Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nghiên cứu tính phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng tại việt nam giai đoạn 1986 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỐ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ HOÀI LINH

NGHIÊN CỨU TÍNH PHI TUYẾN
GIỮA LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2014
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Thị Minh Hằng

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH
TÓM TẮT .............................................................................................................. 1
TỔNG QUAN ........................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ . 5
1.1. Lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng ............................................................ 5
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế ............................................................................. 5
1.1.2. Lạm phát .............................................................................................. 8


1.1.3. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng ......................................... 10
1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đó ......................................................... 14
1.2.1.
1.2.2.

Các nghiên cứu ngoài nước ................................................................ 14
Các nghiên cứu trong nước ................................................................ 17

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT
NAM
.................................................................................................... 19
2.1. Sơ lược về tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam từ năm 1980 đến năm 2014. ..
................................................................................................................... 19
2.1.1. Giai đoạn bắt đầu công cuộc cải cách và khủng hoảng trầm trọng
(1980-1990) .................................................................................................... 19
2.1.2. Giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ (1991-2006) ..................... 21
2.1.3. Giai đoạn khủng hoảng và phục hồi dần (2007 - 2013) ...................... 24
2.1.4. Tình hình kinh tế trong năm vừa qua - 2014....................................... 26
2.2. Các nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam .......................................... 28
CHƯƠNG 3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU32
3.1. Tổng quan cơ sở kinh tế lượng .................................................................... 32
3.1.1.
3.1.2.

Tính dừng của chuỗi thời gian............................................................ 32
Kiểm định quan hệ nhân quả Granger. ............................................... 34


3.1.3. Mô hình hồi quy tuyến tính gãy khúc (SPLINE) ................................ 35
3.1.4. Hiện tượng đa cộng tuyến (Multicollinearity) .................................... 37

3.1.5. Hiện tượng tự tương quan (Autocorrelation) ...................................... 38
3.2. Mô hình nghiên cứu thực nghiệm, dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. ...... 39
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.

Mô hình thực nghiệm ......................................................................... 39
Dữ liệu và các biến trong mô hình ..................................................... 41
Quy trình nghiên cứu ......................................................................... 44

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KẾT LUẬN ................................ 45
4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị............................................................................ 45
4.2. Kiểm định quan hệ nhân quả Granger ......................................................... 47
4.3. Kết quả hồi quy ngưỡng lạm phát ............................................................... 51
4.3.1. Xác định dãy giá trị của 𝒌 .................................................................. 51
4.3.2. Ước lượng mô hình ngưỡng lạm phát................................................. 53
4.4. Thảo luận kết quả và hàm ý chính sách ....................................................... 58
4.5. Kiến nghị chính sách ................................................................................... 59
4.6. Hạn chế của đề tài ....................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

OLS

Phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least
Squares)


GDP

Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products)

TCTK

Tổng cục thống kê Việt Nam

NGTK TT

Niên giám thống kê tóm tắt

CPI

Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index)

WDI

Chỉ số phát triển thế giới (World Development Indicators)

ADF

Kiểm định Augmented Dickey-Fuller

PP

Kiểm định Phillips-Perron


DANH MỤC BẢNG BIẺU

Trang
Bảng 2.1. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá
hiện hành phân theo thành phần kinh tế.

30

Bảng 2.2. Chỉ số ICOR qua các giai đoạn (Nguồn: Trương Minh
Tuấn, 2013)

30

Bảng 3.1. Mô tả thống kê của các biến tham gia vào mô hình

43

Bảng 3.2. Hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình

44

Bảng 4.1. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị (tính dừng) bằng
phương pháp ADF

45

Bảng 4.2. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị (tính dừng) bằng
phương pháp PP

46

Bảng 4.3. Kết quả lựa chọn độ trễ tối ưu của mô hình VAR


48

Bảng 4.4. Kết quả kiểm định tự tương quan của phần dư mô hình
VAR

48

Bảng 4.5. Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger

50

Bảng 4.6. Tổng hợp sơ lược các kết quả nghiên cứu về ngưỡng
lạm phát

52

Bảng 4.7. Ước lượng OLS với k chạy từ 5 đến 13%

53


DANH MỤC HÌNH
Trang
Hình 1.1. Mô hình tổng cung và tổng cầu theo lý thuyết Keynes

13

Hình 2.1. Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1980-1985


19

Hình 2.2. Lạm phát và tăng trưởng GDP hàng năm ở Việt Nam giai
đoạn 1985 – 1990

21

Hình 2.3. Lạm phát và tăng trưởng GDP hàng năm ở Việt Nam giai
đoạn 1991– 1995

22

Hình 2.4. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1996– 2006

23

Hình 2.5. Tăng trưởng GDP hàng năm ở Việt Nam giai đoạn 1996–
2006

23

Hình 2.6. Lạm phát và tăng trưởng GDP hàng năm ở Việt Nam giai
đoạn 2007-2013

24

Hình 2.7. Cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế năm 2014 (tính
theo giá hiện hành)

27


Hình 2.8. Cơ cấu GDP phân theo khu vực kinh tế năm 2014 (tính theo
giá hiện hành)

27

Hình 2.9. Tỷ lệ lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 1990-2014

28

Hình 2.10. Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn
1990-2014

32

Hình 3.1. Mối quan hệ giả thiết giữa (Yt ) và (X t )

36

Hình 3.2. Tham số của hồi quy tuyến tính từng khúc

37

Hình 4.1. Kiểm định tính ổn định của mô hình VAR bằng vòng tròn
đơn vị

49

Hình 4.2. Biểu đồ phân phối của biến lạm phát


51


1

TÓM TẮT
Gần đây có rất nhiều quốc gia áp dụng chính sách tiền tệ với một tỷ lệ lạm phát mục
tiêu cụ thể để điều chỉnh độ lệch của lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ khi
ngưỡng lạm phát được xác định thì những quốc gia này mới có thể đề xuất một tỷ lệ
lạm phát mục tiêu chính xác. Bài nghiên cứu cung cấp một bằng chứng thực nghiệm
về tác động phi tuyến của lạm phát lên tăng trưởng kinh tế trong dài hạn ở Việt
Nam, một trong những quốc gia đang phát triển ở Châu Á. Sử dụng dữ liệu chuỗi
thời gian hàng năm trong khoảng thời gian từ 1986-2014, kết quả nghiên cứu tìm ra
mức ngưỡng lạm phát ở Việt Nam là 11% và tại mức ngưỡng này quan hệ lạm phát
– tăng trưởng chuyển từ đồng biến sang nghịch biến.


2

TỔNG QUAN
Giới thiệu
Tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp là những mục tiêu quan trọng nhất của
chính sách kinh tế vĩ mô tại các quốc gia đang phát triển. Theo lý thuyết kinh tế vĩ
mô hiện đại, một quốc gia cần kết hợp hài hòa giữa tăng trưởngcao và tỷ lệ lạm phát
vừa phải cũng như tỷ lệ thất nghiệp hợp lý để đạt được tăng trưởng bền vững. Đặc
biệt, cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây nhất vào năm 2008 – năm của lạm phát tăng
cao và đi kèm là sự giảm mạnh trong tỷ lệ tăng trưởng, đã chứng tỏ mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với hầu
hết các quốc gia. Đề tài Lạm phát – tăng trưởng tiếp tục thu hút sự chú ý của các
nhà kinh tế cũng như các nhà nghiên cứu.

Các nghiên cứu trước chỉ ra rằng lạm phát có tác động ngược chiều lên tăng trưởng
kinh tế trong trung và dài hạn. Mặt khác, cũng có những nghiên cứu nói rằng mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là cùng chiều. Trong những thập niên gần
đây, một vài nghiên cứu thực nghiệm đã xác định mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng trong dài hạn là phi tuyến. Tức là, lạm phát thấp, hoặc là không tác
động đến tăng trưởng, hoặc là sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại lạm phát
cao sẽ làm chậm quá trình tăng trưởng. Bài nghiên cứu của nhóm tác giả Trần
Hoàng Ngân và cộng sự (2013) cho rằng nếu lạm phát ở Việt Nam dao động từ 57% hoặc thấp hơn sẽ dẫn đến một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Ngược lại, lạm
phát cao hơn ngưỡng sẽ dẫn đến một sự mất ổn định kinh tế và suy giảm mạnh
trong tăng trưởng. Nói cách khác, tỷ lệ lạm phát cao sẽ gây bất lợi cho tăng trưởng
kinh tế.Vậy, mức lạm phát nào là phù hợp cho một nền kinh tế? Câu trả lời là khác
nhau giữa các quốc gia do sự khác nhau về đặc điểm của từng quốc gia. Ở mỗi quốc
gia, tồn tại một điểm ngưỡng mà tại đó mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng sẽ
chuyển từ tương quan dương sang tương quan âm. Chính vì vậy, các nhà hoạch định
chính sách cần phải xác định một tỉ lệ lạm phát tối ưu để làm cơ sở cho việc điều
chỉnh các chính sách sao cho thích hợp.


3

Mục tiêu nghiên cứu
Nếu một mối quan hệ phi tuyến được tìm thấy thì tức là tồn tại một mức ngưỡng
lạm phát mà tại đó mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng sẽđổi chiềutừ dương
sang âm. Do đó, bài nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục tiêu sau đây:
(1) Kiểm định sự tồn tại của ngưỡng lạm phát trong mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
(2) Rút ra một hàm ý chính sách nhằm ổn định tỷ lệ lạm phát sao cho có lợi cho sự
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Bài luận văn này tập trung vào việc phân tích mối quan hệ giữa lạm phát và tăng

trưởng ở Việt Nam trong khoảng thời gian 1986-2014, chủ yếu sẽ đi vào trả lời hai
câu hỏi sau:
 Tồn tại hay không ngưỡng lạm phát tại Việt Nam?
 Hàm ý chính sách trong việc kiểm soát và sử dụng lạm phát sao cho tối ưu
để thúc đẩy tăng trưởng?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng tại Việt
Nam trong khoảng thời gian từ 1986 đến 2014.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở mô hình ngưỡng được phát triển bởi Khan và Senhadji (2001), bài luận
văn này kiểm tra sự tồn tại của ngưỡng lạm phát tại Việt Nam bằng phương pháp
OLS (Ordinary Least Squares) với dữ liệu chuỗi thời gian hằng năm gồm 29 quan
sát (1986-2014). Mô hình này đã được áp dụng trong bài nghiên cứu về ngưỡng lạm
phát tại Nigeria của Salami và Kelikume (2010); Hussain và Malik (2011) và
Mubarik (2005) cho trường hợp ở Pakistan.


4

Ý nghĩa nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu mang một hàm ý chính sách quan trọng liên quan đến mối quan
hệ giữa lạm phát và tăng trưởng, cung cấp một bằng chứng thực nghiệm về sự tồn
tại của ngưỡng lạm pháttại Việt Nam từ đó giúp cho các nhà hoạch định chính sách
có thêm cơ sở để quản lý mức lạm phát sao cho không tổn hại đến tăng trưởng của
nền kinh tế.
Theo đó, cấu trúc của bài nghiên cứu bao gồm các chương như sau:
Chương 1: Lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Chương 2: Tổng quan về lạm phát và tăng trưởng ở Việt Nam
Chương 3: Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và kết luận



5

CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT VỀ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Chương 1 đề cập đến cơ sở lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng kinh tế gồm các
khái niệm và phương thức đo lường. Đồng thời trình bày những lý thuyết quan
trọng liên quan đến mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng cũng như sơ lược các
kết quả nghiên cứu thực nghiệm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
1.1. Lý thuyết về lạm phát và tăng trưởng
1.1.1.

Tăng trưởng kinh tế

1.1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Theo Ngân hàng thế giới, tăng trưởng kinh tế là khái niệm mang tính định lượng chỉ
sự thay đổi về số lượng hoặc sự mở rộng quy mô kinh tế của một quốc gia. Tăng
trưởng kinh tế thông thường được đo lường bằng sự gia tăng tỷ lệ phần trăm của
tổng sản phẩm nội địa hoặc tổng sản lượng quốc gia trong một năm. Một nền kinh
tế có thể tăng trưởng dưới hai hình thức:tăng trưởng theo chiều rộng bằng cách sử
dụng nhiều nguồn lực hơn (vật chất, con người, hoặc tài nguyên thiên nhiên); hoặc
tăng trưởng theo chiều sâu bằng cách sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn. Nếu tăng
trưởng kinh tế đạt được bằng cách sử dụng nhiều lao động hơn, thì kết quả sẽ không
dẫn đến tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Nhưng nếu tăng trưởng đạt
được thông qua việc sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực, bao gồm cả lao động, kết
quả đạt được sẽ là sự cao hơn về mức thu nhập và sự cải thiện mức sống trung bình
của con người.
1.1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Từ định nghĩa ta có thể thấy được trọng tâm của việc nghiên cứu về tăng trưởng là
những thay đổi về thu nhập quốc dân. Có hai chỉ số cơ bản của thu nhập quốc dân

thường được sử dụng phổ biến, đó là Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP).
GNP là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ sau cùng được sản xuất ra trong xã hội
trong một thời gian nhất định, không bao gồm hàng hóa trung gian (hàng hóa được
sử dụng trong việc sản xuất ra các hàng hóa khác), được sản xuất bởi công dân của


6

một nước tức là bao gồm cả giá trị hàng hóa, dịch vụ được sản xuất bởi những công
dân sống ở nước ngoài. GDP cũng tương tự như GNP, chỉ khác ở chỗ GDP tính đến
toàn bộ sản lượng được sản xuất ra trong phạm vi của một quốc gia bao gồm luôn
cả sản lượng được sản xuất ra bởi những cư dân nước ngoài đang sinh sống và làm
việc tại quốc gia đó. Lấy GNP hoặc GDP chia cho tổng dân số, ta được chỉ số thu
nhập tính trên đầu người. Sự chênh lệch giữa GNP và GDP thường rất ít1, nhưng
theo dõi các hoạt động kinh tế nằm trong biên giới quốc gia sẽ dễ dàng hơn nên
GDP thường được dùng để đo lường thu nhập quốc dân hơn.
Mặt khác, để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối,
tức là chênh lệch về quy mô kinh tế giữa hai thời kỳ, hoặc dùng tốc độ tăng trưởng,
tức là lấy chênh lệch quy mô kinh tế giữa kỳ hiện tại so với kỳ trước chia cho quy
mô kinh tế của kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP danh nghĩa thì sẽ có tốc độ tăng trưởng
GDP danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP thực thì sẽ có tốc độ
tăng trưởng GDP thực. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực, nói
cách khác tăng trưởng kinh tế được phản ánh tốt hơn thông qua chỉ tiêu GDP thực.
Nếu dùng tốc độ tăng trưởng GDP để đại diện cho tăng trưởng kinh tế thì khi đó
tăng trưởng kinh tế sẽ được tính thông qua tăng trưởng GDP như sau:
Tăng trưởng kinh tế được đo lường bằng
mức tăng trưởng tuyệt đối
𝑔𝐺𝐷𝑃 = 𝐺𝐷𝑃𝑡 − 𝐺𝐷𝑃𝑡−1


Tăng trưởng kinh tế được đo lường bằng
tốc độ tăng trưởng
𝑔𝐺𝐷𝑃 =

𝐺𝐷𝑃𝑡 − 𝐺𝐷𝑃𝑡−1
× 100%
𝐺𝐷𝑃𝑡−1

Trong đó, 𝑔𝐺𝐷𝑃 : tăng trưởng kinh tế; 𝐺𝐷𝑃𝑡 : tổng sản phẩm nội địa kỳ t; 𝐺𝐷𝑃𝑡−1:
tổng sản phẩm nội địa kỳ t-1.

Theo Tổng cục Thống kê, GNP bằng GDP cộng chênh lệch giữa thu nhập của người lao động
Việt Nam ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước ngoài ở Việt Nam gửi ra nước ngoài
cộng với chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận được từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả nước
ngoài.
1


7

Như vậy, để có thể đo lường tăng trưởng kinh tế, cần thiết phải đo lường được GDP
theo từng thời kỳ của một quốc gia.
1.1.1.3. Phương pháp đo lường GDP
Tổng cục Thống kê (TCTK) định nghĩa tổng sản phẩm trong nước là giá trị mới
của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời
gian nhất định. Tổng sản phẩm trong nước được tính theo 2 giá: giá hiện hành và
giá so sánh. GDP tính theo giá hiện hành thường được dùng để nghiên cứu cơ cấu
kinh tế, mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong sản xuất, mối quan hệ giữa kết quả
sản xuất với phần huy động vào ngân sách. Còn GDP tính theo giá so sánh, do đã

loại trừ biến động của yếu tố giá cả qua các năm nên được dùng để tính tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế, nghiên cứu sự thay đổi về khối lượng hàng hóa và dịch vụ
sản xuất.
GDP cũng có thể được tính theo giá ngoại tệ (thường là đôla Mỹ - USD). Việc tính
toán theo giá này nhằm phục vụ cho các mục đích khác nhau, chủ yếu nhất vẫn là
dùng để so sánh GDP của các quốc gia với nhau. Mỗi quốc gia đều có đơn vị tiền tệ
riêng, nếu so sánh GDP của hai quốc gia khác nhau về đơn vị tiền tệ sẽ dẫn đến một
sự so sánh khập khiễng. Do đó, GDP tính theo giá ngoại tệ thường được sử dụng
khi muốn so sánh giữa hai hoặc nhiều quốc gia khác nhau.
Có 3 cách tiếp cận để đo lường GDP và theo nguyên tắc là tất cả sẽ cho ra cùng một
kết quả. Đó là phương pháp sản xuất, phương pháp thu nhập và phương pháp sử
dụng cuối cùng.
 Phương pháp sản xuất:
Tổng sản phẩm trong nước bằng tổng giá trị tăng thêm của tất cả các ngành kinh tế
cộng với thuế nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Giá trị tăng thêm là giá trị hàng hóa và dịch vụ mới sáng tạo ra của các ngành kinh
tế trong một thời kỳ nhất định. Giá trị tăng thêm là một bộ phận của giá trị sản xuất,
bằng chênh lệch giữa giá trị sản xuất và chi phí trung gian.


8

 Phương pháp thu nhập:
Tổng sản phẩm trong nước bằng thu nhập tạo nên từ các yếu tố tham gia vào quá
trình sản xuất như lao động, đất đai, vốn, máy móc. Theo phương pháp này, tổng
sản phẩm trong nước gồm 4 yếu tố:
-

Thu nhập của người lao động từ sản xuất (bằng tiền và hiện vật)


-

Thuế sản xuất

-

Khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất

-

Thặng dư sản xuất

 Phương pháp sử dụng cuối cùng:
Tổng sản phẩm trong nước bằng tổng của 3 yếu tố: tiêu dùng cuối cùng của hộ dân
cư và Nhà nước; tích lũy tài sản (cố định, lưu động và quý hiếm) và chênh lệch
xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Tiêu dùng cuối cùng là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi tiêu cho mua sắm hàng hóa và
dịch vụ tiêu dùng của hộ dân cư thường trú, của các tổ chức không vị lợi phục vụ hộ
dân cư thường trú và của Nhà nước trong một thời kỳ nhất định. Tiêu dùng cuối
cùng được chia theo nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng và thường được tách làm
hai phần: tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư và tiêu dùng cuối cùng của Nhà nước.
Tích lũy tài sản là chỉ tiêu cho đầu tư tài sản cố định, đầu tư tài sản lưu động và tài
sản quý hiếm trong một thời kỳ nhất định.
Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ là hiệu số của xuất khẩu hàng hóa,
dịch vụ trừ đi nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
bao gồm toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ được mua bán, trao đổi, chuyển
nhượng giữa các đơn vị, tổ chức, cá nhân dân cư là đơn vị thường trú của Việt Nam
với các đơn vị không thường trú (giữa các đơn vị thường trú của Việt Nam với nước
ngoài).
1.1.2.


Lạm phát

1.1.2.1. Khái niệm lạm phát


9

Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là hiện tượng mức giá cả chung tăng cao theo thời
gian hoặc sự gia tăng quá mức của lượng tiền lưu thông dẫn tới đồng tiền giảm
sức mua trong một khoảng thời gian nhất định. Về mặt tính toán, lạm phát là phần
trăm thay đổi của chỉ số giá chung trong nền kinh tế theo từng giai đoạn. Ngược lại
với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì
được gọi là sự "ổn định giá cả".
Các khái niệm kinh tế khác liên quan đến lạm phát bao gồm: giảm phát (sự sụt giảm
trong mức giá chung), thiểu phát (giảm tỷ lệ lạm phát), siêu lạm phát (một vòng
xoáy lạm phát ngoài tầm kiểm soát), tình trạng lạm phát (một sự kết hợp của lạm
phát, tăng trưởng kinh tế chậm và thất nghiệp cao) và tái lạm phát (một nỗ lực nâng
cao mức giá chung để chống lại áp lực giảm phát).
Trong các ấn phẩm Niên giám tóm tắt (NGTK TT) của TCTK có nhắc đến khái
niệm lạm phát cơ bản. Đây là chỉ tiêu phản ánh sự thay đổi mức giá chung mang
tính chất dài hạn, sau khi đã loại trừ những thay đổi mang tính chất ngẫu nhiên, tạm
thời của chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index – CPI). Lạm phát cơ bản này
được tính bằng CPI loại trừ các nhóm hàng lương thực – thực phẩm; năng lượng và
mặt hàng do Nhà nước quản lý gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục.
1.1.2.2. Đo lường lạm phát và CPI
Để đo lường lạm phát người ta sử dụng chỉ số giá cả để tính toán. Chỉ số giá cả là
tỷ lệ mức giá chung của tất cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế ở thời điểm
hiện tại so với mức giá chung của cùng một nhóm hàng ở thời điểm gốc. Thường
được sử dụng nhất là CPI. Tổng cục thống kê thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ

quan đo lường và cung cấp cho cả nước chỉ số giá tiêu dùng này.
Việc đo lường CPI lại phụ thuộc vào rổ hàng hóa tiêu dùng và năm được chọn làm
năm gốc. CPI được tính theo công thức Laspeyres như sau:
∑𝑛𝑖=1 𝑝𝑖𝑡 . 𝑞𝑖0
𝐶𝑃𝐼 = 𝑛 0 0 × 100%
∑𝑖=1 𝑝𝑖 . 𝑞𝑖
𝑡

Trong đó:


10

𝐶𝑃𝐼𝑡 : chỉ số giá tiêu dùng được đo tại thời điểm t
𝑝𝑖𝑡 : giá mặt hàng i tại thời điểm t
𝑝𝑖0 : giá mặt hàng i tại thời điểm gốc
𝑞𝑖0 : số lượng mặt hàng i tại thời điểm gốc
Ưu điểm của CPI là tính được lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào căn cứ vào rổ hàng
hóa. Tuy nhiên, do rổ hàng hóa và dịch vụ là cố định nên không phản ánh chính xác
sức mua của đồng tiền khi xuất hiện tác động của những hàng hóa mới. Thêm vào
đó, CPI chỉ thể hiện sự tăng giá chứ không thể hiện được sự thay đổi về chất lượng.
Khi giá hàng tăng thì người dân chuyển sang tiêu dùng hàng hóa thay thế rẻ hơn, do
đó sử dụng CPI có thể dẫn đến một dự báo lạm phát quá mức vì những mặt hàng
trong rổ đang tăng giá còn những mặt hàng ngoài rổ thì giảm giá.
Bên cạnh CPI, người ta còn đo lường lạm phát thông qua chỉ số giá tiêu dùng cơ
bản. Chỉ số giá tiêu dùng cơ bản này được tính toán hoàn toàn giống như CPI
nhưng loại bỏ hai nhóm hàng hóa là thực phẩm và năng lượng ra khỏi rổ hàng hóa
bởi vì giá cả của chúng nhạy cảm và thường xuyên biến động. Việc loại bỏ này
nhằm hạn chế sự sai lệch khi đo lường lạm phát. Ngoài ra, có thể sử dụng các chỉ số
giá khác như chỉ số điều chỉnh GDP, chỉ số giá sinh hoạt, chỉ số giá sản xuất và chỉ

số giảm phát GDP.
Nói tóm lại, tỷ lệ lạm phát được thể hiện thông qua tỷ lệ phần trăm mức tăng của
chỉ số giá cả ở thời điểm hiện tại so với chỉ số giá cả ở thời điểm gốc.
𝑇ỷ 𝑙ệ 𝑙ạ𝑚 𝑝ℎá𝑡 =
1.1.3.

𝐶𝑃𝐼𝑡 − 𝐶𝑃𝐼𝑡−1
× 100%
𝐶𝑃𝐼𝑡−1

Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng

Lạm phát được xem là chất bôi trơn cần thiết cho các bánh xe của nền kinh tế. Theo
lý thuyết tiền lương cứng nhắc và giá cả cứng nhắc, tỷ lệ lạm phát nhất định có thể
giúp thay đổi các mức giá tương ứng với những thay đổi của cơ cấu sản xuất trong
thời kỳ hiện đại hóa. Do đó lạm phát có liên quan tích cực với tăng trưởng.


11

Nhìn vào nền kinh tế của các nước đang phát triển, một số nhà kinh tế đã chỉ ra rằng
lạm phát góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế vì nó tạo ra tiết kiệm và đầu tư
thông qua một số kênh. Chính phủ của các nước đang phát triển đang phải đối mặt
với các khoản thu vào không đầy đủ, thường vay vốn từ ngân hàng Trung ương để
tài trợ cho thâm hụt ngân sách của họ. Khi đó, lạm phát được xem như là một loại
thuế đánh vào nền kinh tế. Nguồn thu từ loại thuế lạm phát này được chính phủ sử
dụng để tăng sự hình thành vốn đầu tư bằng cách tài trợ cho đầu tư thực; miễn là cơ
chế tài trợ này không lấn át khu vựcđầu tư tư nhân. Lúc này lạm phát góp phần kích
thích tăng trưởng kinh tế. Tiền lương danh nghĩa có một độ trễ so với giá cả (tức là
thay đổi chậm hơn giá cả) do kỳ vọng được điều chỉnhtừ từ, lương thay đổi chậm

chạp hoặc chính phủ áp đặt lương; kết quả là, lạm phát sau đó sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế bằng cách thay đổi phân phối thu nhập từ cá nhân sang người có vốn
tiết kiệm cao hơn và do đó tăng tiết kiệm, tăng đầu tư và tăng trưởng.
Các lý thuyết về tác hại của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn cho
rằng lạm phát càng cao nền kinh tế càng thiếu hiệu quả.
Lạm phát cao và biến động sẽ ảnh hưởng đến cơ chế truyền tín hiệu giá, kết quả là
gây nhầm lẫn thông tin về giá tương đối, làm biến dạng trong các quyết định đầu tư
dẫn đến cản trở sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực (Fischer, 1993; Khan và
Sendhadji, 2001). Lạm phát tạo ra sự không chắc chắn trong thị trường tài chính và
làm tăng các rủi ro liên quan đến đầu tư. Các trung gian tài chính muốn đầu tư dài
hạn để hình thành vốn và có xu hướng duy trì các danh mục đầu tư có tính thanh
khoản (tính lưu động), điều này sẽ làm giảm đi các hoạt động kinh tế. Lạm phát
tăng cũng sẽ dẫn đến xuất hiện "chi phí da giày" liên quan đến những nổ lực làm
giảm việc nắm giữ tiền mặt và "chi phí thực đơn" phát sinh từ sự cần thiết của việc
thay đổi giá thường xuyên hơn. Lạm phát gây ra đánh giá thực đồng nội tệ và làm
giảm khả năng cạnh tranh quốc tế do giá cả hàng hóa trong nước cao hơn. Ở một
quốc gia có tỷ giá hối đoái cố định, lạm phát sẽ dẫn đến sự suy thoái của cán cân
thương mại và vốn chảy ra ngoài dẫn đến tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn. Hơn nữa, lạm phát có thể tương tác với hệ thống thuế làm sai lệch các


12

quyết định vay và cho vay, tăng chi phí vốn và giảm tỷ lệ lợi nhuận thực, đầu tư
giảm và do đó làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Rõ ràng các quan điểm về mối tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng là không
đồng nhất nhưng tất cả đều chấp nhận rằng hai yếu tố vĩ mô này có tác động qua lại
lẫn nhau. Các nhà kinh tế học đã nghiên cứu về lạm phát và tác động của nó lên
tăng trưởng bắt đầu từ sự xuất hiện của lý thuyết kinh tế cổ điển cho đến lý thuyết
kinh tế hiện đại.

 Trường phái cổ điển
Đại diện là nhà kinh tế học Adam Smith, cho rằng hàm sản xuất gồm có ba yếu tố là
lao động, vốn và đất đai (tài nguyên thiên nhiên):

𝑌 = 𝑓(𝐾, 𝐿, 𝑁)
Trong đó, Y là sản lượng đầu ra, K là nguồn vốn, L là lao động và N là đất đai.
Smith lập luận rằng lợi nhuận là động lực duy nhất thúc đẩy hoạt động sản xuất và
tiết kiệm là yếu tố quan trọng nhất tạo nên đầu tư dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Ông
nói rằng theo thời gian khi một quốc gia phát triển và vốn tích lũy của nó được mở
rộng, tỷ lệ lợi nhuận sẽ có xu hướng giảm. Điều này xảy ra vì ba lý do. Thứ nhất, sự
cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường. Thứ hai, nhu cầu về lao động tăng (cung
không đáp ứng cầu) và điều này đẩy mức lương (giá cả) lên cao. Tiền lương cao
hơn dẫn đến lợi nhuận thấp hơn cho các doanh nghiệp. Thứ ba, vốn lớn hơn đòi hỏi
các cơ hội đầu tưphải nhiều hơn - điều mà không phải luôn tồn tại trong một nền
kinh tế. Như vậy, lợi nhuận của các nhà sản xuất suy giảm không phải là do sự suy
giảm của năng suất biên mà là do sự cạnh tranh giữa những người chủ thuê lao động
khiến cho mức tiền lương bị đẩy lên cao từ đó ảnh hưởng đến mức giá chung của
nền kinh tế. Mặc dù ông không giải thích trực tiếp về mối quan hệ giữa lạm phát và
tác động thuế của nó lên lợi nhuận doanh nghiệp cũng như sản lượng đầu ra nhưng
ông ngầm cho thấy sự tương quan ngược chiều giữa lạm phát và tăng trưởng thông
qua sự đối nghịch giữa hai biến là lợi nhuận của doanh nghiệp và chi phí tiền lương.


13

 Trường phái Keynes
Mô hình Keynes truyền thống với đường tổng cung (AS) và tổng cầu (AD) lại minh
họa cho mối quan hệ đồng biến giữa lạm phát và tăng trưởng trong ngắn hạn (hình
1.1) Trong ngắn hạn AS có xu hướng dốc lên cho thấy rằng tồn tại sự đánh đổi giữa
tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng. Hay nói cách khác để đạt được tốc độ tăng trưởng cao

thì nền kinh tế phải chịu một mức lạm phát nhất định. Khi đó, mọi thay đổi về phía
cầu (AD) của nền kinh tế như sự thay đổi về kỳ vọng, lao động, giá cả của các yếu
tố sản xuất hay các hành động chính sách (chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
tùy ý) sẽ gây tác động lên cả giá cả và sản lượng. Cụ thể là một sự gia tăng của tổng
cầu trong ngắn hạn sẽ làm gia tăng sản lượng của nền kinh tế đồng thời cũng đẩy
mức giá chung tăng lên, tức là tồn tại một mối quan hệ đồng biến giữa lạm phát và
sản lượng đầu ra. Tuy nhiên, trong dài hạn tổng cung là một đường thẳng đứng
(đường ASLR), lúc này sự gia tăng tổng cầu không làm sản lượng tăng thêm mà chỉ
làm gia tăng lạm phát.

Hình 1.1. Mô hình tổng cung và tổng cầu theo lý thuyết Keynes

 Trường phái trọng tiền
Thuyết trọng tiền cho rằng trong ngắn hạn, khi chính phủ tăng lượng cung tiền góp
phần thúc đẩy tăng trưởng thì đồng thời cũng sẽ làm gia tăng lạm phát, do đó lạm


14

phát và tăng trưởng có mối quan hệ cùng chiều. Trong dài hạn, khi cung tiền tăng
nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì lạm phát sẽ xảy ra hay nói cách khác lạm
phát là hậu quả của việc tăng cung tiền quá mức vào nền kinh tế, là kết quả tác động
có độ trễ của việc tăng cung tiền. Lúc này, cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền và không
thực sự tác động lên tăng trưởng kinh tế. Do đó, nếu hạn chế cung tiền để kiềm hãm
lạm phát thì đây là việc không hề đơn giản vì nó sẽ tác động lên kỳ vọng của người
dân. Nếu cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao có thể làm giảm
lạm phát.
 Trường phái tân cổ điển
Đại diện cho lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển, Mundell (1963) và Tobin (1965) dự
đoán một mối quan hệ tích cực giữa lạm phát và yếu tố tích lũy vốn, hàm ý một tác

động tích cực của lạm phát đến tăng trưởng. Tác động Mundell-Tobin nói rằng vì
tiền và vốn là các yếu tố có thể thay thế, nên một sự gia tăng tỷ lệ lạm phát sẽ làm
xói mòn sức mua của tiền, gây ra một sự thay thế giữa các nguồn lực và dẫn đến
một sự thay đổi trong việc phân bổ số dư tiềntừdanh mục đầu tư tài sản vào vốn vật
chất (thay vì nắm giữ tiền thì người ta chuyển sang nắm giữ tài sản thực); điều này
sẽ làm tăng tích lũy vốn và do đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
 Thuyết tăng trưởng nội sinh
Trong lý thuyết tăng trưởng nội sinh, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ
lợi nhuận trên vốn – tốc độ tăng trưởng năng suất. Vì lạm phát được xem như một
loại thuế nên nó làm giảm tỷ lệ lợi nhuận, gây trở ngại cho việc tích lũy vốn và do
đó làm giảm tốc độ tăng trưởng.
1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đó
1.2.1.

Các nghiên cứu ngoài nước

Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế là vấn đề rất quan trọng trong
kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chủ đề này đã nhận được không ít các kết luận khác nhau
và không đồng nhất từ các nhà kinh tế học trên thế giới. Fischer (1993) được xem là
người đầu tiên kết luận về sự tồn tại của ngưỡng lạm phát trong các mối quan hệ


15

giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế; tức là, tương quan giữa lạm phát và tăng
trưởng là tích cực nếu lạm phát ở mức thấp nhưng sẽ trở thành tiêu cực nếu lạm
phát ở mức cao hơn. Sarel (1996) thấy rằng ngưỡng lạm phát là 8% trong một
nghiên cứu sử dụng một mẫu 87 quốc gia cho giai đoạn 1986-1990. Đặc biệt, mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng khi lạm phát ở dưới mức tỷ lệ này là không
đáng kể (hoặc có tác động tích cực) nhưng sẽ hóa thành tác động tiêu cực khi tỷ lệ

lạm phát cao hơn mức ngưỡng này.
Ngưỡng lạm phát cũng được nghiên cứu bởi Ghosh và Phillips (1998) với cơ sở dữ
liệu gồm 145 quốc gia trong giai đoạn 1960-1996, và tìm thấy sự tồn tại của một
ngưỡng 2.5%. Trong một nghiên cứu khác về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế cho trường hợp của 31 quốc gia, Bruno và Easterly (1998) chỉ ra
rằng tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể khi tỷ lệ lạm phát cao hơn một ngưỡng 40%;
tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế tăng lên nhanh chóng và mạnh mẽ khi tỷ lệ lạm phát
giảm.
Để xác định sự tồn tại của ngưỡng lạm phát, Khan và Senhadji (2001) đã sử dụng
một tập dữ liệu lớn của 140 nước sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất phi
tuyến tính để tính toán tỷ lệ lạm phát này. Họ tìm thấy ngưỡng lạm phát mà khi lạm
phát cao hơn ngưỡng này sẽ gây bất lợi cho tăng trưởng kinh tế. Ngưỡng này là 1112% đối với các nước đang phát triển và 1-3% đối với các nước công nghiệp.
Bick (2010) sử dụng mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen, đưa hệ số chặn
(intercept) tức là đưa tính khác biệt về đặc điểm của mỗi quốc gia vào mô hình, sau
đó ông hồi quy cho dữ liệu của 40 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 19602004. Kết quả cho thấy tồn tại một mối quan hệ phi tuyến tính giữa lạm phát và tăng
trưởng. Hơn nữa, việc đưa hệ số chặn vào từng miền xác định (regime) đã làm giảm
ngưỡng lạm phát từ 19% xuống 12% và làm tăng lên gấp đôi độ lớn của tác động và
tác động biên của lạm phát lên tăng trưởng.
Trong một nghiên cứu khác về ngưỡng lạm phát, Vinayagathasan (2013) áp dụng
hồi quy ngưỡng dạng bảng động để nghiên cứu sự tồn tại của một mức ngưỡng cho


16

mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế đối với trường hợp của 32 quốc
gia châu Á (trong đó có Việt Nam) trong giai đoạn 1980-2009. Bài viết này cho
thấy tăng trưởng sẽ bị tổn hại khi tỷ lệ lạm phát vượt 5.43% trong khi lạm phát thấp
hơn mức này sẽ không có ảnh hưởng đến tăng trưởng.
Thanh S.D., 2015 sử dụng mô hình chuyển tiếp trơn PSTR (Panel Smooth
Transition Regression) để xác định mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng

trưởng kinh tế. Ông xử lý dữ liệu của 5 quốc gia ASEAN, bao gồm Thái Lan,
Indonesia, Philippines, Malaysia và Việt Nam, được quan sát từ năm 1980-2011.
Kết quả cho thấy tương quan nghịch giữa lạm phát và tăng trưởng khi lạm phát cao
hơn giá trị ngưỡng là 7.84%.
Ngoài các nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng cho mẫu lớn, một số tác giả đã áp dụng
dữ liệu ở cấp quốc gia trong nghiên cứu của họ. Salami và Kelikume (2010) sử
dụng mô hình phi tuyến lạm phát – tăng trưởng cho trường hợp ở Nigeria. Bài
nghiên cứu của họ kết luận một ngưỡng lạm phát 8% với bộ dữ liệu từ 1970-2008.
Tuy nhiên, ngưỡng lạm phát giảm xuống 7% khi họ thay đổi chuỗi thời gian nghiên
cứu thành 1980-2008.
Singh (2010) dựa vào phương trình ước lượng trong bài nghiên cứu của Sarel
(1996) và Khan và Senhadji (2001), đã ước lượng điểm ngưỡng lạm phát cho nền
kinh tế của Ấn Độ. Kết quả nghiên cứu cho thấy một ngưỡng lạm phát là 6% trong
giai đoạn 1971-2009.
Fakhri (2011) cũng đã nghiên cứu tác động của ngưỡng lạm phát đối với tăng trưởng

kinh tế ở Azerbaijani trong giai đoạn 2000-2009, và xác định sự tồn tại của ngưỡng
lạm phát 13% trong mối quan hệ lạm phát - tăng trưởng. Bài nghiên cứu cũng khẳng
định rằng tăng trưởng dự kiến sẽ giảm khoảng 3% khi lạm phát tăng cao hơn mức
ngưỡng này.
Trong một nghiên cứu về mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở
Pakistan sử dụng dữ liệu trong giai đoạn 1973-2000, Mubarik (2005) xác định
ngưỡng lạm phát là 9%. Kết quả về ngưỡng lạm phát trên là tương tự cho bài


17

nghiên cứu của Hussain và Malik (2011) khi cũng nghiên cứu về Pakistan trong giai
đoạn 1960-2006. Trên cơ sở kết quả này, họ đề nghị các nhà làm chính sách nên
kiểm soát lạm phát mục tiêu dưới mực ngưỡng để duy trì mối quan hệ tích cực giữa

lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
1.2.2.

Các nghiên cứu trong nước

Tại Việt Nam, Nguyễn Trung Chính (2009), Trương Minh Tuấn (2013) và Phùng
Duy Quang, Lâm Văn Sơn và Lê Văn Tuấn (2014) cùng áp dụng đồng thời hồi quy
đồng liên kết, mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) và phương pháp phân tích phương
sai dựa trên mô hình VAR để xem xét mối quan hệ lạm phát – tăng trưởng ở Việt
Nam trong ngắn và dài hạn. Tuy nhiên kết quả thu được của từng nghiên cứu lại
không đồng nhất.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trung Chính (2009) với bộ dữ liệu từ 1995 đến hết
nửa đầu năm 2008 và kết quả nghiên cứu của Phùng Duy Quang, Lâm Văn Sơn và
Lê Văn Tuấn (2014) với bộ dữ liệu 1998-2012 đều khẳng định sự tồn tại của sự
tương tác qua lại giữa 2 yếu tố là lạm phát và tăng trưởng. Cụ thể là cả trong ngắn
hạn và dài hạn lạm phát và tăng trưởng đều có tương quan dương với nhau và sự
thay đổi của tăng trưởng nhanh hơn sự thay đổi của lạm phát. Trong giai đoạn này
lạm phát có tác dụng tích cực đến tăng trưởng và chưa vượt quá ngưỡng kiểm soát.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy lạm phát có ảnh hưởng đến tăng trưởng nhiều
hơn sự ảnh hưởng ngược trở lại của tăng trưởng đến lạm phát, điều này khẳng định
rằng lạm phát còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác, đặc biệt là các tác động trong
ngắn hạn.
Kết quả nghiên cứu của Trương Minh Tuấn (2013) cho thấy trong dài hạn, lạm phát
và tăng trưởng kinh tế đồng liên kết với nhau theo quan hệ nghịch biến. Tức là
trong dài hạn sự gia tăng trong tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm lạm phát. Cụ thể,
khi tăng trưởng kinh tế tăng 1% thì lạm phát giảm 0.037% và ngược lại. Trong ngắn
hạn, tăng trưởng không có tác động có ý nghĩa đến lạm phát nhưng lạm phát thì lại
có tác động có ý nghĩa đến tăng trưởng và tác động này là nghịch biến. Tức là, trong



18

ngắn hạn lạm phát tăng sẽ kéo theo tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. Bên cạnh đó,
nghiên cứu cũng đưa ra được độ trễ thời gian phản ứng của lạm phát khi tăng
trưởng kinh tế thay đổi. Cụ thể là tăng trưởng sẽ ảnh hưởng đến lạm phát với độ trễ
ít nhất 1 quý và tác động mạnh nhất sau 5 quý với hệ số -0.069592, sau đó mức ảnh
hưởng giảm dần.
Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Trần Hoàng Ngân, Vũ Thị Lệ Giang và
Hoàng Hải Yến (2013) cho rằng lạm phát ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của
người lao động, người có thu nhập thấp và ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế. Với dữ liệu chuỗi thời gian từ 1987-2012, nhóm tác giả phân tích hệ số
tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam và kết luận rằng lạm
phát có tương quan âm với tăng trưởng trong một thời gian dài dù có hay không có
loại bỏ đi các cú sốc lạm phát. Cụ thể, trước khi loại bỏ các cú sốc lạm phát, một sự
gia tăng 1% của lạm phát sẽ khiến cho tăng trưởng giảm 0.382% do hệ số tương
quan giữa lạm phát và tăng trưởng là âm (r =-0.382). Tuy nhiên, sau khi các cú sốc
đã được loại bỏ thì hệ số tương quan lúc này vẫn âm (r = -0.357). Sau đó, nhóm tác
giả tách chuỗi dữ liệu thành hai giai đoạn (1987-2000 và 2001-2012) để so sánh, cả
hai giai đoạn đều cho thấy trong ngắn hạn, lạm phát hoặc là tác động tiêu cực thấp
đến tăng trưởng kinh tế hoặc là không thể kết luận được mối quan hệ rõ ràng giữa
hai biến. Từ dữ liệu quan sát được, nhóm tác giả cho rằng ngưỡng lạm phát ở Việt
Nam là từ 5-7%. Khi lạm phát ở dưới mức 5% nó có tác động tích cực đến tăng
trưởng (r = 0.809). Còn khi lạm phát ở mức cao hơn 7% thì lạm phát nghịch biến
với tăng trưởng (r = -0.596%). Ở khoảng này, lạm phát có thể giải thích được gần
65% sự thay đổi của tăng trưởng.


19

CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG Ở VIỆT

NAM
Ở các quốc gia đang phát triển, lạm phát là một trong những nguyên nhân chính
khiến cho tăng trưởng kinh tế không ổn định, ảnh hưởng đến quá trình phát triển xã
hội và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Chương 2 sẽ trình bày sơ lược về tình hình
kinh tế xã hội ở Việt Nam từ năm 1980 đến năm 2014, sau đó là tổng quan về lạm
phát và tăng trưởng ở Việt Nam cũng như mối quan hệ giữa chúng trong những năm
gần đây.
2.1. Sơ lược về tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam từ năm 1980 đến năm
2014.
2.1.1. Giai đoạn bắt đầu công cuộc cải cách và khủng hoảng trầm trọng
(1980-1990)
Tỷ lệ lạm phát (%)
120
95.401

100
69.6

80

64.897
49.487

60
40

91.602

25.156


20
0
1980

1981

1982

1983

1984

1985

(Nguồn: Economy Watch)

Hình 2.1. Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1980-1985

Vào đầu thập niên 1980 khủng hoảng kinh tế kéo dài ở Việt Nam. Nguyên liệu đầu
vào chỉ đáp ứng được một nửa nhu cầu sản xuất, các ngành kinh tế đầu đàn phát
triển chậm khiến cho sản xuất trì trệ dẫn đến hàng tiêu dùng ngày càng khan hiếm.
Thêm vào đó, chiến tranh biên giới cùng với dân số tăng cao khiến cho nhu cầu về
thực phẩm và các hàng hóa khác cũng tăng theo. Nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình
trạng lạm phát hai con số với tỷ lệ lạm phát trung bình giai đoạn 1980-1985 là
66.02%.


×