhau để xây dựng thành một chủ đề.
Tuy nhiên, ranh giới giữa các hình thức chủ đề trên cũng tương đối. Đôi khi, một chủ đề
dạy học vẫn có thể bao gồm cả những đặc điểm của hai chủ đề còn lại (cách phân loại
này chỉ có tác dụng đối với giáo viên khi muốn xác định cấp độ đơn giản hay phức tạp
của nội dung tích hợp trong chủ đề, ứng với trình độ, năng lực cụ thể của học sinh).
Năm là; Hình thức dạy học chủ đề tích hợp có thể được tiến hành dạy luôn trong chương
trình. Quỹ thời gian lấy ở các bài đơn lẻ, đã được dạy trong bài dạy tích hợp. Có thể dạy
trong nhiều tiết, nên từ 2-3 tiết/chủ đề. Không gian tổ chức có thể tại lớp, sân trường…
khuyến khích không gian trải nghiệm (các hoạt động thực hành, trải nghiệm, xưởng sản
xuất, đi thực tế, tham quan…) .
Sáu là; đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể
bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác.
Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề
liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình
dạy học các bộ môn liên quan.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG QUY TRÌNH XÂY DỰNG, SOẠN GIẢNG CHỦ ĐỀ HỌC TRONG
BỘ MÔN GDCD BẬC THPT VÀ NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ
TRÌNH KHAI THÁC CHỦ ĐỀ TRONG GIẢNG DẠY


3.1. Các bước cơ bản xây dựng chủ đề và tiến trình soạn giảng chủ đề học môn

GDCD bậc THPT
Khó khăn nhất hiện nay của giáo viên bộ môn chính là việc định hình quy trình xây dựng
và tiến hành soạn giảng một chủ đề. Trong thực tế, chưa có sự thống nhất cuối cùng để
đưa ra một hướng dẫn cụ thể, tất cả mới dừng lại ở việc tìm tòi, vừa thử nghiệm vừa rút
kinh nghiệm.
Theo tìm hiểu bước đầu của tác giả, để xây dựng một chủ đề đảm bảo tính khoa học và
đáp ứng các mục tiêu dạy học, có thể tiến hành tuần tự theo các bước sau:
Bước 1: Xác định nội dung, phạm vi kiến thức muốn đưa vào chủ đề. Nội dung có thể là
sự tích hợp một đơn vị kiến thức trong một bài, nhiều bài, một môn, nhiều môn.
Yêu cầu: Có sự liện hệ tri thức gần nhau, giao thoa hoặc trùng lặp hay có độ liên đới lũy
tiến, đi lên phù hợp trình độ nhận thức của học sinh.
Bước 2: Căn cứ các nội dung đã được xác định tích hợp, giáo viên tiến hành xây dựng
chủ đề.
Yêu cầu: Tên chủ đề bao quát các đơn vị kiến thức muốn tích hợp, kết cấu nội dung chủ
đề phải hợp lý, các đơn vị kiến thức trong chủ đề phải theo trình tự nhận thức từ dễ đến
khó, đơn giản đến phức tạp hoặc nhóm thành các chủ đề nhỏ phù hợp với nhiệm vụ học
tập được giao cho học sinh.
Chủ đề xây dựng vừa đúng, đủ, phù hợp và đảm bảo các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ
năng trong chương trình chuẩn, cũng như các năng lực cần xây dựng, kiểm tra, đánh giá
đối với học sinh.
Bước 3: Tiến hành soạn giáo án theo chủ đề đã xây dựng. Có thể tham khảo theo mẫu
sau:
Ngày soạn: …………………

Tuần: từ tuần… đến tuần…..

Ngày dạy: từ ngày … đến ngày….

Tiết: từ tiết….. đến tiết…….


TÊN CHỦ ĐỀ:………………………………
Số tiết: ……………………………

I. MỤC TIÊU (chung cho cả chủ đề)


1.Kiến thức: ……………………………
2.Kỹ năng: ……………………………..
Lưu ý: Đảm bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng theo chương trình hiện hành, trên quan điểm
phát triển năng lực học sinh[10].
3. Năng lực cần phát triển……………
Lưu ý:
a. Bao gồm những năng lực chuyên biệt ở từng đơn vị kiến thức, bài hoặc chương cần
phát triển cho học sinh khi học xong chủ đề.
b. Trong số các năng lực cần phát triển đó, giáo viên sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ trên
xuống dưới tùy vào mục đích, yêu cầu và dung lượng của các đơn vị kiến thức được tích
hợp trong chủ đề đó.
II. BẢNG MÔ TẢ CÁC NĂNG LỰC CẦN PHÁT TRIỂN

Nội dung chủ đề
………………….

Nhận biết
……………..

Thông hiểu
……………..

Vận dụng thấp Vận dụng cao
……………..

……………..

………………….

……………..

……………..

……………..

……………..

Lưu ý:
1. Giáo viên mô tả chi tiết các mức độ cần đạt để phát triển năng lực cho HS, cơ sở của
bảng mô tả này là các năng lực mà giáo viên đã đưa ra ở mục 3 phần I (mục tiêu).
2. Giáo viên không nhầm lẫn giữa bảng mô tả với ma trận đề kiểm tra.
III. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Đối với chủ đề là một bài dạy với thời lượng là 1 tiết (45 phút ) hoặc nhiều tiết (bài có
nhiều nội dung) giáo viên thiết kế hoạt động dạy học tương tự hoạt động dạy học trong
các giáo án theo quy định hiện hành, như sau:

TL HOẠT ĐỘNG CỦA

HOẠT ĐỘNG CỦA HS

NỘI DUNG ĐẠT


GIÁO VIÊN
Hoạt động 1: Nội dung 1

…………………………

ĐƯỢC
I. Nội dung
Nhiệm vụ a, b,c
…………………

Hoạt động 2: Nội dung 2
…………………………

II. Nội dung
Nhiệm vụ a, b,c
………………..

Hoạt động 3: Nội dung 3
…………………………

1: ………………….

2: ………………….
III. Nội dung

Nhiệm vụ a, b,
c…………………

3: ………………….
……………………..

………………………….. …………………………….


2. Đối với chủ đề có nhiều bài dạy (có thể các bài dạy trong 1 chương hoặc không phải là
1 chương nhưng có nhiều nội dung liên quan[11]…) giáo viên có thể tham khảo mẫu thiết
kế như sau:

TLHOẠT ĐỘNG CỦA
HOẠT ĐỘNG CỦA HS
GIÁO VIÊN
Hoạt động 1: Nội dung 1
(bài 1)

Nhiệm vụ a, b, c,
……………................

…………………………
….
Hoạt động 2: Nội dung 2
(bài 2)

1:
……………………….

II. Nội dung
Nhiệm vụ a, b, c,
………………………

…………………………

Hoạt động 3: Nội dung 3
(bài 3)


NỘI DUNG ĐẠT
ĐƯỢC
I. Nội dung

2:
……………………….

III. Nội dung
Nhiệm vu a, b, c,
………………………

3:
……………………….


………………………..
………………………… …………………………………… ...
….
…….

Ngoài ra, các bước còn lại như củng cố, chuẩn bị nội dung học mới tương tự như
giáo án theo quy định hiện hành.
Lưu ý: Về thời gian dạy dạng chủ đề có nhiều bài dạy
Giáo viên tự bố trí thời gian hợp lý cho từng nội dung nhưng phải đảm bảo cung
cấp cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và những năng lực cần phát triển như đã yêu
cầu ở phần mục tiêu và không được ít hơn hoặc nhiều hơn thời gian dành để dạy cho một
chương hoặc cho nhiều bài (đã gộp lại thành một chủ đề) theo tổng số tiết đã được quy
định trong phân phối chương trình.
Bước 4: Dựa trên các nhiệm vụ học tập được đư ra theo kế hoạch, giáo viên tiến
hành thực hiện dự án dạy. Ở bước này, giáo viên cần bám sát những nhiệm vụ học của

học sinh, đề ra các phương pháp phù hợp khai thác hiệu quả nội dung chủ đề. Tiết dạy
học theo chủ đề thường được tiến hành giống như một tiết học bình thường ngay tại lớp
học hoặc ngoài trời, nơi không gian trải nghiệm. Tuy nhiên, dạy học theo chủ đề thướng
gắn với các nhiệm vụ học tập và gắn với giải quyết các vấn đề thực tiễn nên khâu chuẩn
bị có thể sẽ phải tiến hành trước tiết dạy nhiều tuần. Các dự án cần có kế hoạch theo dõi
tiến trình thực hiện để có cơ sở kiếm tra, đánh giá các năng lực học sinh ngay trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ học tập.
Bước 5:Sau khi dạy học theo chủ để giáo viên có thể tiến hành kiểm tra đánh giá
việc học theo chủ đề với những câu hỏi/ bài tập phù hợp.
Thông thường trong dạy học chủ đề có một số lưu ý về câu hỏi/ bài tập như
sau:
Một, phải căn cứ vào bảng mô tả ở trên giáo viên mới tiến hành xây dựng các
câu hỏi và bài tập tương ứng[12] để khai thác và kiểm tra đánh giá học sinh.
Hai, câu hỏi/ bài tập đưa ra nhằm kiểm tra, đánh giá việc tiếp thu kiến thức,
kỹ năngtrong đó chú ý đến các năng lực cần phát triển sau khi học sinh học xong chủ đề
(tương tự như câu hỏi/bài tập mà giáo viên dùng để củng cố bài trong các tiết dạy hiện
nay).
Ba, đối với câu hỏi/ bài tập liên quan đến phát triển năng lực học sinh yêu
cầu câu hỏi/bài tập đưa ra phải đánh giá được 4 mức độ như trong bảng mô tả (nhận biết,
thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) trong đó ưu tiên những câu hỏi/bài tập gắn liền


với thực tiễn đòi hỏi học sinh vận dụng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân để
giải quyết các tình huống thực tiễn đó.
Bốn, sau mỗi chủ đề giáo viên có thể kiểm tra học sinh dưới dạng đề kiểm tra
15 phút. Nếu sau chương hoặc sau các bài không nằm trong một chương nhưng giáo viên
đã gộp lại để dạy dưới dạng một chủ đề mà có bài kiểm tra 1 tiết theo quy định của phân
phối chương trình thì giáo viên xây dựng đề kiểm tra 1 tiết. Trong đề kiểm tra 1 tiết cũng
phải đảm bảo các yêu cầu như ở mục 2, 3 của bước 5 này. Đề kiểm tra 15 phút hoặc một
tiết giáo viên vẫn phải xây dựng ma trận đề.

3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc khai thác hiệu quả tiết dạy học theo chủ đề
Một, phương pháp dạy học
Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc khai thác chủ đề học có chất lượng và đi
đúng với những mục tiêu ban đầu của giáo viên hay không tùy thuộc rất nhiều vào
phương pháp khai thác chủ đề học. Không ít trường hợp cho rằng, với mô hình mới cần
phải có phương pháp mới. Tuy nhiên, cần khẳng định lại mô hình dạy học theo chủ đề là
vấn đề liên quan đến nội dung chứ không phải phương pháp. Do vậy, mô hình này vẫn có
thề sử dụng các phương pháp dạy học hiện có. Tất nhiên, do yêu cầu về đổi mới giáo dục
tăng cường định hướng phát triển năng lực học sinh mà một số phương pháp truyền thống
có thể ít nhiều không phù hợp (ví dụ phương pháp đàm thoại), nhưng còn đó rất nhiều các
phương pháp như phương pháp dự án, thảo luận nhóm, nêu vấn đề… đặc biệt rất cần cho
mô hình dạy học này. Do đó, việc nắm vững các phương pháp khai thác của giáo viên
như thế nào sẽ góp phần quan trọng vào việc khai thác nội dung chủ đề học tốt hay không
như thế ấy.
Hai, cách thức xây dựng câu hỏi/ bài tập và việc giao nhiệm vụ học tập
Như đã biết, theo cách tiếp cận dạy học theo chủ đề mang tính chất tổng quát, hàm chứa
các nội dung kiến thức mà chúng ta cần trang bị cho học sinh. Những kiến thức này có
thể liến quan đến một hay nhiều lĩnh vực khác nhau và có thể tiếp cận ở nhiều góc độ
khác nhau. Căn cứ vào mục tiêu dạy học, nội dung kiến thức trong chủ đề cũng như trình
độ học sinh, một hệ thống câu hỏi định hướng sẽ được xây dựng với sự thỏa thuận giữa
giáo viên và học sinh. Căn cứ vào câu hỏi định hướng này, giáo viên tổ chức các hoạt
động học tập cho học sinh nhằm giải quyết vấn đề, trả lời những câu hỏi đặt ra. Như vậy,
việc học tập của học sinh được định hình với những yêu cầu cụ thể và tự nó trở nên có
tính mục đích cao. Thông qua các hoạt động học tập đó, giáo viên tạo cơ hội cho học sinh
chủ động xây dưng cho mình một hệ thống kiến thức mang tính chặt chẽ, sâu sắc, bản
chất, thiết thực và hệ thống. Theo cách tiếp cận dạy học này, việc thiết lập hệ thống câu
hỏi định hướng (Framing Question) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng
học tập của học sinh[13]. Do đó, nếu giáo viên không nắm được các loại câu hỏi định
hướng, cách thức, yêu cầu khi xây dựng một câu hỏi định hướng coi như dạy học theo
chủ đề không khác một tiết dạy truyền thống, khô cứng và thiếu sinh động.



Thêm vào đó, cũng cần chú ý nội dung câu hỏi/ bài tập đã đáp ứng được mục tiêu chuẩn
kiên thức kĩ năng và đặc biệt là những yêu cầu về năng lực học sinh mà chủ đề đang
hướng tới hay chưa.Trường hợp không đáp ứng các yêu cầu này, chủ đề học trở nên rời
rạc, thiếu liên kết và các hoạt động học tập cũng trở nên thiếu động lực.
Ba, năng lực, trình độ học sinh
Chính năng lực trình độ học chứ không phải nội dung chương trình môn học hoặc liên
môn quyết định đến việc xây dựng và soạn giảng chủ đề. Bởi lẽ, dạy học theo chủ đề lấy
học sinh là trung tâm. Từ tính tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ học tập, vận
dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn mà tri thức và các năng lực được hình
thành. Do vậy, khi trình độ có sự phân hóa cao, dạy học heo chủ đề sẽ khó thực hiện
được các mục tiêu về chuẩn kiến thức, kĩ năng cũng như các năng lực cần phát huy, kiểm
tra, đánh giá đối với người học.
Bốn, phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin, truyền thông
Công nghệ thông tin, truyền thông là một yếu tố ảnh hưởng không hề nhỏ đến quá trình
dạy học theo chủ đề. Bởi lẽ, trong mỗi chủ đề học tập, với những nhiệm vụ học tập đã
được đặt ra trước đó, học sinh phải tìm kiếm, thu thập, xử lý thông tin từ nhiều ngồn khác
nhau; phải trao đổi, xuất bản thông tin để chia sẻ với người khác… do vậy công nghệ
thông tin và truyền thông sẽ được đưa vào sử dụng như một nhu cầu tư nhiên trong quá
trình học. Do đó, khâu chuẩn bị một tiết dạy theo chủ đề, với những dự án học tập, cần
thiết phải bổ sung vào danh mục đồ dùng, phương tiện dạy học những trang thiết bị, cơ sở
vật chất cần thiết phục vụ cho việc trình bày sản phẩm mà nhiệm vụ học tập đã đề ra đối
với học sinh./.

KẾT LUẬN

Dạy học theo chủ đề là một trong những mô hình dạy tối ưu hóa góp phần giải quyết các
vấn đề còn tồn tại trong nội dung chương trình học hiện nay như: góp phần phát huy tính
tích cực của học sinh trong quá trình học, tăng cường định hướng phát triển năng lực học

sinh thông qua vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề thực tiễn, cùng với đó là việc
giúp học sinh giảm thiểu nhàm chán, áp lực do sự trùng lặp kiến thức khi học và hướng
tới kết cấu lại những đon vị kiến thức có tính liên hệ, tổng thể hơn giúp học sinh nắm bắt
bản chất kiến thức sau khi học.
Đây là mô hình đang được tiếp cận bởi tính khả dụng của nó khi đối chiếu với lộ trình đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục ở nước ta sau năm 2015.
Ở một phương diện khác, nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng, phương pháp dạy học khi có
sự đổi mới về mô hình dạy học và chương trình dạy học, nhiều môn học đã bước đầu chủ


động tiếp cận, tìm hiểu, thực hành. Tuy còn liên quan đến nhiều yếu tố đòi hỏi phải có
quá trình chuẩn bị như chương trình sách giáo khoa, tổ chức dạy học, phương pháp dạy
học, đánh giá, kiểm tra, thi cử… song những sáng kiến, kinh nghiệm và các kết quả thu
được bước đầu… đã góp phần giải quyết một số những khúc mắc về vấn đề lý luận, đồng
thời làm tư liệu tham khảo có ích cho các bộ môn khác.
Với môn GDCD, yêu cầu đặt ra hiện nay là việc tiếp cận theo mô hình mới này cần nhiều
những định hướng thiết thực làm tiền đề cho các hoạt động bộ môn sau này đi vào thực
chất, tiến tới triển khai có hiệu quả.
Trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu, với kiến thức hạn hẹp, chuyền đề “Dạy học theo
chủ đề với việc ứng dụng trong giảng dạy bộ môn GDCD THPT” không kì vọng quá
nhiều vào tính ứng dụng phổ biến cho toàn bộ môn ở thời điểm hiện tại, chỉ mong góp
một phần nhỏ để quý đồng nghiệp trao đổi thông tin, sinh hoạt chuyên môn nhằm chuẩn
bị tâm thế cho lộ trình đổi mới giáo dục sau năm 2015 khi thực hiện việc áp dụng mô
hình dạy học này đến các môn học, trong đó có GDCD. Với thời gian và giới hạn về đề
tài, chúng tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý đồng nghiệp.

- HẾT Đồng Nai, ngày 23 tháng 2 năm 2015
Tác giả




×