Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.32 KB, 44 trang )

Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam

A. LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 1.1.2009, tại Việt Nam một loại hình bảo hiểm mới đã bắt đầu có
hiệu lực nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng lao động thất nghiệp. Đó là bảo
hiểm thất nghiệp (BHTN). Sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thực sự là một
bước tiến lớn trong con đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam nói riêng
và nỗ lực đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta nói chung.
BHTN ở Việt Nam ra đời gắn với giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của nền
kinh tế Việt nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng
kiến nhiều doanh nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp.
Sau hơn 3 năm thực hiện, BHTN đã mang lại những thành công nhất định, cũng
như tác dụng tích cực về mặt kinh tế xã hội.
Mong muốn tìm hiểu rõ hơn những vấn đề mới mẻ này chính là lí do
nhóm chúng em lựa chọn đề tài “ Bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam giai
đoạn 2009 - 2011”.
Với toàn bộ khả năng của mình, nhóm đã cố gắng mang đến những thông
tin cơ bản và tổng quát nhất về BHTN, tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu
sót ngoài mong muốn nên chúng em hy vọng nhận được sự góp ý từ phía cô
giáo để hoàn thiện hơn kiến thức của mình.

1/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam

B. NỘI DUNG
I – Lý luận chung về thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp.
Trong quá trình phát triển của xã hội, lao động luôn được coi là nhu cầu
cơ bản nhất, chính đáng nhất và lớn nhất của con người. Nhu cầu đó tưởng
chừng đơn giản, song trong điều kiện kinh tế thị trường không phải ai cũng được


đáp ứng và được đáp ứng một cách đầy đủ. Muốn được lao động, người lao
động (NLĐ) phải có việc làm để tạo ra của cải vật chất và dịch vụ - tạo ra thu
nhập nuôi sống mình và gia đình mình. Nhưng để có được việc làm, nhất là
những việc làm phù hợp bới năng lực, trình độ và ngành nghề đào tạo của mình
thì không phải NLĐ nào cũng dễ tìm kiếm. Bởi vì, nguồn lao động xã hội
thường tăng nhanh hơn cơ hội việc làm, do đó luôn có một bô phận NLĐ thiếu
hoặc không có việc làm. Những người không có việc làm thực chất là họ đã bị
thất nghiệp.
Tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng cao khi nền kinh tế bị khủng hoảng. Trong cuộc
khủng hoảng 1929-1933, ở Mỹ có hơn 25% lực lượng lao động bị thất nghiệp,
cuôc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Châu Á đã làm cho tỷ lệ thất
nghiệp ở Philippines đạt con số kỷ lục 10.05%, Hàn Quốc là 6.8% vào năm
1998. Do vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, việc làm và thất nghiệp là vấn
đề mang tính toàn cầu, vấn đề này không loại trừ một quốc gia nào cho dù quốc
gia đó là nước đang phát triển hay là nước công nghiệp phát triển. Giải quyết
tình trạng thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải, bởi vì thất nghiệp vừa là vấn đề
kinh tế, vừa là vấn đề chính trị - xã hội. Trong một chừng mực nhất định, có thể
kiểm soát được tình trạng thất nghiệp và có thể sử dụng các biện phát hữu hiệu
giả quyết nạn thất nghiệp tùy theo điều kiện cụ thể của từng nước.
Để thấy rõ tính quy luật trên và tìm ra phương hướng giải quyết nạn thất
nghiệp, trước hết phải có sự thống nhất trong nhận thức về “thất nghiệp”.

2/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam

1. Thất nghiệp
1.1. Khái niệm
Vấn đề thất nghiệp được nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều nhà khoa học

bàn luận. Tuy nhiên cũng còn nhiều ý kiến khác nhau nhất là về thất nghiệp. Đã
có nhiều khái niệm về thất nghiệp, song định nghĩa thất nghiệp của Tổ chức lao
động quốc tế ILO được nhiều nhà kinh tế và nhiều nước tán thành. Theo định
nghĩa của tổ chức này thì:
“Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao
động, muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức lương thịnh
hành.”
Khái niệm về người thất nghiệp cũng có những quan điểm và nhận thức
khác nhau tùy theo mục đích và hoàn cảnh của mỗi nước.
- Luật BHTN cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa: “Thất nghiệp là NLĐ
tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện công việc ngắn
hạn”.
- Ở Pháp người ta cho rằng, thất nghiệp là không có việc làm, có điều kiện
làm việc, đang đi tìm việc làm.
- Nhật Bản lại quan niệm: Người thất nghiệp là NLĐ không có việc làm
trong tuần lễ điều tra, có khả năng làm việc, đang tích cực tìm việc làm
hoặc chờ kết quả xin việc làm.
- Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: “Thất nghiệp là người
trong độ tuổi lao động (dân thành thị) có khả năng lao động, chưa có việc
làm, đang đi tìm việc làm, đăng kí tại cơ quan giải quyết việc làm”.
- Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề mới nảy sinh trong thời kì chuyển đổi
nền kinh tế cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Vì vậy,
tuy chưa có văn bản pháp quy nào về thất nghiệp cũng như các vấn đề có
3/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
liên quan đến thất nghiệp song đã có nhiều công trình nghiên cứu nhất
định về vấn đề này. Những nghiên cứ bước đầu khẳng định thất nghiệp là
những người không có việc làm, đang đi tìm việc và sẳn sàng làm việc.

Định nghĩa thất nghiệp ở Việt Nam: “Thất nghiệp là những người
trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang không
có việc làm, đang đi tìm việc làm”.
Như vậy dù quan niệm thế nào đi chăng nữa thì một NLĐ được coi là thất
nghiệp phải thể hiện đầy đủ các đặc trưng sau:
- Là NLĐ, có khả năng lao động.
- Đang không có việc làm.
- Đang đi tìm việc làm.
Người thất nghiệp có thể là công nhân trong các doanh nghiệp (DN), có
thể là học sinh, sinh viên các trường chuyên nghiệp ra trường hoặc là bộ đội xuất
ngũ. Những người ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động, có khả
năng lao động nhưng không lao động, không có nhu cầu việc làm thì không
được coi là người thất nghiệp. Chẳng hạn, những người đang có việc làm những
tạm thời không làm việc vì một lí do nào đó như: nghỉ phép, nghỉ ốm, nghỉ tạm
thời vì tai nạn lao động, hoặc học sinh, sinh viên còn đang theo học tại các
trường, những người nội trợ… không phải là những người thất nghiệp.
1.2. Ảnh hưởng của thất nghiệp đến nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều nguyên nhân gây ra thất nghiệp
như: chu kỳ kinh doanh mở rộng hay thu hẹp do sự điều tiết của thị trường dẫn
đến việc khi thì thu hút thêm lao động, khi lại dư thừa lao động, cung cầu trên
thị trường sức lao động co giãn, biến động thất thường; tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đặc biệt là sự tự động hóa quá trình sản xuất diễn ra nhanh chóng dẫn đến
kết quả là máy móc thay thế tiếp tục bổ sung vào đội quân thất nghiệp; sự gia

4/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
tăng dân số và nguồn lao động, cùng với quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa
nền kinh tế cũng có những mặt tác động tiêu cực đến thị trường lao động, làm

một bộ phận NLĐ bị thất nghiệp… Đó mới chỉ là một trong nhiều nguyên nhân
làm cho tình trạng thất nghiệp luôn tồn tại. Khi đó, thất nghiệp có ảnh hưởng
trực tiếp đến NLĐ và gia đình họ, tác động mạnh mẽ đến tất cả các vấn đề kinh
tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia.
- Đối với nền kinh tế
Thất nghiệp gây ra những chi phí đáng kể đối với xã hội. Thất nghiệp là
một sự lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm
cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển, làm khả năng sản xuất thực tế kém
hơn tiềm năng. Nếu tình trạng thất nghiệp gia tăng sẽ kéo theo sự gia tăng của
lạm phát, từ đó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, khả năng phục hồi chậm. Đối
với người thất nghiệp, thu nhập bị mất đi dẫn đến đời sống khó khăn… Thất
nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy
mô. Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có
người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm.
Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi
nhiều việc làm, do đó mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn.
- Đối với cá nhân và cộng đồng
Đối với các quốc gia, thất nghiệp gia tăng còn làm cho tình hình chính trị,
xã hội bất ổn, hiện tượng bãi công, biểu tình có thể xảy ra. NLĐ giảm niềm tin
vào chế độ, vào khả năng lãnh đạo của nhà cầm quyền. Tỷ lệ thất nghiệp là một
trong những chỉ tiêu đánh giá uy tín của nhà cầm quyền.
Một đặc điểm quan trọng của thất nghiệp là nó phân bổ không đồng đều
đến toàn xã hội, do đó chi phí của nó cũng phân bổ không đều. Thất nghiệp
thưởng ảnh hưởng mạnh nhất đến thanh niên và những nhóm dân cư nghèo về
khía cạnh xã hội, thất ngiệp là một trong những nguyên nhân gây nên những
5/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
hiện tượng tiêu cực, đẩy người thất nghiệp đến chỗ bất chấp kỷ cương, luật pháp

và đạo đức để tìm kế sinh nhai như: trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, tiêm chích ma
túy,…
Đối với cá nhân, thất nghiệp là một gánh nặng. Thất nghiệp đã cắt đứt
nguồn thu nhập chủ yếu hoặc duy nhất của NLĐ (nhất là ở các nước thị trường
phát triển), đồng thời cắt đứt phương tiện sinh sống của NLĐ và gia đình họ,
đẩy những người này vào cảnh túng quẫn không có khả năng thanh toán cho các
chi phí thường ngày như tiền nhà, tiện điện, tiền nước…Do thất nghiệp mà có
khi bỗng chốc có người trở thành vô gia cư (bị đuổi khỏi nhà đang thuê). Ngoài
những ảnh hưởng về kinh tế, thất nghiệp còn gây ra những tổn hại về mặt tinh
thần và sức khỏe cho NLĐ. Nhiều người thất nghiệp đã phải tự kết thúc cuộc đời
mình vi không thể chịu đựng được sự túng quẫn hoặc sa vào các tệ nạn xã hội,
tội phạm… Theo các số liệu thống kê, ở Việt Nam trong số những phụ nữ làm
nghề mại dâm có đến trên 70% là do không có việc làm, gia đình không có thu
nhập, bắt buộc họ phải “bán thân nuôi miệng”. Nhiều người vì không có việc
làm đã sa vào cảnh nghiện ngập và phải bán dần bán mòn tài sản (vốn đã không
nhiều).
Khi bị mất việc, thu nhập của công nhân giảm, ảnh hướng xấu đến mức
sống, đồng thời họ cũng dễ bị tổn thương về tâm lý. Nếu thất nghiệp kéo dài, các
kỹ năng lao động của công nhân cũng bị mai một. Mối quan hệ gia đình có thể
trở nên căng thẳng khi người trụ cột trong gia đình bị thất nghiệp.
2. Bảo hiểm thất nghiệp
Là một hiện tượng mang tính kinh tế - xã hội, thất nghiệp không những
ảnh hưởng tới bản thân NLĐ mà còn gây ra các tác động xã hội sâu rộng nên
Chính phủ của nhiều quốc gia trên thế giới đã lập ra quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
2.1. Khái niệm

6/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam

Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền
kinh tế thị trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định
cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của
bảo hiểm thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới
thiệu việc làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới
thích hợp và ổn định.
Quá trình hình thành quỹ BHTN là một quá trình thường xuyên, liên tục,
và có sự tham gia đóng góp của cả NLĐ, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ
của Nhà nước. Do đó, BHTN mang tính chất chia sẻ giữa các đối tượng tham
gia thông qua tỷ lệ đóng góp được quy định cụ thể trong luật BHTN.
Đối tượng được nhận bảo hiểm thất nghiệp là những người bị mất việc
không do lỗi của cá nhân họ. Họ vẫn đang cố gắng tìm kiếm việc làm, sẵn sàng
nhận công việc mới và luôn nỗ lực nhằm chấm dứt tình trạng thất nghiệp.
Những người này sẽ được hỗ trợ một khoản tiền theo tỉ lệ nhất định so với
khoản thu nhập cũ nhận trong những thời kì cụ thể. Bảo hiểm thất nghiệp không
áp dụng cho những người thất nghiệp vì tự ý bỏ việc hay những người vừa mới
ra trường và chưa tìm được công ăn vịêc làm, những người thuộc vào diện thất
nghiệp tự nhiên.
Một số nhà kinh tế cho rằng BHTN chính là hạt nhân của thị trường lao
động và nằm trong chính sách kinh tế - xã hội của quốc gia. Chính sách này
trước hết vì lợi ích của NLĐ và người sử dụng lao động, sau nữa là vì lợi ích xã
hội.
2.2. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp
- Về phía người lao động:
BHTN giúp ổn định thu nhập đời sống cho những người thất nghiệp
không tự nguyện, đáp ứng cho họ những chi tiêu càn thiết mà không gây ra tình
trạng nợ nần, giúp những người thất nghiệp sớm có cơ hội tìm được việc làm,
7/44



Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
những người có kĩ năng sẽ tìm được công việc phù hợp thay vì phải làm những
công việc khác với mức lương không tương xứng.
- Tác động tới kinh tế xã hội:
BHTN giúp ổn định nền kinh tế, góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc
độ cá thể và kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả - tạo điều kiện kết nối
tốt hơn giữa cung và cầu trong thị trường lao động.
Ngoài ra, BHTN còn giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp, thời gian DN đóng BHTN cho NLĐ sẽ được
tính để miễn trách nhiệm trả trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc theo quy
định của pháp luật về lao động, pháp luật về cán bộ, công chức.

II – Thực trạng bảo hiểm thất nghiệp tại Việt Nam (2009 – 2011)
Trước tiên chúng em sẽ giới thiệu sơ lược về đối tượng, phạm vi áp dụng
của BHTN và một số qui định liên quan, sau đó nghiên cứu tác động của BHTN
tới tình trạng thất nghiệp nói chung và cuối cùng đưa ra đánh giá vê thành tựu và
hạn chế của BHTN tại VN.
1. Qui định về BHTN tại VN
1.1. Đối tượng tham gia
- Người sử dụng lao động sử dụng từ 10 lao động trở lên bao gồm các
loại hợp đồng lao động có thời hạn từ 03 tháng trở lên. Đối với cơ
quan quản lý nhà nước thì số lao động được đơn vị sử dụng từ 10
người lao động trở lên gồm cả số cán bộ, công chức đang làm việc tại
cơ quan phải tham gia BHTN.
- Người lao động tham gia BHTN là công dân VN làm việc theo hợp
đồng lao động không giới hạn hoặc có thời hạn từ 12 đến 36 tháng trừ
những người làm công chức.
1.2. Thời điểm tham gia BHTN của người sử dụng lao động
8/44



Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động
hoặc ngày có hiệu lực của quyết định tuyển dụng, người sử dụng lao động nộp
hồ sơ tham gia BHTN của đơn vị và của người lao động cho cơ quan BHXH.
1.3. Điều kiện và mức hưởng trợ cấp thất nghiệp
Người thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi thỏa mãn đồng thời ba
điều kiện:
- Đã đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi mất
việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật
lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật về
cán bộ, công chức.
- Đã đăng ký thất nghiệp với Trung tâm Giới thiệu việc làm thuộc Sở Lao
động Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây được viết tắt là Trung tâm Giới thiệu việc làm) khi mất việc làm hoặc
chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của
pháp luật.
- Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày tính theo ngày làm việc kể từ
ngày đăng ký thất nghiệp với Trung tâm Giới thiệu việc làm.
Người thất nghiệp đủ điều kiện được hưởng chế độ BHTN tính từ ngày
thứ 16 kể từ ngày đăng ký thất nghiệp.
Mức trợ cấp thất nghiệp bằng 60% mức bình quân tiền lương đóng BHTN
của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp, được hưởng trong thời gian 3, 6, 9
hoặc 12 tháng nếu có thời gian đóng BHTN tương ứng là 12 - 36, 36 - 72, 72 144 hoặc trên 144 tháng.
1.4. Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp
Mức đóng BHTN hàng tháng được quy định như sau:
- Người lao động đóng bằng 1% tiền lương, tiền công hàng tháng;

9/44



Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
- Người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công của
người lao động hàng tháng;
- Nhà nước hỗ trợ 1% quỹ tiền lương, tiền công của những người tham gia
bảo hiểm thất nghiệp .
Tiền lương đóng BHTN được tính trên cơ sở mức lương thực tế nhưng
không vượt quá 20 lần tháng lương tối thiểu chung theo quy định tại thời điểm
đóng BHTN.
2. Thực trạng thất nghiệp tại VN giai đoạn 2007-2011
2.1. Thực trạng
Năm 2007:
Tổng số lao động là hơn 44 triệu người, trong đó khu vực nhà nước là
39,7 triệu người, khu vực ngoài nhà nước 39,5 triệu người và lao động ở khu
vực đầu tư nước ngoài là 0.7 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp cả nước ước tính 2%.
Tuy nhiên trên thực tế con số này có thể cao hơn nhiều.1
Năm 2008:
Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2008 ước
tính 45 triệu người, tăng 2% so với năm 2007, trong đó lao động khu vực nhà
nước 4,1 triệu người, tăng 2,5%, lao động ngoài nhà nước 39,1 triệu người, tăng
1,2%, lao động khu vực đầu tư nước ngoài 1,8 triệu người, tăng 18,9%. Tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính 4,65%.2
Năm 2009:
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân số trong độ
tuổi lao động cả nước là 55 triệu người, trong đó 45,2 triệu người thuộc lực
lượng lao động trong độ tuổi, chiếm 82,2% tổng dân số trong độ tuổi lao động.
Số lao động trong độ tuổi đang làm việc là 43,9 triệu người, chiếm 51,1% tổng
dân số, bao gồm: lao động khu vực thành thị gần 12 triệu người, chiếm 27%

1,2

2

Theo />
Theo Tổng cục thống kê

10/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
tổng lao động trong độ tuổi đang làm việc; lao động khu vực nông thôn 31,9
triệu người, chiếm 73%.3
Bảng 1:

Tỷ lệ thất nghiệp năm 2009
(đơn vị: %)
Chung

Thành thị

Nông thôn

2,9

4,64

2,25

Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn còn cao. Tại thời điểm điều
tra, cả nước có 1,3 triệu lao động trong độ tuổi thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp là
2,9% (cao hơn mức 2,38% của năm 2008), trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực

thành thị là 4,64%, xấp xỉ năm 2008; khu vực nông thôn là 2,25%, cao hơn mức
1,53% của năm 2008.
Năm 2010:
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2010 là 50,51 triệu người, tăng
2,68% so với năm 2009, trong đó lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là
46,21 triệu người, tăng 2,12%. Tỷ lệ dân số cả nước 15 tuổi trở lên tham gia lực
lượng lao động tăng từ 76,5% năm 2009 lên 77,3% năm 2010. Tỷ lệ lao động khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 51,9% năm 2009 xuống 48,2% năm
2010; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,6% lên 22,4%; khu vực dịch vụ
tăng từ 26,5% lên 29,4%.4

3
4

Theo Tổng cục thống kê
Theo Tổng cục thống kê

11/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam

Bảng 2:

Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm năm 2010
(đơn vị: %)
Tỷ lệ thất nghiệp

Thiếu việc làm


Chung

Thành thị

Nông thôn

Chung

Thành thị

Nông thôn

2,88

4,43

2,27

4,05

2,04

5,47

Tỷ lệ thất nghiệp năm 2010 của lao động trong độ tuổi là 2,88%, trong đó
khu vực thành thị là 4,43%, khu vực nông thôn là 2,27% (Năm 2009 các tỷ lệ tương
ứng là: 2,9%; 4,6%; 2,25%). Tỷ lệ thiếu việc làm năm 2010 của lao động trong độ
tuổi là 4,50%, trong đó khu vực thành thị là 2,04%, khu vực nông thôn là 5,47%.
Năm 2011:
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2011 là 51,39 triệu người, tăng

1,97% so với năm 2010, trong đó lao động nam chiếm 51,6%; lao động nữ
chiếm 48,4%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động là 46,48 triệu người,
tăng 0,12%, trong đó nam chiếm 53,4%; nữ chiếm 46,6%. Cơ cấu lao động khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 48,7% năm 2010 xuống 48,0% năm
2011; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 21,7% lên 22,4%; khu vực dịch
vụ duy trì ở mức 29,6%.5

5

Theo Tổng cục thống kê

12/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam

Bảng 3:

Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm năm 2011
(đơn vị: %)
Tỷ lệ thất nghiệp

Thiếu việc làm

Chung

Thành thị

Nông thôn


Chung

Thành thị

Nông thôn

2,27

3,6

1,71

3,34

4,29

2,3

Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 2,27%, trong đó
khu vực thành thị là 3,6%, khu vực nông thôn là 1,71% (Năm 2010 các tỷ lệ
tương ứng là: 2,88%; 4,29%; 2,30%). Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ
tuổi năm 2011 là 3,34%, trong đó khu vực thành thị là 1,82%, khu vực nông
thôn là 3,96%.
Từ những số liệu bên trên ta có thể khái quát tình hình lao động và thất
nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2007-2011 thành biểu đồ sau:
Hình 1:

Tình hình lao động và thất nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 20072011

13/44



Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê
Có thể thấy, năm 2008 số người trong độ tuổi lao động gia tăng, kèm theo
đó bối cảnh nền kinh tế thế giới xảy ra khủng hoảng cũng tác động không nhỏ
đến tỷ lệ thất nghiệp tại Việt Nam dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp gia tăng 20% so với
năm 2007. Nguyên nhân chính gây ra hiện tượng này là sự suy giảm của nền
kinh tế trong giai đoạn khủng hoảng. Nhiều ngành sử dụng nhiều lao động có
tốc độ tăng việc làm cao bị ảnh hưởng rõ rệt từ cuộc khủng hoảng kinh tế. Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi tạo ra khoảng 50% việc làm trong hệ thống
doanh nghiệp nói chung, mỗi năm tăng thêm khoảng 500.000 lao động. Tuy
nhiên, thời gian qua, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, phải cắt giảm nhân sự.
Sự suy giảm kinh tế cũng dẫn đến xuất khẩu lao động gặp khó khăn. Theo
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 2008, cả nước giải quyết việc làm
cho 1,35 triệu lao động, trong đó thông qua các chương trình kinh tế xã hội là
1,1 triệu, xuất khẩu lao động 85.000. Bốn thị trường xuất khẩu lao động trọng
điểm của Việt Nam là: Đài Loan (33.000), Hàn Quốc (16.000), Malaysia (7.800)
và Nhật Bản (5.800). Malaysia là thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam
nhất. Trong các năm 2005-2007, mỗi năm quốc gia này tiếp nhận khoảng
30.000 lao động Việt Nam. Năm 2008, do lo ngại nhiều rủi ro cũng như khan
hiếm nguồn lao động, số người Việt sang Malaysia giảm hẳn, chưa tới 10.000.
Năm 2008 cũng là thời điểm có Nghị định 127/2008/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành Luật bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm thất nghiệp. BHTN tại VN được
chính thức áp dụng từ ngày 01/01/2009. Năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt,
cao nhất trong gia đoạn 2007 - 2011. Đây là thời điểm nền kinh tế thế giới có
dấu hiệu phục hồi tuy nhiên để hồi phục hoàn toàn cũng là một quá trình kéo dài
trong nhiều năm. Năm 2009, Việt Nam vẫn tiếp tục chịu dư chấn của khủng
hoảng kinh tế, các doanh nghiệp vẫn phải cắt giảm nhân sự khiến tỷ lệ thất


14/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
nghiệp tạm thời ra tăng. Lạm phát tăng cao, đời sống của người lao động cũng
trở nên khó khăn.
Bảo hiểm thất nghiệp vẫn chưa phát huy được tác dụng của nó vì đối
tượng được hưởng bảo hiểm thất nghiệp phải đóng BHTN đủ 12 tháng trở lên
trong thời gian 24 tháng trước khi mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao
động.
Giai đoạn 2010-2011, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm khi nền kinh tế
đang dần dần hồi phục.
2.2. Kết quả triển khai bảo hiểm thất nghiệp
Ngày 1/1/2009, hình thức bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu được triển khai
trong cả nước, nhằm giúp người lao động hạn chế những rủi ro do bị mất việc
làm. Số lượng người tham gia bảo hiểm thất nghiệp ngày càng tăng: Theo báo
cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2009 có 5,9 triệu người tham gia bảo
hiểm thất nghiệp, tổng số thu là 3.510 tỷ đồng, trong đó ngân sách Nhà nước hỗ
trợ khoảng 1.170 tỷ đồng. Số lượng đăng ký này so với lực lượng lao động tại
thời điểm đó (hơn 45 triệu người) là chưa cao. Tuy nhiên, vì mức độ phổ cập
thông tin đến các doanh nghiệp sử dụng lao động cũng như tuyên truyền về ích
lợi của BHTN chưa rộng rãi nên cũng có thể coi đây là con số khởi đầu đáng
khích lệ.
Đến hết tháng 12 năm 2010 số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp là
trên 7,05 triệu người, tăng so với năm 2009 là 1.154.962 người (tăng 19,58% so
với năm 2009), tổng số thu khoảng 4.800 tỷ đồng đưa tổng quỹ bảo hiểm thất
nghiệp trong hai năm qua lên trên 8.300 tỷ đồng. Tính đến hết tháng 7 năm
2011, cả nước có 7.569.078 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp.6

6


Theo />
15/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
Trong số những người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng
tháng năm 2010 thì dưới 24 tuổi có 37.284 người, chiếm 23,8%; từ 25-40 tuổi
có 97.405 người, chiếm 62,1%; trên 40 tuổi có 22.076 người, chiếm 15%; nam
giới có 62.423 người, chiếm 40%; nữ giới có 94.342 người, chiếm 60%. 10
tháng đầu năm 2011 cơ cấu nhóm tuổi hưởng trợ cấp thất nghiệp cũng gần tương
tự như năm 2010, cụ thể là dưới 24 tuổi có 55.162 người, chiếm 24,8%; từ 25-40
tuổi có 139.025 người, chiếm 62,6%; trên 40 tuổi có 27.887 người, chiếm
12,6%; Nam giới có 87.836 người, chiếm 39,5%; Nữ giới có 134.238 người,
chiếm 60,5%.
Một số địa phương có số lượng người đăng ký thất nghiệp và đề nghị
hưởng bảo hiểm thất nghiệp lớn là thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương,
tỉnh Đồng Nai và thành phố Hà Nội.
Quá trình tổ chức, triển khai thực hiện đó khẳng định đây là chính sách
đúng đắn có tác động trực tiếp, thiết thực tới người lao động, người sử dụng lao
động, góp phần đảm bảo an sinh xã hội,được người sử dụng lao động, người lao
động đón nhận một cách tích cực, được dư luận xã hội đánh giá là một trong
những chính sách sớm đi vào cuộc sống.
3. Đánh giá về chính sách bảo hiểm thất nghiệp của Việt Nam
Bất cứ một chính sách hay bộ luật nào cũng vậy, đều có những ưu điểm
và nhược điểm riêng của nó. BHTN Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.
3.1. Ưu điểm
Đúng như GS. Augustine Hà Tôn Vinh đã nói: “BHTN là một nhu cầu
cấp thiết của xã hội cần được thể chế hóa và là điều kiện cần được đề ra cho các
công ty Nhà nước và tư nhân khi thành lập DN”. 7 Điều đó là hoàn toàn hợp lý vì

những ưu điểm mà BHTN mang lại cho người lao động, xã hội, các DN và
Chính phủ.
7

/>
16/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
Thứ nhất, BHTN mang lại rất nhiều lợi ích cho người lao động và trở
thành điểm tựa không thể thiếu đối với người lao động mất việc làm. Như đã
biết, vấn đề lao động luôn là một trong những điểm nóng của DN Nhà nước
(DNNN) cũng như tư nhân nhiều nơi trên thế giới. Trong điều kiện hội nhập
kinh tế càng sâu rộng hiện nay, đòi hỏi của thị trường lao động ngày càng gay
gắt, tỷ lệ thất nghiệp, mất việc cao vì kinh tế hiện suy giảm. Trong hoàn cảnh
kinh tế hiện nay, BHTN có thể coi là một yêu cầu đảm bảo cần thiết cho người
lao động.
Ở nước ta, trong thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu, DNNN luôn bị áp lực
tài chính do có số lao động dôi dư để lại từ trước khá cao và do tay nghề của lao
động thấp hơn so với nhu cầu hiện tại của thị trường. DNNN thường gặp khó
khăn tài chính khó có thể đứng vững vì không thể dễ dàng giảm thiểu số lao
động dôi dư khi cần thiết. Nhu cầu ổn định xã hội của Chính phủ thường không
cho phép các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường trong trường hợp này.
Tâm lý chung của người đi làm, lao động trí óc hay chân tay, đều muốn có công
ăn việc làm ổn định và được hưởng các phúc lợi xã hội. Sự vắng mặt của các
quỹ hay chương trình BHTN trong xã hội hay các tổ chức thương mại thường
đẩy nhiều người đi tìm cơ hội làm việc trong các cơ quan công quyền hay các
DNNN mặc dù mức lương có thể rất thấp so với khả năng và thị trường. Và
BHTN ra đời là chỗ dựa của nhiều người lao động khi có các thiên tai, đại dịch
xảy ra làm cho nhiều DN phải đóng cửa và làm cho người đi làm bị thất nghiệp

lâu dài. Dịch cúm gia cầm và bệnh SARS tại Việt Nam và các nước trong vùng
những năm vừa qua là một thí dụ điển hình. Sự có mặt của các chương trình hay
quỹ BHTN trở thành một sự bảo đảm cho cuộc sống của người lao động khi họ
thất nghiệp.
Thứ hai, BHTN còn giúp cho cộng đồng hay địa phương được ổn định.
Thất nghiệp là một thực tế của nền kinh tế thị trường thường đem đến nhiều hậu
quả tiêu cực cho xã hội như gia tăng nghèo đói và tội phạm, bất ổn chính trị, các
17/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
vấn đề sức khỏe tâm thần,… BHTN, vì vậy là một công cụ của xã hội để chống
trả lại những tiêu cực trên.
Dù BHTN không thể giải quyết hết mọi khó khăn nhưng giúp vào việc ổn
định xã hội và góp phần vào việc duy trì và phát triển xã hội bền vững. Nhiều
nhà máy lớn như nhà máy thép, dệt may, xi măng… khi đóng cửa thường đưa
hàng ngàn lao động địa phương tình trạng thất nghiệp kéo theo sự suy sụp kinh
tế của đất nước vì Chính phủ mất đi nguồn thuế thu nhập cá nhân và thuế DN và
vì lao động không còn thu nhập để mua bán sinh sống như trước nữa. Quỹ này
sẽ được sử dụng để trả TCTN hàng tháng cho người được hưởng chế độ; hỗ trợ
học nghề và tìm việc, đóng bảo hiểm y tế cho người lao động đang hưởng TCTN
hàng tháng; đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định… Sự có mặt của
BHTN vì thế không là nhu cầu riêng của người lao động mà còn là sự sống còn
và phát triển của cộng đồng.
Đáng chú ý, loại hình bảo hiểm này còn có sự tham gia, xác định rõ trách
nhiệm của ba bên trong việc giải quyết chế độ, trợ cấp cho người lao động là
Nhà nước, DN và người lao động theo phương thức cả ba bên cùng đóng góp
cho Quỹ BHTN. Quỹ BHTN sẽ hình thành trên cơ sở sự chia sẻ: người lao động
đóng 1% tiền lương, tiền công; chủ sử dụng đóng 1% và Nhà nước hỗ trợ từ
ngân sách 1% quỹ tiền lương, tiền công. Điểm ưu việt của chính sách này chính

là có sự hỗ trợ của Nhà nước. Do đó tính ổn định của quỹ sẽ cao, phù hợp với xu
hướng của thế giới trong việc đảm bảo an sinh xã hội.
Đối với DN, BHTN cũng rất có ý nghĩa. DN tham gia đóng BHTN cho
người lao động cũng là một cách để giữ chân lao động, khiến người lao động
yên tâm với công việc. Từ đó, họ sẽ tập trung nhiệt huyết, sáng tạo trong công
việc; góp phần nâng cao hiệu quả lao động và chắc chắn là doanh nghiệp sẽ kinh
doanh phát đạt hơn.

18/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
Thêm vào đó, DN khi tham gia loại hình bảo hiểm này sẽ không phải thực
hiện nghĩa vụ của điều 17 và 42 của Luật Lao động về trợ cấp mất việc hoặc trợ
cấp thôi việc như trước nữa. Bởi theo điều 17 thì DN khi cho công nhân nghỉ do
chuyển dịch cơ cấu hay thay đổi công nghệ thì phải có trách nhiệm giúp họ tìm
việc làm khác, đào tạo lại để người đó tiếp tục tìm việc làm khác hoặc trợ cấp tài
chính cho họ trong một khoảng thời gian nhất định. Bên cạnh đó DN nên cắt
giảm lao động theo trình độ và thời gian công tác của người lao động, tức là
người nào không có chuyên môn nên cho nghỉ trước. Hơn nữa DN cần phải
thành lập một quỹ TCTN cho công nhân. Nhà nước cũng phải tạo điều kiện cho
những người thất nghiệp được đào tạo và hỗ trợ cho các địa phương và các
ngành có người thất nghiệp. Còn điều 42 quy định rằng DN có trách nhiệm trợ
cấp thôi việc cho người lao động có thời gian làm việc từ một năm trở lên khi sa
thải họ, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương, nếu
có. Như vậy khi tham gia vào BHTN thì khoản tham gia đóng góp 1% của DN
sẽ được sử dụng khi có các trường hợp trên xảy ra. Còn nếu không tham gia vào
BHTN trên thì DN phải tự thành lập các quỹ TCTN mà không phải lúc nào cũng
có hỗ trợ từ phía Nhà nước. Còn về phía Nhà nước thì BHTN giúp sử dụng ngân
sách một cách có hiệu quả hơn, phối hợp chặt chẽ với DN nhằm tránh lãng phí.

Qua hơn 3 năm triển khai, đến nay hầu hết người lao động đều nắm được
quyền lợi và nghĩa vụ của mình; biết cách thực hiện những thủ tục cần thiết để
phối hợp với nhân viên trung tâm giới thiệu việc làm hoàn thiện hồ sơ theo đúng
quy định; đồng thời tận dụng mọi cơ hội tìm kiếm thông tin học nghề, việc
làm.... BHTN đã giúp cho người thất nghiệp sớm được làm việc trở lại, duy trì
được tâm lý ổn định và cảm giác an toàn trong cuộc sống. BHTN không những
giúp cho người thất nghiệp không trở thành gánh nặng cho gia đình và cộng
đồng mà còn giúp bảo vệ được cộng đồng tránh khỏi khủng hoảng thất nghiệp
dây chuyền và chậm phát triển do ngân sách bị hao hụt vì thiếu nguồn thu nhập
từ thuế và vì phải trả cho những khoản chi phí ngoài dự toán hàng năm.
19/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
3.2. Hạn chế
Có thể thấy rằng qua 3 năm triển khai, chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã
đi vào cuộc sống, góp phần hỗ trợ người lao động và gia đình họ vượt qua khó
khăn, tìm kiếm việc làm mới, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, chính sách bảo
hiểm thất nghiệp đến nay vẫn còn nhiều hạn chế.
a) Bất cập ngay từ tên gọi
Khái niệm “thất nghiệp” dùng để chỉ chung tất cả những người lao động
nhưng chưa có việc làm thì đối tượng “thất nghiệp” của dự luật chỉ là người đã
có việc làm với hợp đồng lao động từ 12 tháng trở lên bị mất việc (Điều 35 Luật
lao động Việt Nam). Quy định như vậy chưa thể hiện được ý nghĩa xã hội của
chính sách đối với số đông lao động. Thực tế, người lao động không có hợp
đồng hoặc hợp đồng dưới 6 tháng chiếm tỷ lệ rất cao và chính họ là người có
nguy cơ bị mất việc hơn cả.
b) Đối tượng DN bắt buộc tham gia BHTN
Thứ nhất, theo quy định, chỉ những DN có từ 10 lao động trở lên mới
phải tham gia BHTN bắt buộc. Thực tế cho thấy tổng số DN siêu nhỏ và nhỏ ở

nước ta chiếm tỷ trọng cao hơn so với các DN vừa và lớn. Nhiều DN thuộc một
số lĩnh vực ví dụ như phần mềm, viễn thông… có thể không nhiều lao động
nhưng người lao động có thu nhập rất cao và cũng chịu độ rủi ro thất nghiệp cao.
“Báo cáo thường niên DN Việt Nam 2011” do VCCI công bố ngày 14/3/2012,
số DN dưới 10 lao động chiếm khoảng 66%, từ 10-200 lao động chiếm 29,6%,
từ 200-300 lao động chỉ chiếm 1,9%. 8 Hơn nữa, đối với các DN có dưới 10 lao
động, nếu không có quy định bắt buộc phải đóng phí BHTN thì sẽ càng không
có nhiều chủ DN tự nguyện đóng tiền BHTN cho Bộ Lao động, để đỡ tốn thêm
một khoản chi phí. Vì vậy những lao động trong các DN này sẽ khó có thể được
hưởng BHTN.
8

/>
20/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
Thứ hai, theo nhiều DN, vấn đề chênh lệch về lao động là rất lớn, từ lao
động giản đơn cho đến lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Nếu để số
lượng này sẽ rất bất hợp lý bởi có những DN chỉ dưới 10 lao động nhưng lại có
doanh thu lớn, đóng góp nhiều cho xã hội thì lại không thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật. Bên cạnh đó lại có những DN rất đông người lao động nhưng
gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, nếu phải đóng BHTN cũng rất
khó khăn.
Thứ ba, theo Nghị định 127, lao động được hưởng BHTN phải làm việc
theo hợp đồng tối thiểu từ 12 tháng trở lên và chủ sử dụng người lao động phải
sử dụng tối thiểu 10 lao động trở lên. Ở Việt Nam đang có hàng trăm ngàn DN
có số lao động dưới 10 người. Những DN siêu nhỏ này theo dự báo sẽ là những
DN bị ảnh hưởng đầu tiên do suy thoái kinh tế, bởi sức đề kháng luôn yếu nhất,
nhưng lao động trong các DN đó sẽ không được hưởng chính sách BHTN.

Việc quy định như trên vô tình gây phân hoá DN lớn và nhỏ, gây khó
khăn hơn cho các DN nhỏ trong việc tuyển người. Theo số liệu thống kê năm
2009, cứ 5 lao động thì có 4 lao động thuộc ngành kinh tế phi chính thức. 9 Tại
các đơn vị sản xuất nhỏ như làng nghề hoặc lao động thời vụ thì rất khó có hợp
đồng để đủ điều kiện tham gia BHTN cho người lao động. Như vậy, có thể thấy
số lao động tham gia BHTN sẽ rất ít so với số người thất nghiệp thực.
Quy định này có thể dẫn đến trường hợp các DN “lách luật”, chỉ đăng ký
số lao động dưới 10 để tránh phải nộp BHTN cho người lao động trong khi
đó nhiều người lao động lại không am hiểu về luật pháp và không hiểu rõ
các quyền lợi của mình. Đối với DN, do việc đóng BHTN cho người lao
động làm giảm bớt doanh thu nên DN có thể sẽ “lách luật” bằng cách ký
hợp đồng thời vụ (dưới 12 tháng) và ký mức lương ghi trong hợp đồng thấp
hơn nhiều so với thực tế. Tổ chức ActionAids tại Việt Nam vừa có cuộc
/>9

21/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
khảo sát về lao động nhập cư tại một số địa phương, cho kết quả: 70% lao
động nhập cư là nữ, trong đó 10% lao động đang làm theo các hợp đồng
miệng và 24% làm theo các hợp đồng thời vụ cho dù công việc không có
tính thời vụ.10 Còn việc trốn đóng BHXH thì vẫn đang diễn ra hằng năm
với con số ngày càng tăng. Năm 2011, tổng số nợ BHXH, BHYT lên tới
hơn 3.922 tỷ đồng (tăng 33,84% so với số nợ năm 2010), trong đó nợ
BHXH hơn 3.338 tỷ đồng (tăng 31% so với năm 2010). 11 Không chỉ ở
các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà còn
ở cả doanh nghiệp nhà nước, chẳng hạn như: Cty Cổ phần cầu 12 (Cienco1
- Bộ GTVT) nợ 28 tháng với số tiền 12 tỷ đồng; Cty TNHH may mặc xuất
khẩu VIT Garment nợ 37 tháng với 7,4 tỷ đồng...12

c) Những bất cập trong thủ tục thực hiện và quản lý BHTN
Cách tính và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp
Việc quy định người có thời gian đóng BHTN từ đủ 12 tháng đến 36
tháng đều được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp là không phù hợp, dễ bị lợi
dụng. Có không ít người lao động không bị thất nghiệp mà tự ý xin nghỉ việc khi
có đủ 12 tháng đóng BHTN để được hưởng trợ cấp 3 tháng thất nghiệp. Theo
quy định, điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp là người lao động phải tham gia
đóng BHTN từ 12 tháng đến 36 tháng. Như vậy, trong 36 tháng làm việc được
tách thành 3 lần đăng ký nhận trợ cấp thất nghiệp để trục lợi. Điều này đã khiến
cho các doanh nghiệp bị động trong sản xuất.13
Thời hạn đăng ký thất nghiệp và chốt sổ BHTN

/>11
/>12
/>13
/>10

22/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
Theo quy định tại khoản 1, Điều 34, NĐ 127/2008/NĐ-CP của Chính phủ
và một số văn bản của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội thì trong thời hạn
7 ngày làm việc kể từ ngày bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động,
hợp đồng làm việc, người lao động phải trực tiếp đến trung tâm giới thiệu việc
làm để đăng ký thất nghiệp. Trong trường hợp người lao động bị ốm đau, thai
sản, bị tai nạn hay thiên tai... phải có giấy xác nhận của bệnh viện cấp huyện trở
lên thì thời hạn trên mới được kéo dài nhưng không quá 30 ngày. Việc quy định
thời hạn như trên là cần thiết, đảm bảo phản ánh đúng tình trạng thất nghiệp.
Tuy nhiên, việc hạn chế số ngày đăng ký thất nghiệp lại gây khó khăn cho đối

tượng tham gia BHTN khi bị mất việc làm trong trường hợp bên sử dụng lao
động chậm trả giấy chứng nhận đóng BHTN. Thực tế nhiều người lao động đã
không kịp đăng ký BHTN vì chủ sử dụng lao động đã thực hiện việc chốt sổ
BHXH và ra quyết định nghỉ việc đối với người lao động.14
Theo luật, trong vòng 15 ngày khi đăng ký thất nghiệp, người lao động
phải hoàn tất hồ sơ xin hưởng BHTN, trong đó bắt buộc phải có sổ BHXH.
Trên thực tế, không phải người lao động nào cũng nhận được sổ BHXH
đúng thời gian, bởi có thể doanh nghiệp đang còn nợ đọng BHXH, chưa có
khả năng thanh toán nên chưa thể chốt sổ và không hiếm doanh nghiệp sa
thải người lao động trái luật, cố tình gây khó khăn cho những người nghỉ
việc bằng cách kéo dài thời gian chốt sổ. Do vậy, nếu không có quy định
chặt chẽ thì sẽ có không ít người lao động không được hưởng trợ cấp thất
nghiệp, trong khi lỗi thuộc về doanh nghiệp.
Vấn đề hợp đồng lao động trong BHTN
Hợp đồng lao động được xem là cái gốc để tham gia BHTN. Người lao
động phải có hợp đồng lao động (hoặc không xác định thời hạn, hoặc hợp đồng
lao động có xác định thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng), và mức đóng góp 1%
/>14

23/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
tiền lương cũng là căn cứ theo tiền lương ghi trên hợp đồng lao động (trừ những
trường hợp người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định). Quy định này làm nảy sinh một số bất cập như sau:
Thứ nhất, với nhiều mặt hàng xuất khẩu, chẳng hạn như bánh đậu xanh
Hải Dương, DN không thể ký kết hợp đồng dài hạn, từ 12 tháng trở lên với
người lao động. Bởi lý do có lúc không có đơn hàng, nếu ký hợp đồng 1
năm thì DN không thể thuê và trả lương cho lao động được. Vì vậy việc

thực hiện BHTN cho những đối tượng như thế này cần phải nghiên cứu
thêm.
Thứ hai, nếu quy định 1% tiền lương là căn cứ theo tiền lương ghi trên hợp
đồng lao động có thể nảy sinh khó khăn. Bởi có nhiều đơn vị sản xuất kinh
doanh cách tính lương là theo doanh số bán hàng, không quy định cụ thể số
tiền lương trong hợp đồng lao động. Vì vậy để xác định một mức phí hàng
tháng là khó khăn và có thể xuất hiện nhiều gian lận, trốn phí.
d) Vấn đề hỗ trợ học nghề
Theo quy định tại Điều 83, 84 Luật BHXH, người được hưởng trợ cấp
thất nghiệp được hỗ trợ học nghề với thời gian không quá 6 tháng và hỗ trợ tìm
việc làm miễn phí. Phần lớn số lao động đăng ký và hưởng BHTN mới chỉ nhắm
đến việc nhận tiền trợ cấp thất nghiệp mà ít quan tâm đến việc nhận sự tư vấn,
giới thiệu việc làm hay được hỗ trợ học nghề. Thị trường lao động hiện nay chủ
yếu tuyển lao động phổ thông nên người lao động dù có học nghề cũng chỉ được
sử dụng công việc của lao động phổ thông. Bên cạnh đó, việc quy định đào tạo
nghề không quá 6 tháng, trình độ sơ cấp khiến nhiều lao động thất nghiệp không
mấy mặn mà. Tính đến hết năm 2010, cả nước chỉ có chưa đầy 300 người thất
nghiệp tham gia đào tạo nghề. 15

/>15

24/44


Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam
Bên cạnh đó, hiện mức hỗ trợ học nghề thấp và thời gian ngắn cũng
gây khó khăn cho người lao động. Quy định này sẽ không tạo điều kiện để người
lao động tìm việc làm mới phù hợp khả năng và yêu cầu của thị trường. Quy
định của luật là trong thời gian người lao động mất việc làm đến ngày hưởng trợ
cấp thất nghiệp thì không được hưởng bảo hiểm y tế... sẽ gây khó khăn, vất vả

đối với người lao động không may bị ốm đau, bệnh tật. Ví dụ, đến ngày được
hưởng trợ cấp thất nghiệp thì không được hưởng bảo hiểm y tế; BHTN cũng
chưa có chế độ mai táng cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp.

III – Chính sách BHTN tại Mỹ và bài học kinh nghiệm cho VN
1. Khái quát các quy định về BHTN tại Hoa Kỳ
Bảo hiểm thất nghiệp là chương trình nằm trong Luật Bảo hiểm xã hội
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được thực hiện từ năm 1935, gồm có: hệ thống của
Liên bang và Tiểu bang. Hệ thống Liên bang quy định chung, từ đó cấp Tiểu
bang hướng dẫn, quản lý và thực hiện chương trình của bang mình. Việc quản lý
và thực hiện chương trình bảo hiểm thất nghiệp ở các Tiểu bang cũng khác
nhau.
1.1. Mục đích và đối tượng tham gia BHTN
Mục đích của chế độ BHTN ở Hoa Kỳ là:
− Ngăn ngừa sự bất ổn định về kinh tế, xã hội; hỗ trợ, đào tạo nhằm giúp
người lao động có cơ hội trở lại thị trường lao động, tìm việc làm mới.
− Thay thế một phần thu nhập cho người lao động bị mất việc làm mà
không phải lỗi của họ.
Thẩm quyền ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp:
− Cấp Liên bang: Ban hành chính sách khung có tính nguyên tắc gồm: quy
định về đối tượng; khung mức đóng, mức hưởng tối đa, thời gian hưởng

25/44


×