Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.98 KB, 48 trang )

Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................................1
Chương 1 : Tổng quan về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.......................................2
I. Cơ cấu kinh tế..................................................................................................................................2
1.1. Khái niệm:................................................................................................................................2
1.2. Các tính chất cơ bản của một cơ cấu kinh tế............................................................................2
II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế..................................................................................................2
2.1. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế...............................................................................................2
2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó...............................................................3
2.3.Tính quy luật về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế...................................................................4
2.4 Những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế....................................5
2.5. Những nhân tố tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế..........................................6
III. Khái quát quan điểm, đường lối của Đảng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam qua
các kỳ đại hội......................................................................................................................................7
Chương 2 : Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt nam..................................10
I. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam từ thập kỷ 1990 đến nay.......................10
1.1 Cơ cấu GDP.............................................................................................................................10
II. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong thời kỳ đổi mới vừa qua..............................................................................................22
2.1 Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.....................22
2.2 Nguyên nhân của những mặt hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế........25
Chương 3 : Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay......................28
I. Những nhân tố mới ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam..................28
1.1 Đặc điểm mới của bối cảnh kinh tế quốc tế............................................................................28
1.2 Điểm xuất phát mới của kinh tế Việt Nam..............................................................................32
II. Các giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay..............35
2.1 Các giải pháp cơ bản dài hạn..................................................................................................36


2.2 Các giải pháp trực tiếp............................................................................................................39
2.3 Triển vọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở VN đến năm 2020...................................................46

1


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Chương 1 : Tổng quan về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
I. Cơ cấu kinh tế
1.1. Khái niệm:
Cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao
gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong
những khoảng không gian và thời gian nhất định, được thể hiện cả về mặt định
tính và định lượng, cả về mặt số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với mục tiêu
được xác định của nền kinh tế.
Về bản chất: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh
tế với vị trí, tỉ trọng tương ứng cuả chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn
định hợ.p thành.
1.2. Các tính chất cơ bản của một cơ cấu kinh tế
Một là, cơ cấu kinh tế mang tính chất khách quan
Hai là, cơ cấu kinh tế mang tính chất lịch sử - xã hội cụ thể
Ba là, cơ cấu kinh tế có tính động
Bốn là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình
II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.1. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế
_ Từ sự phân tích lý luận về cơ cấu kinh tế ở trên, chúng ta có thể hiểu: cơ
cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỉ lệ, biểu hiện
mối quan hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân.
_ Cơ cấu ngành kinh tế là một bộ phận cơ bản cấu thành cơ cấu của nền

kinh tế quốc dân. Nó là một phạm trù trừu tượng, có quan hệ phức tạp với các
bộ phận kinh tế khác, nên muốn nắm vững bản chất của cơ cấu ngành kinh tế và
đưa ra được các giải pháp phù hợp nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
nhanh và hiệu quả cũng cần xem xét, làm rõ bản chất của các bộ phận kinh tế
hợp thành khác. Đó là cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ và cơ cấu kinh tế thành phần
kinh tế.
2


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

2.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa của nó
- Khái niệm: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chính là sự vận động phát
triển của các ngành làm thay đổi vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác giữa
chúng theo thời gian để phù hợp với sự phát triển ngày càng cao của lực lượng
sản xuất và phân công lao động xã hội.
- Ý nghĩa của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế luôn là một trong những vấn đề then
chốt, đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
+ Một là, phát huy các lợi thế so sánh để khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực phát triển của quốc gia, địa phương như về đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, vốn nguồn nhân lực, trên cơ sở đó tái cơ cấu lại nền kinh tế theo
hướng phân bổ những nguồn lực từ khu vực có năng suất thấp sang khu vực có
năng suất cao hơn
+ Hai là, tạo ra sức sản xuất hàng hóa với khối lượng lớn, chất lượng cao,
đa dạng về chủng loại để đáp ứng nhu cầu cho nhân dân và xuất khẩu.
+ Ba là, góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm và không ngừng tăng thu
nhập, nâng cao mức sống cho người lao động, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi
thành phần trong xã hội vươn lên làm giàu chính đáng trong khuôn khổ pháp
luật.

+ Bốn là, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mở ra
cơ hội cho các ngành tiến hành công nghiệp hóa_hiện đại hóa, nâng cao trình độ
áp dụng khoa học kĩ thuật – công nghệ cao và phương thức quản lí tiên tiến vào
các hoạt động sản xuất – kinh doanh, mở ra cơ hội để thâm nhập ngày càng sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới…
Việt Nam đã đạt được nhiều thành công vì đã có sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế đúng hướng. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 24,53% năm
2000 xuống còn 20,30% năm 2007: công nghiệp – xây dựng tăng từ 36,73%
năm 2000 lên 41,58% năm 2007, dịch vụ giảm nhẹ từ 38,74% năm 2000 xuống
còn 38,12% năm 2007. Điều đó đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam đạt khá cao, với mức bình quân giai đoạn (2000 – 2007) đạt 7,7%
3


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vấn đề chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam hiện nay còn đứng trước nhiều khó khăn, thách
thức như chưa đầu tư đúng mức cho các ngành công nghiệp công nghệ cao, vẫn
còn nặng nề về công nghiệp sử dụng nhiều lao động, quá trình hiện đại hóa chưa
được quan tâm đúng mức, chưa xác định được cơ cấu đầu tư hợp lý
Ngành nông nghiệp về cơ bản vẫn sản xuất theo phương thức truyền
thống, chưa tạo ra được nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra chậm chạp, trình độ sản xuất lạc hậu
Các ngành dịch vụ cao cấp có hàm lượng chất xám cao, phát triển chậm,
đóng góp vào GDP còn nhỏ.
2.3.Tính quy luật về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.3.1. Quy luật biến đồi chung của các ngành kinh tế vĩ mô
Cơ cấu ngành kinh tế luôn có sự biến đổi và phát triển không ngừng theo
nguyên lý của sự phát triển từ thấp đến cao. Các bộ phận hợp thành cơ cấu

ngành kinh tế là các ngành kinh tế vĩ mô giữa chúng đều có mối liên hệ gắn bó
hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau, tạo ra những điều
kiện, tiền đề cho nhau trong quá trình phát triển.
Về bản chất, đây là sự chuyển dịch từ khu vực có năng suất lao ộng thấp
sang khu vực có năng suất lao động cao hơn để tái cơ cấu lại nền kinh tế, ngành
kinh tế nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất
nước trong xu thế toàn cầu hóa để tạo ra tốc độ phát triển nhanh và bền vững.
2.3.2. Quy luật biến đổi trong nội bộ các ngành kinh tế
Về mặt lượng: các phân ngành có thể biến đổi theo hướng tăng lên hoặc
giảm đi tùy theo điều kiện sản xuất ở các thời kỳ khác nhau.
Về mặt chất: trong một ngành kinh tế, những phân ngành nào có trình độ
sản xuất cao, tạo ra giá trị gia tăng lớn thì sẽ ngày càng phát triển, còn những
ngành nào có năng suất lao động thấp, hiệu quả kinh tế kém thì sẽ phát triển
chậm, quy mô sẽ ngày một thu hẹp lại hoặc thậm chí bị tiêu vong

4


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

2.3.3. Tính đặc thù về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đối với một địa
phương
Mỗi địa phương có các điều kiện khác nhau về tự nhiên, kinh tế - xã hội,
truyền thống, kinh nghiệm sản xuất lực lượng lao động… nên việc xây dựng
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế nói riêng cũng mang tính đặc thù và không nhất thiết phải tuyệt đối tuân
theo quy luật chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nên trên.
Việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, chính
sách chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng phải dựa trên cơ sở chiến lược
phát triển vùng miền.

2.4 Những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.4.1 Cơ cấu tổng sản phầm quốc nội ( GDP)
Trong đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu GDP giữa các
ngành kinh tế là một trong những tiêu chí quan trọng nhất phản ánh xu hướng
vận động và mức độ thành công của công nghiệp hóa.
Để đánh giá sát thực hơn cơ cấu ngành kinh tế, việc phân tích cơ cấu các
phân ngành phản ánh sát thực hơn khía cạnh chất lượng và mức độ hiện đại hóa
của nền kinh tế.
2.4.2. Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế còn được đánh giá qua một tiêu chí rất quan trọng là cơ cấu lao
động đang làm việc trong nền kinh tế được phân bổ như thế nào vào các lĩnh
vực sản xuất khác nhau.
So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành được đánh giá cao
là do tiêu chí này không chỉ phản ánh sát thực hơn mức độ chuyển biến sang xã
hội công nghệp của một đất nước mà còn bị ảnh hưởng bởi nhân tố ngoại lai
hơn.

5


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

2.4.3. Cơ cấu hàng xuất khẩu
Trong điều kiện cả một nền kinh tế đang công nghiệp hóa, cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu cũng được xem như một tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ
thành công của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa – hiện đại hóa.
Hầu hết các nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa để trở thành một
nước công nghiệp phát triển đều cơ bản trải qua một mô hình chung trong cơ

cấu sản xuất và cơ cấu hàng xuất khẩu là: từ chỗ chủ yếu sản xuất và xuất khẩu
hàng sơ chế sang các mặt hàng công nghiệp chế biến , lúc đầu là sản phẩm của
công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động , kỹ thuật thấp như dệt may, lắp
ráp, chế biến nông lâm ngư nghiệp… chuyển dần sang sản phẩm sử dụng nhiều
công nghệ kĩ thuật cao như hóa, điện tử, cơ khí chế tạo.
2.5. Những nhân tố tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
2.5.1 Nhóm các nhân tố đầu vào của sản xuất
Nhóm này bao gồm toàn bộ các nguồn lực mà xã hội có thể huy động
được vào quá trình sản xuất, bao gồm các nhân tố chính là: nguồn lực tự nhiên ,
nguồn lực con người, nguồn vốn và tiềm lực khoa học – công nghệ.
2.5.2. Nhóm các nhân tố đầu ra của sản xuất ( yếu tố thị trường)
Nếu các nhóm yếu tố đầu vào phản ánh sự tác động của các nguồn nhân
lực có thể huy động cho sản xuất và sự phân bố chúng vào những lĩnh vực sản
xuất kinh doanh khác nhau, thì nhóm các yếu tố đầu ra của sản phẩm quyết định
xu hướng vận động của thị trường, nơi phát ra tín hiệu quan trọng bậc nhất dẫn
dắt các nguồn vốn đầu tư cũng như các nguồn lực sản xuất khác quyết định phân
bổ vào những lĩnh vực sản xuất nào, với quy mô bao nhiêu. Những nhân tố này
bao gồm : dung lượng thị trường và thói quen của người tiêu dùng
- Dung lượng thị trường: Độ lớn của dung lượng thị trường là một trong
những nhân tố có ý nghĩa đối với sự di chuyển các nguồn lực được phân bổ vào
các lĩnh vực sản xuất khác nhau, dung lượng thị trường ( lượng cầu ) được quy
định bởi quy mô dân số và mức thu nhập. Khi mức thu nhập của dân cư còn
6


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

thấp, hầu hết thu nhập chỉ được chi dùng cho những mặt hàng thiết yếu . Nhưng
khi thu nhập của dân cư tăng lên , cơ cấu tiêu dùng của họ cũng thay đổi theo
hướng chi cho các mặt hàng cao cấp tăng lên. Rõ ràng những dấu hiệu dịch

chuyển cơ cấu có khả năng thanh toán có động dẫn dắt hường đầu tư kinh doanh
của các nhà đầu tư và vì thế, tác động không nhỏ dẫn đến sự hình thành và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
- Thói quen ( thị hiếu) của người tiêu dùng:
Tính ưa thích theo thói quen tiêu dùng một số loại sản phẩm nào đó đòi
hỏi các nhà đầu tư phải nghiên cứu để tìm cách đáp ứng, vì thế tình trạng thỏa
dụng của người tiêu dùng đã trở thành một trong các chỉ tiêu tác động vào sự
hình thành cơ cấu ngành kinh tế
2.5.3. Nhóm các nhân tố về cơ chế chính sách của nhà nước
Qúa trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu sự tác động tổng hợp của
nhiều nhân tố. Trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của quá trình toàn cầu
hóa, thị trường hóa và tiến bộ khoa học công nghệ diễn ra nhanh chóng, bản
thân những nhân tố tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng
không ngừng biến đổi và hàm chứa những nội dung kinh tế không hoàn toàn
giống nhau. Vì vậy, khi đánh giá mức độ tác động của từng nhân tố cũng như
tổng hợp các nhân tố đó, cần phải nhìn nhận chúng như những quá trình động để
xem xét xu hướng tác động dài hạn lên quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành của
nền kinh tế. Nhưng dù có tiếp cận vấn đề như thế nào đi nữa thì trong một nền
kinh tế thị trường, tập hợp các nhân tố đầu vào ( nguồn lực sản xuất), đầu ra
( điều kiện thị trường) và cơ chế chính sách ( chủ yếu là sự tác động của nhà
nước) vẫn là những tác nhân quan trọng nhất đối với xu hướng chuyển dịch cơ
cấu của nền kinh tế.
III. Khái quát quan điểm, đường lối của Đảng về chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế ở Việt Nam qua các kỳ đại hội
Ngay từ đại hội lần thứ III của Đảng (1960), vấn đề công nghiệp hóa và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã được đề cập tới với quan điểm chỉ đạo là “
thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp
7



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ”
_ Đại hội lần thứ IV của Đảng ( 1976) đã tái khẳng định việc “ đẩy mạnh
công nghiệp hóa XHCN nước nhà” với phương châm “ưu tiên” phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý nhưng không phải “đồng thời”, mà thay vào đó là
“trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
-

Đại hội lần thứ V của Đảng ( 1982), trong khi tiếp tục khẳng định

đường lối nhất quán coi công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá
độ tiến lên CNXH, đã bước đầu chỉ ra sai lầm về chính sách cơ cấu mà điểm
mấu chốt là thiếu chuẩn bị đầy đủ những điều kiện tiền đề có tính chất thiết yếu
của nó. Đứng trước sự trì trệ có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng, Đại hội V đã
nhấn mạng tính chất nhiều giai đoạn của hành trình công nghệp hoá. Vì vậy,
thay vì quan điểm cho rằng phải “thúc đấy thực hiện công nghiệp hóa”, giờ đây,
ở chặng đường đầu, vấn đề cơ cấu được nhận thức lại là “tập trung sức mạnh
phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức đẩy
mạnh hàng sản xuất, hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công
nghiệp quan trọng”
- Từ đánh giá lại thực trạng của xuất phát điểm như trên, đại hội lần thứ
VI (1986) xác định giải pháp cơ cấu là “phải thực sự tập trung sức người, sức
của vào việc thực hiện cho được 3 chng trình mục tiêu về lương thực – thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”
- Đến đại hội VII (1991), sau khi kiểm điểm lại tình hình tiến hành công
cuộc “đổi mới” đã ghi nhận “ những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục
tiêu của 3 chương trình kinh tế ( lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu), đã đồng thời nhận định rằng :” khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn

chưa chấm dứt”. Điều đó cũng có nghĩa là, chúng ta lại đứng trước “những năm
trước mắt” mới của chặng đường đầu tiên với “mục tiêu tổng quát của 5 năm tới
là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế xã hội…, đưa đất
nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” và coi việc”phát triển,
nông, lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế
8


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu để ổn định tình
hình kinh tế - xã hội”
- Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam ( 1996), trên cơ sở
những thành tựu bước đầu của hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế và những
xu hướng vận động, phát triển mới của đời sống kinh tế quốc tế, trước những cơ
hội và thách thức của thời đại , đã đề ra mục tiêu tổng quát là : “ra sức phấn đấu
đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” vào năm 2020. Từ mục
tiêu tổng quát đó, phương hướng chung về mô hình công nghiệp hóa được xác
định là: “ xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong
nước có hiệu quả”
- Trên cơ sở kết quả bước đầu của 15 năm đổi mới kinh tế và về cơ bản
đã hoàn thành những mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đầu tiên
( 1991 – 2000), Đại hội lần thứ IV của Đảng (4/2001) đã đặt một dấu mốc mới
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại Đại hội này, những
mục tiêu mới của chiến lược phát triển kinh tế xã hội lần thứ hai ( 2001- 2010)
cũng đã được thông qua là: “ Đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
Đại hội tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế, công nghiệp hóa – hiện đại hóa là

nhiệm vụ trung tâm, và “con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước vọt.
Tóm lại, cùng với thời gian, quan điểm về vấn đề cơ cấu và chuyển dịch
cơ cấu trong thời kỳ công nghiệp hóa ở nước ta đã có sự chuyển biến lớn và căn
bản. Cái trục xuyên suốt quá trình ấy là hiểu rõ mình hiện đang nằm ở đâu trong
cái nấc thang phát triển kinh tế và vị trí nào trong mối quan hệ kinh tế quốc tế,
những cái chi phối động tái của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.

9


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Chương 2 : Thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt nam
I. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam từ thập kỷ 1990 đến
nay
1.1 Cơ cấu GDP
Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở
nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị
trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và
thương mại - dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ
trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp
(gọi chung là nông nghiệp).
1.1.1 Cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô
 Về cơ cấu ngành kinh tế, cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn
định của GDP, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích
cực. Đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1%
năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến
năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm
1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và

đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa
biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm
2005: 38,1%; năm 2008 là khoảng 38,7%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo
xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp
ngày càng giảm đi.
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển
dịch ngày càng tích cực hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng
giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên
19,3% năm 2007. Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu
10


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

lao động xã hội nông thôn mà biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp,
thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông nghiệp thuần tuý giảm dần. Tỷ
lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp) đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ
công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và dịch vụ trên địa
bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.
 Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội
nhập vào kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày
càng tăng, nghĩa là hệ số mở cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47%
năm 2001, và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001
- 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm),
khiến cho năm 2005, bình quân kim ngạch xuất khẩu/người đã đạt 390
USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt mức
cao - 40 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt gần 50 tỉ USD, tăng

21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, đưa tỷ lệ
XK/GDP đạt khoảng 70%.
Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải
sản... đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính
thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát
triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001, vốn FDI vào Việt
Nam là 3,2 tỉ USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỉ USD; 2003: 3,2 tỉ USD; 2004:
4,5 tỉ USD; 2005: 6,8 tỉ USD; 2006: 10,2 tỉ USD; và năm 2007 vừa qua đã là
năm thứ hai nước ta liên tục nhận được các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài (FDI) đạt con số kỷ lục: 20,3 tỉ USD, tăng gấp đôi so với năm 2006, bằng
tổng mức thu hút FDI của cả giai đoạn 5 năm 2001-2005, chiếm 1/4 tổng vốn
FDI vào Việt Nam trong suốt hơn 20 năm vừa qua.
Năm 2008, tuy kinh tế toàn cầu có nhiều khó khăn lớn trong xu thế suy
thoái, song đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại Việt Nam đạt 64,011 tỉ USD,
tăng gấp đôi năm 2007. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam
11


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

năm 2008 diễn ra đầu tháng 12, tại Hà Nội, tổng cam kết từ các nhà tài trợ lên
tới 5,014 tỉ USD (thấp hơn 1 chút so với năm 2007: 5,4 tỉ USD). Giải ngân vốn
ODA được 2,2 tỉ USD, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra và cao hơn mức năm 2007
(2,176 tỉ USD).
Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đã bước đầu được triển
khai. Các doanh nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài như
khai thác dầu ở An-giê-ri, Xin-ga-po, Vê-nê-du-ê-la; trồng cao su ở Lào...
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong
những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu

tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta
giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ,
cán cân thanh toán quốc tế..., góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế xã hội theo hướng bền vững. Các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói
giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho người nghèo và chính
sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,2%
năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn 13,1%. Chỉ số phát
triển con người (HDI) đã không ngừng tăng, được lên hạng 4 bậc, từ thứ 109 lên
105 trong tổng số 177 nước...
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt 8,5% là tốc độ tăng trưởng cao
nhất kể từ năm 1997. Nhưng cũng khó có thể nói đây là một con số thật ấn
tượng. Tỷ lệ đầu tư so với GDP năm 2007 quá cao, tới 44%. Sự sôi động của thị
trường tài chính, hoạt động ngân hàng, và thị trường bất động sản ít chuyển hóa
sang nền kinh tế thực. Khu vực tài chính, ngân hàng và bảo hiểm vẫn chiếm
chưa tới 2,0% GDP năm 2007.

12


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Bảng 1: Tăng trưởng GDP, 2003-2007 (%)
2003

2004

2005

2006


2007

Tốc độ tăng (%)
GDP
7,34
7,79
8,44
8,17 8,48
Nông-lâm-thủy sản
3,62
4,36
4,02
3,40 3,40
Công nghiệp-xây dựng
10,48
10,22
10,69
10,37 10,60
Dịch vụ
6,45
7,26
8,48
8,29 8,68
Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK) và tính toán của Viện NCQLKTTƯ.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam đã trải qua
nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong
những khiếm khuyết lớn của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp là cố gắng hình thành nên cơ cấu ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ
quan, bất chấp quy luật, do đó đã kéo theo tình trạng đầu tư lãng phí, không đem
lại hiệu quả kinh tế, thì bước vào công cuộc đổi mới quá trình chuyển dịch cơ

cấu ngành kinh tế của nước ta đã đem lại những kết quả rất tích cực. Nhờ vậy,
chỉ sau 3 năm của thời kỳ phôi thai về kinh tế thị trường (từ 1987 - 1989) nền
kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá trong những năm 1990 1997. Mọi dự kiến của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 đều được thực hiện vượt
mức khá cao. Trong thời kỳ khủng khoảng tài chính tiền tệ ở các nước châu Á,
tuy tốc độ tăng trưởng của nước ta có sự giảm sút, nhưng về cơ bản chúng ta vẫn
tránh được "cơn bão" của cuộc khủng khoảng, để sau đó tiếp tục tăng quy mô
GDP của đất nước, tăng xuất khẩu, phát triển công nghiệp, trở thành một nước
có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới

Bảng 2: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế qua các năm, %
13


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Năm

1991990

GDP

1995

1997

2000

2001

2002


2003

2004 2005

100,0 100,0

100,0 100,0 100,0 100,0 100,0

100,0 100,0

38,74 27,18

25,77 24,53 23,24 23,03 22,54

21,8

20,9

22,67 28,76

32,08 36,73 38,13 38,49 39,47

40,2

41,0

38,59 44,06

42,15 38,73 38,63 38,48 37,99


38,0

38,1

Nông - lâm - thủy
sản
Công nghiệp và
xây dựng
Dịch vụ

Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng có
lợi, đó là tăng tỷ trọng hàng chế biến có giá trị gia tăng cao (từ 45,1% trong
những năm 1996 - 2000 lên 48,0% trong những năm gần đây), giảm tỷ trọng
hàng thô và sơ chế; tăng tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp sử dụng nhiều lao động như hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ,...;
giảm tỷ trọng nhóm hàng nông - lâm - thủy sản (từ 52,2% năm 1990 xuống còn
27,6% năm 2003).
Điều đáng lưu ý là, tuy tỷ trọng của hàng nông - lâm - thủy sản trong cơ
cấu xuất khẩu của nước ta giảm, nhưng nhờ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp theo hướng tăng sản xuất các sản phẩm có năng suất cao, giá trị
kinh tế hơn nên giá trị xuất khẩu của hàng nông - lâm - thủy sản của nước ta vẫn
khá cao và có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: xuất khẩu gạo đạt kim
ngạch 4,4 tỉ USD; cà phê 2,6 tỉ USD, cao su 2,2 tỉ USD, thủy sản 11,2 tỉ USD
trong 5 năm 2001- 2005.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm gia tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của
đất nước nhờ phát huy những lợi thế so sánh của từng ngành, vùng và sự chuyển
dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu một cách có hiệu quả. Kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam tăng nhanh cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:

Bảng 3. Kim ngạch xuất khẩu từ 2000 – 2009
Năm 2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009
14


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

(Dự
kiến)
Kim
ngạch xuất
khẩu


(tỷ

14,5

15

16,7

20,1

26,5

32,4

39,6

48

62,2

56

USD)

1.1.2 Cơ cấu nội bộ các khu vực ngành kinh tế
Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có
nhiều bước tiến bộ, đi đúng hướng, đã khai thác được lợi thế cây, con và vùng
lãnh thổ, góp phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Trong khi giá trị
tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp trong

GDP ngày càng giảm (xem bảng). Trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản
xuất trong lĩnh vực chăn nuôi tăng từ 19,3% (năm 2000) lên đến 21,6% (năm
2004) và 23,4% (năm 2005); còn tỷ trọng trong trồng trọt lại giảm từ 78,2%
(năm 2000) xuống còn 75,4% (năm 2003), nhưng tăng nhẹ tới 76,3% (năm
2004) và 74,5% (năm 2005). Điều đó thể hiện, nông nghiệp của nước ta đã từng
bước phát triển theo một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt diện tích trồng lúa
giảm dần để tăng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn (như cây
công nghiệp ngắn ngày: bông, mía, đậu tương..., cây công nghiệp lâu năm: chè,
cao su, hạt tiêu, cây ăn quả...), song vẫn bảo đảm được an ninh lương thực quốc
gia và tăng xuất khẩu gạo một cách đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu
cây trồng trong nông nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và
có hiệu quả hơn.
Đặc biệt thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và
Nhà nước, những năm gần đây đã có sự chuyển mạnh một phần diện tích trồng
lúa có năng suất, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản (tập trung nhiều ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải Nam Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần
tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống cho nông
dân.
15


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch khá, nhất là giai đoạn từ năm 1998
đến nay. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 32,08% GDP (năm
1997) lên tới 36,73% (năm 2000) và 41,0% (năm 2005). Trong ngành công
nghiệp sự tăng nhanh của tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến (từ 78,7% năm
2000 lên tới 81,23% năm 2004 tính theo giá thực tế) và sự giảm tỷ trọng của
công nghiệp khai thác mỏ (từ 15,7% xuống còn 12,8%), tăng tỷ trọng của công
nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước (từ 5,6% lên 5,9%) trong thời kỳ

tương ứng đã phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu đúng hướng. Nếu xét theo tiêu
thức công nghệ, càng thấy rõ hơn xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong ngành
công nghiệp những năm qua là tích cực, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Bởi, các ngành công nghiệp có
công nghệ cao ngày càng được mở rộng và phát triển nhanh, tạo ra những sản
phẩm tiêu dùng có giá trị cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một nâng lên ở
trong nước và tham gia xuất khẩu, như ô-tô, sản phẩm điện tử, tàu thủy... Các
ngành có trình độ công nghệ trung bình và thấp phát triển ở tốc độ trung bình và
thấp để sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng chưa quá khắt khe của
thị trường trong nước, cũng như nhằm duy trì cung cấp những sản phẩm thông
thường thiết yếu cho nhân dân.
Trong lĩnh vực dịch vụ, đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất và
lượng, nhất là từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Tuy nhiên, tốc độ tăng
trưởng của lĩnh vực này lại không đều qua các thời kỳ khác nhau, thể hiện nổi
bật qua việc tăng nhanh của ngành dịch vụ trong thời kỳ 1990 - 1995, sau đó
liên tục bị giảm sút và chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong một vài năm gần đây.
Điều đó khiến tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP, sau khi tăng tương đối
mạnh trong thời kỳ 1990 - 1995 (năm 1995 đạt 44,06%) đã liên tục bị giảm: năm
1996 còn 42,51%; năm 1997 còn 42,15%; năm 1998 còn 41,73%; năm 1999 còn
40,08% và năm 2005 còn 38,1%. Điều đáng lo ngại là tỷ trọng của một số ngành
dịch vụ quan trọng trong cơ cấu của lĩnh vực dịch vụ và trong cơ cấu GDP còn
thấp như ngành tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ, vận tải, viễn thông,
dịch vụ kinh doanh. Và, mặc dù đã xuất hiện một số ngành dịch vụ mới trong
16


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

lĩnh vực dịch vụ, nhưng nhìn chung tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu
nền kinh tế của nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, biểu hiện

một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa hiệu quả và theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, nếu đánh giá khách quan thì rõ ràng quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế của nước ta hiện nay vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Nếu nhìn nhận
ở khía cạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng phát triển xuất khẩu,
thì tỷ trọng của ngành nông - lâm - thủy sản còn chiếm cao trong GDP của đất
nước. Đây là ngành mà sản xuất phải phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, bị
giới hạn bởi năng suất, diện tích, khả năng khai thác, giá cả sản phẩm lại chịu
nhiều tác động của sự biến động lên xuống trên thị trường thế giới và có xu
hướng giảm theo giá "cánh kéo" với hàng công nghiệp, do đó giá trị kim ngạch
xuất khẩu của hàng nông sản sẽ không cao và không ổn định. Chưa kể, tỷ trọng
của ngành chăn nuôi trong nông nghiệp cũng thấp và chưa có dấu hiệu phát triển
trong những năm tới. Đồng thời, tỷ trọng của ngành công nghiệp chưa cao, đặc
biệt là ngành công nghiệp chế tạo. Sự đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu của
ngành công nghiệp một số năm qua mới chủ yếu là do phát triển các ngành công
nghiệp lắp ráp, gia công như lắp ráp ô-tô, xe máy, dệt may, giày dép, là những
ngành chủ yếu "lấy công làm lãi", nguồn nguyên liệu bị phụ thuộc vào thị
trường nước ngoài. Tỷ trọng công nghiệp chế biến của nước ta còn nhỏ (tỷ lệ
sản phẩm chế biến trong cơ cấu xuất khẩu chỉ tăng khoảng 1,5%/năm), vì thế
kéo theo tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến sâu vẫn còn thấp, mới xuất
khẩu chủ yếu hàng thô, sơ chế, làm hạn chế giá trị gia tăng của sản phẩm và kim
ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng thấp của ngành dịch vụ trong GDP và rất thấp trong
tổng kim ngạch xuất khẩu (13,4% tổng kim ngạch xuất khẩu - dưới mức trung
bình của thế giới là 20,0%) càng cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của nước ta chưa có khả năng tạo ra sự chuyển biến mạnh trong xuất
khẩu của đất nước. Ngoài ra, năng lực cạnh tranh yếu của nhiều mặt hàng cũng
như sản phẩm dịch vụ đã hạn chế và làm cho sự phát triển xuất khẩu trở nên
không vững chắc.
1.2 Cơ cấu lao động
17



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Cơ cấu lao động là một phần trong cơ cấu kinh tế ngành.Cơ cấu lao động
đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Do tỷ trọng của ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ tăng dần từng năm vì
vậy cơ cấu lao động có sự thay đổi. Lao động trong các ngành dịch vụ và công
nghiệp xây dựng tăng lên. Tỷ trọng lao động của các ngành công nghiệp và xây
dựng trong tổng số lao động xã hội tăng từ 12,1%năm 2000 lên 17,9% năm
2005; lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%; lao động
trong các ngành nông lâm, thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%. Đến năm
2010 Việt Nam sẽ cố gắng đưa Tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ còn khoảng
50%.Đặc biệt Nghị quyết của Đảng đến năm 2020, Việt Nam cơ bản thành nước
công nghiệp hoá. Tiêu chí của nước công nghiệp là gì? Rõ ràng là lao động nông
thôn dưới 20%.
Bảng 1: có cấu lao động theo nhóm kinh tế %
Năm

Tổng số

Nông

lâm, Công nghiệp Dịch vụ

thủy sản
xây dựng
1990
100
73,00
11,20

1995
100
71,30
11,40
2000
100
65,10
13,10
2005
100
57,20
18,20
2006
100
55,20
19,20
2007
100
53,90
20
2008
100
52,50
20,30
Nguồn: thời báo kinh tế năm 2008 -2009

15,80
17,30
21,80
24,60

25,60
26,10
26,70

Như vậy cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng
tích cực trong tổng số lao động tăng thêm tufw1990 đến năm 2008 (15.624,9
nghìn người ). Nhóm Nông lâm thủy sản đã thu hút thêm 2,148 nghìn người.
Chiếm 13,8% tổng số tăng. Nhóm ngành công nghiệp đã thu hút thêm 6079,8
nghìn người, chiếm 38,9% tổng số tăng. Nhóm nghành dịch vụ đã thu hút thêm
7396,4 nghìn người chiếm 47,3% tổng số tăng. Nhóm ngành dịch vụ tăng nhiều
nhất. Sau đó đến công nghiệp xây dựng. Do năng xuất lao động của nhóm ngành
công nghiệp xây dựng (62924 đông/ người) nên con đường chuyển dịch lao
18


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

động cơ cấu theo ngành tăng và dịch (46849 đồng/người) cao hơn nhóm ngành
nông, lâm, thủy sản. Do vậy, cơ cấu lao động sẽ dịch chuyển theo con đường
nào mà năng xuất lao động chung và con đường giảm thiểu mức sống dân cư,
giảm tỷ lệ nghèo cao.
Hiện nay do khu vực kinh tế nhà nước hiệu quả kinh doanh cũng như
đóng góp vào GDP còn thấp. Mặt khác do lương của khu vực kinh tế nhà nước
còn thấp. Vì vậy có sự chảy máu chất xám từ nhà nước sang khu vực kinh tế
ngoài nhà nước. Thời điểm 31/12/2000 cục thống kê TP HCM đã có cuộc điều
tra về cơ cấu lao động
BẢNG CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO KHU VỰC
Chia ra
Tổng số


Tổng số
Phân theo ngành kinh tế
A. Nông nghiệp và Lâm nghiệp
B. Thủy sản
C. Công nghiệp khai thác mỏ
D. Công nghiệp chế biến
E. SX và PP điện, khí đốt, nước
F. Xây dựng
G. Thương nghiệp
H. Khách sạn và Nhà hàng
I. Vận tải, Kho bãi và Thông tin

Nhà nước

100,00

100,00

0,43
0,04
0,17
60,29
2,16
10,14
11,99
2,44
8,11

0,93
0,03

0,26
49,14
4,87
15,34
15,32
2,48
7,34

liên lạc
J. Tài chính, tín dụng
0,75
K. Hoạt động khoa học và công 0,01
nghệ
L. Kinh doanh tài sản và dịch 2,18
vụ tư vấn
N. Giáo dục và Đào tạo
0,08
O. Y tế và hoạt động cứu trợ xã 0,05

Ngoài
Nhà nước
100,00

0,08
0,15
56,85
9,52
14,48
2,18
12,78


Có vốn đầu


nước

ngoài
100,00
0,13
0,01
88,82
0,33
0,61
1,00
2,78
1,72

0,66

0,83
0,02

0,81

1,90

2,26

2,60


0,04
0,11

0,33
0,06
19


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

hội
P. Hoạt động văn hoá và thể
thao
0,44
T. Phục vụ cá nhân và công

0,46

0,29

0,67

cộng

1,27

0,41

0,13


0,72

Nguồn: tổng cục thống kê TP
HCM 2005

(Nguồn: thời báo kt vn 2008 – 2009)
20


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Trong tổng số lao động tăng thêm của toàn bộ nền kt 15624,9 nghìn người
trong thời kỳ 1990-2008 thì khu vực nn tăng thêm 657,7 nghìn người chiếm
4,2% tổng số tăng thêm khu vực ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài tăng
thêm 14967,2 nghìn người chiếm 42,9% tổng số tăng thêm. Do vậy cơ cấu lao
động hiện nay có sự chuyển dịch. Xét riêng trong các loại hình doanh nghiệp
tổng số lao động tính đến năm 2007 la 6715,2 nghìn người, tăng 89,9% so với
năm 2000. Bình quân 11,9%- cao gấp nhiều lần của toàn nền kinh tế quốc dân
trong thời gian tương ứng. Về số tuyện đối, tổng số lao động trong các doanh
nghiệp tăng 3128,5 nghìn người. Trong đó doanh nghiệp nn giảm 188,6 nghìn
người. doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 2329 nghìn người chiếm 73% tổng số
tăng. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1037 nghìn người chiếm
32,7% tổng số tăng. Như vậy doanh nghiệp ngoài nhà nước và vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp tích cực vào việc thu hút lao động.
Lao động hiện nay không chỉ số lượng mà còn chất lượng. Hiện nay các
trường đại học cao đẳng chuyên nghiệp với số lượng các trường ngày càng tăng
vì vậy tỷ trọng lao động đã qua đào tạo tăng từ 20% năm 2000 lên 25% năm
2005.Tuy nhiên theo thống kê của Bộ LĐ-TB-XH, Năm 2005 có đến 74,7% lực
lượng lao động chưa qua đào tạo; còn số lao động đã qua đào tạo cũng không
hoàn toàn giỏi nghề. Chính vì vậy, năng suất của lao động VN kém lao động các

nước trong khu vực ASEAN từ 2 đến 15 lần. Chất lượng nguồn nhân lực của
VN năm 2008 mới chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12
nước châu Á tham gia xếp hạng, theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế giới
(WB). 1 nghiên cứu khác cho thấy lao động VN chỉ đạt 32/100 điểm. Trong khi
đó, những nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất
sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

21


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

II. Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu và hạn chế của quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ đổi mới vừa qua
2.1 Nguyên nhân chủ yếu của những thành tựu chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
Có thể có nhiều cách phân loại các nguyên nhân góp phần thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời gian qua. Như đã nêu ở trên,
những thành tựu nổi bật về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian qua chủ
yếu biểu hiện qua chỉ tiêu cơ cấu GDP với sự gia tăng đều đặn tỷ trọng tỷ trọng
các khu vực phi nông nghiệp, đồng thời với mức suy giảm tương ứng của tỷ
trọng của khu vực nông nghiệp trong khi về giá trị tuyệt đối, quy mô của khu
vực nông nghiệp vẫn tăng lên. Đóng góp vào thành tựu này có thể kể đến những
nhân tố sau:
a)

Nguyên nhân khách quan

- Thứ nhất, rút kinh nghiệm từ bài học không thành công trong quá khứ về
phân bổ nguồn lực phát triển, vấn đề công nghiệp hóa nói chung và chuyển dịch

cơ cấu ngành kinh tế nói riêng được nhìn nhận lại theo tinh thần đổi mới tư duy
kinh tế.
Chúng ta đều biết, Việt Nam cũng như các nước thuộc hệ thống XHCN
(cũ) đã có một thời kỳ dài theo đuổi mô hình công nghiệp hóa XHCN theo
phương châm chủ đạo chung là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Đồng thời,
trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mọi nguồn lực phát triển của nền kinh tế
hầu như nằm trong khu vực công hữu (sở hữu quốc doanh và sở hữu tập thể),
nên ưu tiên phát triển công nghiệp nặng cũng đồng nghĩa với ưu tiên cho riêng
khu vực công nghiệp quốc doanh. Những nghiên cứu phân tích về hệ thống
XHCN (cũ) đều thống nhất cho rằng, cả hai đặc điểm này đã là những nguyên
nhân căn bản nhất, trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế nói riêng
và khủng hoảng kinh tế - xã hội mang tính toàn hệ thống nói chung. Đầu thập kỷ
1990, sự sụp đổ của hệ thống XHCN (cũ) đã đem lại bài học, bắt buộc phải nhìn
nhận lại vấn đề về cách tiếp cận mô hình công nghiệp hóa cũng như việc phân
bổ các nguồn lực phát triển và chuyển dich cơ cấu ngành kinh tế kém phát triển,
bước vào quá trình công nghiệp hóa muộn như Việt Nam, ít nhất có hai bài học
22


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

quan trọng được rút ra từ thất bại của kiểu công nghiệp hóa trong cơ chế kế
hoạch hóa tập trung là:
+ Nhận thức về quá trình tái sản xuất mở rộng với quy luật “ các ngành
sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất, sau đó đến
sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu tiêu dùng; và chậm nhất là sự phát
triển của sản xuất tư liệu tiêu dùng” (V.I Lenin- Toàn tập, tập1 NXB Tiến bộ,
Matxcova, 1976, tr 98). Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, không phải chỉ
xem xét bó hẹp trong phạm vi mỗi nền kinh tế quốc gia; mà còn trong những
điều kiện cụ thể, nền kinh tế mang tính toàn cầu trong sự phân công lao động

quốc tế.
+ Đối với mỗi nền kinh tế quốc gia, nhất là với nhưng nền kinh tế còn
kém phát triển, không thể tập trung mọi nguồn lực hiện có của đất nước để ưu
tiên phát triển riêng ngành công nghiệp nặng mà không chú ý đến các ngành
kinh tế khác. Bởi vì, thực tế cho thấy rằng trong lúc nguồn vốn tích lũy cho công
nghiệp hóa còn rất thiếu, sản xuất chưa đủ tiêu dùng, mà dồn mọi nguồn lực sẵn
có cho công nghiệp nặng thì các khu vực sản xuất khác sẽ không có điều kiện
phát triển. Công nghiệp nặng với đặc điểm cần lượng vốn đầu tư lớn, thời gian
hoàn vốn dài…., đã hạn chế khả năng khắc phục những thiếu thốn trước mắt về
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu.
Hướng đổi mới cách tiếp cận chuyển dịch cơ cấu để thực hiện công
nghiệp hóa trên thực tế đã có nhóm NIEs thành công với mô hình công nghiệp
hóa hướng về xuất khẩu trong sự đối lập với mô hình công nghiệp hóa thay thế
hàng nhập khẩu đã tỏ ra không có triển vọng xét về dài hạn.
b)

Nguyên nhân chủ quan

Nước ta đã có sự đổi mới về chính sách cơ cấu, ngày càng phù hợp hơn
với tình hình thực tế, nên đã có tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa.
-

Những chính sách điều chỉnh cơ cấu đầu tư, phân bổ lại nguồn lực

của nền kinh tế nói chung và nguồn vốn ngân sách nói riêng đã có tác dụng làm
giảm bớt mức độ căng thẳng do chủ trương tập trung ưu tiên phát triển công
23



Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

nghiệp nặng quá sức chịu đựng của nền kinh tế gây ra. Thật vậy, từ năm 1980,
sự điều chỉnh chính sách cơ cấu được đánh dấu bằng chủ trương coi nông
nghiệp là “mặt trận hàng đầu”. Và sau đó là “ba chương trình mục tiêu về lương
thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. Quyết sách về sự điều
chỉnh cơ cấu này không chỉ có ý nghĩa thực tế to lớn là giảm sự bất cân bằng
trong các mối quan hệ kinh tế vĩ mô cơ bản như tích lũy – tiêu dùng, xuất khẩu –
nhập khẩu,…; mà điều không kém phần quan trọng trong bối cảnh nhận thức lý
luận lúc đó là phá vỡ tư tưởng giáo điều, để từ đó đi một bước ngoặt quyết định
trong tư duy đổi mới toàn diện nền kinh tế theo hướng thị trường mở cửa.
-

Cùng với sự điều chỉnh cơ cấu đầu tư là các chính sách khuyến

khích sự phát triển một nền kinh tế đa hình thức sở hữu, trong đó có mốc đặc
biệt quan trọng là:
+ Khoán sản phẩm trong nông nghiệp, coi nông hộ là đơn vị kinh tế cơ
bản (Chỉ thị 100/CT năm 1981 và Nghị quyết 10- BTC năm 1988) đã huy động
được nguồn lực to lớn của nông dân đầu tư vào phát triển sản xuất nông nghiệp.
Kết quả là nông nghiệp từ chỗ sản xuất không đủ lương thực tiêu dùng đã nhanh
chóng trở thành một trong số nhưng quốc gia có lượng gạo xuất khẩu hàng đầu
thế giới.
+ Ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 ( và đến nay đã 3 lần sửa
đổi vào các năm 1992, 1996 và 2000), đã thu hút được một nguồn vốn đầu tư rất
quan trọng từ bên ngoài (bình quân chiến 20-25% tổng đầu tư xã hội). Chủ yếu
tập trung vào phát triển các lĩnh vực công nghiệp chế biến và một số lĩnh vực
công nghiệp chế biến và một số lĩnh vực dịch vụ có công nghiệp hiện đại. Sự
hiện diện của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã làm thay đổi
đáng kể diện mạo của khu vực công nghiệp và dịch vụ, hiện đang tạo ra chừng

hơn 10%GDP, hơn 50% giá trị xuất khẩu, có đóng góp vào việc tạo việc làm với
mức lương khá cao so với mặt bằng chung, vào ngân sách, vào việc du nhập
công nghệ kỹ thuật và quản lý hiện đại, vào việc tạo ra một nền kinh tế ngày
càng có tính cạnh tranh hơn.

24


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

+ Ban hành Luật doanh nghiệp (1999) và Luật khuyến khích đầu tư trong
nước (năm 1994) đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh ở trong nước đối với các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và
dịch vụ. Kể từ năm 2000, số lượng doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài Nhà nước
mới đăng ký liên tục tăng lên. Tính đến hết tháng 6/2005 đã có gần 140 nghìn
doanh nghiệp mới đăng ký trong 9 năm, từ năm 1991-1999 có khoảng 40.000
doanh nghiệp đăng ký; đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký của khu vực tư nhân ở
nước ta lên khoảng 180 nghìn doanh nghiệp tư nhân. Số doanh nghiệp mới đăng
ký trong thời gian 2000-6/2005 cao gấp 3,5 lần so với 9 năm trước (1991-1999).
Những điều chỉnh chính sách nêu trên (cùng với nhiều chính sách cụ thể
theo tinh thần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường), đã tạo ra một
môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện và các nguồn lực đã có điều
kiện tốt hơn để hướng vào những lĩnh vực có lợi thế của nền kinh tế.
2.2 Nguyên nhân của những mặt hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế

Thứ nhất , tuy cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô trong GPD đã có những
thay đổi và tỏ ra không khác nhiều lắm so với cơ cấu ngành kinh tế vĩ mô của
một số nền kinh tế có trình độ công nghiệp cao hơn, nhưng nếu phân tích sâu
hơn các khía cạnh phản ánh chất lượng của chúng như tỷ trọng các sản phẩm

công nghiệp chế biến, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, tỷ trọng các
lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ
xuất khẩu có giá trị gia tăng cao …thì thấy rằng, phía sau quan hệ tỷ lệ phản ánh
cơ cấungành kinh tế vĩ mô có nhiều tiến bộ, vẫn còn ẩn chứa nhiều nhân tố chưa
đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.


Thứ hai, mặt hạn chế đặc biệt đáng lo ngại cơ cấu lao động có quá

ít sự thay đổi. Phần lớn lao động tăng thêm vẫn còn nằm lại trong khu vực nông
nghiệp năng suất thập và nguồn lao động vẫn chủ yếu là lao động phổ thông,
không có nhiều cơ hội để tự thực hiện sự chuyển đổi một cách linh động.
Những hạn chế này chứng tỏ những chính sách công nghiệp hóa nói
chung và điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói chung và điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói
25


×