Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Đánh giá tác động của vốn xã hội đến di cư nghiên cứu điển hình cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
***

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐẾN DI CƢ:
NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
***

TRẦN THỊ HỒNG NHUNG

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐẾN DI CƢ:
NGHIÊN CỨU ĐIỂN HÌNH CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số

: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN TRỌNG HOÀI



TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số
liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong
phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 10 năm 2015.
Tác giả

Trần Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU .............................................................................................. 1
1.1.

Đặt vấn đề ............................................................................................................... 1

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 5


1.3.

Phạm vi nghiên cứu................................................................................................. 5

1.4.

Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 6

CHƢƠNG 2: LƢỢC KHẢO CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU
TRƢỚC .............................................................................................................................. 7
2.1.

Lược khảo cơ sở lý thuyết ....................................................................................... 7

2.1.1.

Lý thuyết về di cư............................................................................................. 7

2.1.2.

Lý thuyết về vốn xã hội .................................................................................. 21

2.2.

Lược khảo các nghiên cứu trước liên quan ........................................................... 27

2.2.1.

Kan (2006)...................................................................................................... 27


2.2.2.

David và cộng sự (2010) ................................................................................ 29

2.2.3.

Prayitno và cộng sự (2013) ............................................................................ 31

2.2.4.

Zhao và Yao (2013) ....................................................................................... 32

CHƢƠNG 3: KHUNG PHÂN TÍCH VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 36
3.1.

Khung phân tích cho nghiên cứu .......................................................................... 36

3.1.1.

Đo lường di cư ............................................................................................... 36

3.1.2.

Đo lường vốn xã hội của hộ gia đình và dấu kỳ vọng ................................... 36

3.1.3.

Các biến kiểm soát và dấu kỳ vọng ................................................................ 39

3.1.4.


Khung phân tích ............................................................................................. 42

3.2.

Mô hình kinh tế lượng .......................................................................................... 44

3.2.1.

Phương pháp nghiên cứu bằng mô hình số đếm ............................................ 44

3.2.2.

Mô hình kinh tế lượng và mối quan hệ của từng biến ................................... 47

3.3.

Dữ liệu................................................................................................................... 51


CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................................... 55
4.1.

Thực trạng di cư Việt Nam ................................................................................... 55

4.2.

Mô tả các biến trong mô hình ............................................................................... 61

4.3.


Kết quả nghiên cứu thựcnghiệm ........................................................................... 63

4.3.1.

Xác định vấn đề dữ liệu phân tán không đồng đều ........................................ 63

4.3.2.

Xác định vấn đề thừa 0 ................................................................................... 64

4.3.3.

Xác định mô hình phù hợp và giải thích ý nghĩa ........................................... 65

CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH .............................................. 70
5.1.

Kết luận ................................................................................................................. 70

5.2.

Hàm ý chính sách .................................................................................................. 72

5.3.

Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................................... 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng kết lý thuyết về di cư và ứng dụng cho luận văn. ........................... 19
Bảng 2.2: Tổng hợp các nghiên cứu trước và ứng dụng ........................................... 34
Bảng 3.1: Khung phân tích nghiên cứu của luận văn. .............................................. 43
Bảng 3.2: Tổng hợp các mô hình có thể có của luận văn. ........................................ 44
Bảng 3.3: Biến và dấu kỳ vọng của biến trong nghiên cứu của luận văn. ................ 50
Bảng 4.1: Nơi thực tế thường trú tại thời điểm 1/4/2012 và 1/4/2013 chia theo thành
thị/ nông thôn. ........................................................................................................... 58
Bảng 4.2: Tỷ suất di cư của dân số từ 5 tuổi trở lên chia theo giới tính và trình độ
học vấn, năm 2013 (‰). ............................................................................................ 59
Bảng 4.3: Tỷ suất di cư của dân số từ 15 tuổi chia theo giới tính và tình trạng hôn
nhân, năm 2013 (‰). ................................................................................................ 60
Bảng 4.4: Số lượng hộ có và không có người di cư phân theo thời điểm khảo sát. . 61
Bảng 4.5: Số lượng người di cư ở từng hộ chia theo tỉnh. ........................................ 62
Bảng 4.6: Số lượng hộ nhận được sự hỗ trợ tiền bạc khi cần. .................................. 62
Bảng 4.7: Kết quả hồi quy dữ liệu mô hình hồi quy nhị thức âm. ............................ 64
Bảng 4.8: Kết quả hồi quy dữ liệu mô hình hồi quy nhị thức âm thừa 0. ................. 65
Bảng 4.9: Kết quả tác động từng phần của các biến trong mô hình hồi quy nhị thức
âm thừa 0. .................................................................................................................. 69


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 4.1: Di cư quốc tế thuần Việt Nam (người). .................................................... 55
Hình 4.2: Tỷ suất di cư thuần chia theo vùng kinh tế - xã hội Việt Nam từ 2005 đến
2013 (‰). .................................................................................................................. 56
Hình 4.3: Tỷ suất di cư thuần từ nông thôn ra thành thị ở Việt Nam từ 2005 – 2013
(‰). ........................................................................................................................... 57
Hình 4.4: Tỷ lệ dân thành thị ở Việt Nam từ 2000 – 2013 (‰)................................ 57

Hình 4.5: Tỷ suất di cư đặc trưng theo tuổi và giới tính năm 2013. ......................... 59


1

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
Một trong những mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
năm năm 2016 – 2020 ở Việt Nam là “phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (Thủ tướng Chính Phủ, 2014, trang
2). Để trở một nước công nghiệp thì hai trong số các tiêu chí là cơ cấu lao động phi
nông nghiệp – nông nghiệp là 75% - 25% và tỷ lệ dân số đô thị là từ 50% trở lên
(Nguyễn Hồng Sơn và Trần Quang Tuyến, 2014). Tuy vậy, tỷ lệ lao động và dân
nông thôn ở nước ta vẫn duy trì mức cao, cụ thể trong năm 2014, tỷ lệ lao động trên
15 tuổi ở khu vực nông thôn là 69,6%, còn tỷ lệ dân nông thôn ở Việt Nam là
66,9% (Tổng Cục thống kê, 2015). Xét ở khu vực ASEAN thì trong năm 2013, tỷ lệ
dân nông thôn Việt Nam cao thứ ba, chỉ thấp hơn Campuchia và Đông Timor, trong
khi đó, tỷ lệ dân nông thôn ở các nước phát triển trên thế giới đều rất thấp, ví dụ
như Nhật là 8% còn Úc là 11% (World Bank, 2015b). Những con số thống kê như
vậy cho thấy hai trong những điều kiện cần để Việt Nam trở thành một nước công
nghiệp là tăng tỷ lệ lao động trong khu vực phi nông nghiệp cũng như tăng tỷ lệ dân
số thành thị. Để làm được điều này thì điều cần thiết là sự di cư nông thôn – thành
thị vì việc di cư trong nước sẽ góp phần vào việc phát triển kinh tế thông qua việc
người lao động di chuyển đến các khu công nghiệp và các khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (Liên hợp quốc tại Việt Nam, 2010) cũng như có thể làm tăng dân số ở
khu vực thành thị.
Tuy vậy, việc di cư này cũng mang lại những thách thức cho cộng đồng nơi đến
nhằm đáp ứng các nhu cầu của người nhập cư tại những nơi này. Đô thị hóa do di
cư tại khu vực thành thị đã gây áp lực lên cơ sở hạ tầng và dịch vụ xã hội hiện tại.
Đô thị hóa nhanh chóng không được quản lý và không có kế hoạch sẽ dẫn tới các

hậu quả về xã hội và làm giảm chất lượng cuộc sống, các dịch vụ đô thị như nhà ở,
giáo dục, chăm sóc y tế, nước sạch, vệ sinh và giao thông không được đảm bảo.
Việc này cũng gây áp lực lên kinh tế vì cơ sở hạ tầng không đảm bảo cho giao
thông cũng như thu hút vốn đầu tư. Tuy nhiên, nếu làm phép so sánh giữa Hà Nội,


2

Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố New York thì dễ nhận thấy nguyên nhân
dẫn đến những áp lực đến nơi di cư là do sự không đồng đều trong phân bố dân cư
khu nội bộ thành phố. Mật độ dân số của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thấp
hơn nhiều so với Thành phố New York, cụ thể của Hà Nội trong năm 2013 là 2.169
người/ km2, của Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2011 là 3.590 người/ km2, của
Thành phố New York trong năm 2010 là 10.401 người/ km2 nhưng mật độ dân cư
trong nội bộ Thành phố New York lại đồng đều hơn so với Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh (Department of City Planning City of New York, 2011; Cục thống kê
thành phố Hồ Chí Minh, 2012; Cục thống kê Hà Nội, 2014). Có thể nói di cư không
phải là vấn đề của đô thị mà chính là việc phân bố dân số không đồng đều trong nội
bộ các khu đô thị đó mới là vấn đề. Do đó, chính sách đưa ra không nên ngăn cản
dòng dân nhập cư mà nên quản lý dòng dân nhập cư một cách hiệu quả dựa trên
việc ủng hộ di cư tích cực. Việc quản lý dòng dân nhập cư ở đây nghĩa là nếu địa
phương có dân di cư đi biết được người dân sẽ di cư và di cư đến đâu thì họ sẽ có
biện pháp hỗ trợ những người dân này, giúp họ an cư lạc nghiệp tại nơi đến, giảm
gánh nặng lên nơi tiếp nhận. Còn di cư tích cực ở đây nghĩa là di cư mang lại lợi ích
cho cộng đồng nơi đến cũng như cộng đồng nơi ở gốc. Các lợi ích này bao gồm các
mặt như kinh tế, xã hội. Phía cộng đồng nơi ở gốc có thể giảm được lao động dư
thừa, tăng thu nhập nhờ khoản tiền chuyển về của người di cư thông qua đó nâng
cao mức sống. Còn phía cộng đồng nơi tiếp nhận có thể tiếp nhận thêm người và
giảm tình trạng thiếu lao động đồng thời làm đa dạng thêm đời sống văn hóa do
những người nhập cư đem lại.

Việc di cư xảy ra do nhiều yếu tố, bên cạnh lý do như kinh tế, thiên tai, dịch
bệnh thì trong những giai đoạn gần đây, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được rằng vốn
xã hội có tác động đến vấn đề này. Thực vậy, nghiên cứu của Dijk (1997) kết luận
rằng những người có mối quan hệ chặt chẽ với người đang di cư thì thường sẽ tiến
hành di cư, điều này có nghĩa là ban đầu, di cư thường diễn ra chậm, nhưng một khi
đã có người di cư thì số lượng người di cư sẽ tăng lên rất nhanh chóng. Theo Palloni
và cộng sự (2001), các gia đình có anh chị lớn tuổi hơn di cư thì làm tăng khả năng


3

di cư của những người còn lại gấp ba lần. Nhìn chung, các nghiên cứu chỉ ra việc di
cư là do mối quan hệ chặt chẽ giữa người đang di cư và người ở lại vì các cá nhân
có thể có được những thông tin giá trị, sự hỗ trợ về tinh thần cũng như vật chất từ
người di cư khi họ quyết định di cư, do đó các cá nhân này sẽ di cư. Ngoài ra, còn
có một hướng nghiên cứu khác, đó là tập trung vào vốn xã hội giữa các cá nhân và
những người ở lại hay còn gọi là vốn xã hội địa phương. Kan (2006) nghiên cứu về
vai trò của vốn xã hội trong hành vi di cư của hộ gia đình. Kết quả của nghiên cứu
cho thấy vốn xã hội địa phương làm giảm di cư. David và cộng sự (2010) đề cập
đến vốn xã hội địa phương và tác động của nó đến sự di cư trong bài nghiên cứu của
họ. Kết luận họ đưa ra là những cá nhân có vốn xã hội nội bộ địa phương cao thì ít
di cư và khả năng thất nghiệp cao, trong khi đó những cá nhân có vốn xã hội nội bộ
địa phương thấp thì di cư nhiều và khả năng thất nghiệp thấp. Ngoài ra còn có
nghiên cứu của Zhao và Yao (2013) chỉ ra rằng vốn xã hội địa phương của nông
thôn Trung Quốc có tác động tiêu cực đến việc di cư. Ngược lại, nghiên cứu của
Prayitno và cộng sự (2013) đưa ra kết luận rằng những hộ gia đình có vốn xã hội
cao thì sẽ có thành viên trong gia đình là người di cư dài hạn, nghĩa là vốn xã hội có
tác động tích cực đến việc di cư.
Bên cạnh các lợi ích của vốn xã hội như cung cấp, lan tỏa thông tin, tạo sức
mạnh, sự đoàn kết cộng đồng, tăng phúc lợi xã hội (Adler và Kwon, 2000) thì cũng

vốn xã hội cũng có những tác động xấu. Đầu tiên là sự đoàn kết cộng đồng có thể
phản tác dụng vì khối đoàn kết mạnh trong cộng đồng sẽ làm cho cá nhân trong
cộng đồng đó bị gắn chặt trong các mối quan hệ và điều này làm cho các cá nhân
không có các ý tưởng mới, dần dần tạo nên chủ nghĩa địa phương hẹp hòi và tính trì
trệ (Adler và Kwon, 2000). Thứ hai là vốn xã hội tạo nên tình trạng kẻ ăn theo và
cản trở việc kinh doanh. Những quy tắc đặt ra trong cộng đồng có thể làm các thành
viên gia đình phải chia sẻ nguồn lực cho các gia đình khác và do đó làm giảm động
lực phát triển kinh doanh dẫn đến việc tích lũy vốn chậm (Portes, 1998). Ngoài ra,
Putman (1993) cũng cho rằng vốn xã hội cũng có các tác động xấu, cụ thể ở đây là
vốn xã hội có thể gây ra tình trạng mất công bằng xã hội, các lề thói và mạng lưới


4

chỉ phục vụ cho một nhóm người và do đó sẽ cản trở những người khác, đặc biệt là
khi lề thói mang tính chất phân biệt đối xử. Dựa trên thực tế những gì đang diễn ra
ở xã hội Việt Nam, có thể nói chúng ta cũng đang hứng chịu những tác động xấu
của vốn xã hội. Thật vậy, một trong các thói xấu của người Việt là tâm lý hưởng
thụ, mà tâm lý này sinh ra từ sự ỷ lại vào cộng đồng, vào người khác. Do đó, những
điều này đã hướng tác giả đến giả định khác rằng liệu có phải vốn xã hội của cá
nhân, của hộ gia đình với cộng đồng đó càng cao thì khả năng di cư càng cao vì họ
mong muốn phát triển ở một vùng đất mới, đặc biệt là ở đất nước mà người dân còn
mang tư tưởng chỉ trích nhiều hơn là khuyến khích như Việt Nam.
Với giả thuyết vốn xã hội của hộ gia đình càng cao thì số lượng người di cư
trong hộ càng cao, luận văn đưa ra nghiên cứu “Đánh giá tác động của vốn xã hội
đến di cư: Nghiên cứu điển hình ở Việt Nam”, trong đó tập trung vào hướng nghiên
cứu vốn xã hội địa phương. Lý do tác giả tập trung vào hướng nghiên cứu này vì
như đã trao đổi ở trên, vốn xã hội của cá nhân đối với cộng đồng sinh sống không
chỉ mang lại những điều tích cực mà cũng dẫn đến những hệ lụy không mong muốn
(Putman, 1993; Portes, 1998; Adler và Kwon, 2000).

Nghiên cứu được coi là gần nhất với nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu của
Prayitno và cộng sự (2013). Nghiên cứu của luận văn và của Prayitno và cộng sự
(2013) đều lựa chọn hộ gia đình để khảo sát. Tuy nhiên, luận văn không chỉ lựa
chọn hộ có người di cư mà cả hộ không có người di cư cũng được khảo sát, trong
khi đó nghiên cứu của Prayitno và cộng sự (2013) chỉ lựa chon những hộ có ít nhất
một người di cư. Ngoài ra, hai nghiên cứu còn có sự tương đồng trong việc lựa chọn
biến để đo lường vốn xã hội. Trong nghiên cứu của luận văn, do hạn chế về số liệu
nên vốn xã hội được luận văn đo lường dựa trên ba khía cạnh, đó là nhóm và mạng
lưới, nguồn thông tin và liên lạc, sự gắn kết xã hội. Trong nghiên cứu của Prayitno
và cộng sự (2013) thì vốn xã hội được đo lường dựa trên bốn khía cạnh khá giống
với các khía cạnh được luận văn lựa chọn, đó là ý thức về nơi ở, ý thức về cộng
đồng, mối quan hệ hàng xóm, sự tham gia vào cộng đồng. Sự khác nhau giữa
nghiên cứu của luận văn và của Prayitno và cộng sự (2013) là luận văn không sử


5

dụng phương pháp phân tích thành phần chính để xây dựng chỉ số cho vốn xã hội,
còn nghiên cứu của Prayitno và cộng sự (2013) thì sử dụng phương pháp này. Lý do
là vì Prayitno và cộng sự (2013) tự thiết kế các câu hỏi đo lường vốn xã hội dựa trên
lý thuyết nền về vốn xã hội, còn luận văn sử dụng bảng câu hỏi với các câu hỏi đã
được Grootaert và cộng sự (2004) kiểm chứng qua thực tế. Ngoài ra nghiên cứu của
Prayitno và cộng sự (2013) sử dụng mô hình cân bằng cấu trúc để giải thích mối
quan hệ giữa vốn xã hội và việc di cư, trong khi đó luận văn sử dụng mô hình số
đếm. Lý do tác giả sử dụng mô hình này không phải là vì vấn đề kỹ thuật mà là vì
mục đích của nghiên cứu. Nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc làm cách nào
để tăng lượng di cư và xác định được hộ gia đình nào sẽ có người di cư, từ đó có
chính sách can thiệp và hỗ trợ hiệu quả. Nếu sử dụng mô hình cân bằng cấu trúc thì
chỉ tìm được mối quan hệ giữa các biến chứ không tìm ra được mối quan hệ tổng
giữa vốn xã hội và di cư.

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm ra chính sách để tăng lượng dân di cư
tích cực lên khu vực thành thị và thông qua đó thúc đẩy quá trình đô thị hóa, giảm
số lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng như tăng số lượng dân thành thị
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hoàn thành mục tiêu phát
triển Việt Nam thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa trong năm 2020.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát là đánh giá tác động của vốn xã hội đến di cư, qua đó đưa ra
chính sách nhằm tác động đến lượng dân di cư lên các khu vực đô thị một cách hợp
lý.
Mục tiêu cụ thể:
 Đánh giá tác động của vốn xã hội đến di cư.
 Gợi ý chính sách sách nhằm tác động đến lượng dân di cư tích cực từ nông
thôn lên các khu vực đô thị.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các hộ gia đình thuộc 12 tỉnh Hà Tây, Lào Cai, Phú Thọ,
Lai Châu, Điện Biên, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm


6

Đồng và Long An. Các tỉnh này đại diện cho các khu vực ở nước Việt Nam, cụ thể:
tỉnh Hà Tây ở Đồng bằng sông Hồng, tỉnh Lào Cai và Phú Thọ ở Đông Bắc, tỉnh
Lai Châu và Điện Biên ở Tây Bắc, tỉnh Nghệ An ở Bắc Trung Bộ, tỉnh Quảng Nam
và Khánh Hòa ở Nam Trung Bộ, tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng ở Tây
Nguyên, tỉnh Long An ở Đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh này cũng được Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương tiến hành khảo sát từ năm 2006 đến nay nên
đảm bảo về sự chính xác của số liệu.
Phạm vi nghiên cứu: 3.208 hộ gia đình.
Thời gian nghiên cứu: Năm 2010, năm 2011 và năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng mô hình số đếm. Biến phụ thuộc trong

nghiên cứu của luận văn là số lượng người di cư của hộ thời điểm khảo sát đến hết
năm 2012 nên biến phụ thuộc này thuộc dữ liệu số đếm, mà theo Gujarati (2003),
Cameron và Trivedi (2005) thì trong trường hợp này cần sử dụng mô hình số đếm.
Thông qua mô hình này, tác giả sẽ tìm hiểu được mối quan hệ giữa vốn xã hội và số
lượng người di cư của hộ trong vòng hai năm sau.
1.4. Cấu trúc luận văn
Chương hai đề cập đến cơ sở lý thuyết, bao gồm lý thuyết về di cư, về vốn xã
hội. Ngoài ra chương hai còn còn đưa ra một số nghiên cứu trước có liên quan đến
bài nghiên cứu của luận văn. Phương pháp nghiên cứu được thể hiện ở chương ba,
cụ thể là khung phân tích, mô hình kinh tế lượng và dữ liệu. Kết quả nghiên cứu
được mô tả ở chương bốn. Chương năm là chương cuối cùng và đưa ra kết luận,
hàm ý chính sách cũng như những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của bài
nghiên cứu này.


7

CHƢƠNG 2: LƢỢC KHẢO CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƢỚC
2.1. Lƣợc khảo cơ sở lý thuyết
2.1.1. Lý thuyết về di cƣ
2.1.1.1. Di cƣ và phân loại di cƣ
Theo National Geographic (2005) thì di cư là sự di chuyển của con người trong
phạm vi thế giới từ nơi này sang nơi khác với mục đích thường trú hoặc tạm trú,
thông thường là vượt qua ranh giới về chính trị. Một ví dụ của di cư mục đích tạm
trú là sự di cư theo mùa của những người nông dân. Con người có thể di cư tự
nguyện hoặc bị bắt buộc phải di cư. Có bốn phạm vi di cư, đó là di cư giữa các lục
địa, di cư trong các lục địa (giữa các quốc gia trong một lục địa), di cư trong các
quốc gia (giữa các vùng trong một quốc gia) và di cư nông thôn – thành thị.
Theo Piesse (2014), những người di cư được phân làm hai loại, đó là di cư nhân

đạo và di cư kinh tế. Người di cư nhân đạo bao gồm những người tỵ nạn và tìm
kiếm nơi tỵ nạn, còn người di cư kinh tế bao gồm những người di cư để tìm việc
hoặc để cải thiện tình trạng tài chính của mình. Trong đó, tỵ nạn được hình thành từ
sự sợ hãi có cơ sở và sự bị ngược đãi vì những lý do chủng tộc, tôn giáo, dân tộc,
quan điểm chính trị hoặc do là thành viên của một nhóm xã hội cụ thể nào đó mà
dẫn đến kết quả là không thể hoặc không muốn sống quốc gia đó (Liên hợp quốc,
1951). Một cách phân loại khác về di cư là những người di cư được phân thành di
cư dài hạn và di cư ngắn hạn (United Nations, 1998), trong đó những người có thời
gian sống ở nơi ở mới từ đủ 12 tháng trở lên được xem là di cư dài hạn, những
người có thời gian sống ở nơi ở mới từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng được xem là di
cư ngắn hạn.
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là đưa ra chính sách nhằm tăng lượng dân di
cư lên các khu vực đô thị một cách hợp lý để thúc đẩy phát triển đất nước, điều này
có nghĩa là nghiên cứu này không hướng đến những người di cư vì không thể hoặc
không muốn sống ở Việt Nam mà hướng đến những người di cư nhằm đem lại lợi


8

ích cho cả nơi di cư đến và nơi ở gốc. Do đó, nghiên cứu của luận văn không xét
trong phạm vi di cư nhân đạo mà chỉ xét trong phạm vi di cư kinh tế.
2.1.1.2. Phƣơng pháp đo lƣờng di cƣ
Tổng Cục dân số (2011) phân loại thành hai phương pháp đo lường di cư là
phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp.
a. Phƣơng pháp trực tiếp
Theo Tổng Cục dân số (2011), phương pháp trực tiếp là đo lường di dân thông
qua thống kê hộ tịch, hộ khẩu, thông qua các cuộc điều tra dân số và thông qua khảo
sát mẫu về dân số. Carletto và Brauw (2008) cung cấp một số hướng dẫn về việc thu
thập dữ liệu di cư với phương pháp đo lường trực tiếp như sau:
a.1. Đăng ký dân số (thống kê hộ tịch, hộ khẩu)

Hiện nay chỉ một vài nước đã phát triển sử dụng đăng ký dân số để báo cáo về
luồng di dân, trong khi đó không có nước đang phát triển nào sử dụng số liệu này.
Dữ liệu đăng ký dân số có một số hạn chế sau: Đầu tiên, dữ liệu này chỉ gồm những
trường hợp di cư hợp pháp. Thứ hai, việc đăng ký dân số thường diễn ra chậm hơn
so với thực tế diễn ra. Thêm vào đó, cơ quan tiến hành đăng ký dân số không phải là
cơ quan thống kê quốc gia nên sẽ gặp vấn đề về thống nhất số liệu và thống nhất
định nghĩa thống kế. Cuối cùng, để tiến hành đăng ký dân số đòi hỏi phải có kinh
phí và nhân lực, điều này vượt quá khả năng của các nước đang phát triển.
a.2. Điều tra dân số
Hầu hết tất cả các quốc gia tiến hành điều tra dân số ít nhất một lần và thường
được tiến hành định kỳ mười năm. Ưu điểm của dữ liệu này là nó bao hàm nhiều
khía cạnh khác, không chỉ là dữ liệu dân số. Những đặc điểm nhân khẩu học và kinh
tế - xã hội cơ bản của cá nhân, hộ gia đình và những đặc điểm cá nhân đơn giản của
người di cư đều được thu thập trong cuộc điều tra dân số. Tuy nhiên, dữ liệu này
cũng có những hạn chế sau: Đầu tiên, khi cuộc điều tra dân số tiến hành mười năm
một lần thì dữ liệu sẽ không phù hợp để nghiên cứu các xu hướng của hiện tượng
diễn ra một cách liên tục như hiện tượng di cư. Thứ hai, dữ liệu của cuộc điều tra
dân số không đủ cho cuộc điều tra chuyên sâu vì mẫu điều tra khá ngắn gọn. Thứ


9

ba, hầu hết các cuộc điều tra dân số chỉ lấy số liệu ứng với thời điểm hiện tại nên
các dữ liệu về di cư tạm thời, di cư theo mùa có thể sẽ không được báo cáo lại trong
dữ liệu của cuộc điều tra. Thứ tư, chỗ ở của những người di cư thường không cố
định nên dữ liệu của những người này có thể sẽ bị thiếu trong cuộc điều tra dân số.
Cuối cùng, cuộc điều tra dân số thường không ghi nhận dữ liệu di cư bất hợp pháp.
a.3. Khảo sát
Các cuộc khảo sát cung cấp cho các nhà nghiên cứu những phương thức hiệu
quả hơn và ít tốn chi phí hơn để đưa ra các hàm ý chính sách liên quan đến chiến

lược di cư trong tương lai và phân tích tác động của di cư đến cộng đồng gốc và
cộng đồng di cư đến. Có ba loại khảo sát thường được sử dụng trong thu thập dữ
liệu di cư là:
-

Khảo sát lữ hành: Loại khảo sát này được sử dụng để bổ sung cho dữ liệu hiện
có về các luồng di cư. Hạn chế chính của phương pháp này là chỉ một phần nhỏ
những người lữ hành là những người di cư. Ngoài ra, vì bản chất ngắn hạn của
các di chuyển nên khi sử dụng khảo sát lữ hành có thể gây ra hiện tượng đếm
trùng dữ liệu. Cuối cùng, tính đại diện của dữ liệu trong khảo sát này không cao
vì những người lữ hành chỉ là các biến ngẫu nhiên của dân số.

-

Khảo sát định tính: Loại khảo sát này bao hàm các phỏng vấn sâu những người
di cư hoặc hộ gia đình có người di cư. Loại khảo sát này có hạn chế là kích cỡ
mẫu nhỏ và chỉ được tiến hành ở nơi có người di cư. Tuy nhiên, khảo sát này lại
là nguồn dữ liệu tốt để có được những thông tin ban đầu để hiểu được các vấn đề
gây ra di cư.

-

Khảo sát hộ gia đình: Loại khảo sát này giúp cung cấp các thông tin sâu cần thiết
cho phân tích di cư. Khảo sát hộ gia đình được phân thành hai loại là khảo sát
chuyên dụng và khảo sát nhiều mục đích. Khảo sát chuyên dụng không phù hợp
với các nước có thu nhập thấp vì các hệ thống khảo sát hộ gia đình ở các nước
này không ổn định và vì thiếu vốn. Do đó, nhiều nước sử dụng khảo sát nhiều
mục đích để thu thập dữ liệu di cư. Điểm quan trọng và có lợi của khảo sát nhiều
mục đích là nó bao hàm nhiều chủ đề và hầu hết các cuộc khảo sát thu thập dữ



10

liệu toàn diện về phúc lợi của hộ gia đình nên cho phép các nhà nghiên cứu đưa
ra phân tích về các biến sở thích như di cư. Tuy nhiên, khảo sát nhiều mục đích
cũng bị vấn đề là dữ liệu về từng chủ đề không đủ độ sâu cần thiết, nhưng dù sao
vẫn hơn dữ liệu từ đăng ký dân số và điều tra dân số.
b. Phƣơng pháp gián tiếp
Theo Tổng Cục dân số (2011), trường hợp thiếu các nguồn số liệu khi áp dụng
phương pháp trực tiếp thì có thể sử dụng phương pháp gián tiếp. Phương pháp này
dùng để tính một số chỉ tiêu di dân thông qua thống kê hộ tịch, biến động chung,
biến động dân số tự nhiên và biến động dân số cơ học.
Nếu có biến gia tăng dân số chung và gia tăng dân số tự nhiên thì công thức tính
di dân như sau:
NM = (Pt+n - Pt) - (B - D)t,t+n,
Trong đó:
 NM: Lượng di dân thuần tuý, nghĩa là chênh lệch giữa số nhập cư và xuất cư
trong khoảng thời gian từ thời điểm năm t đến thời điểm năm t+n.
 Pt và Pt+n: Tổng dân số vào thời điểm năm t và năm t+n.
 B và D: Tổng số sinh và chết trong cùng thời kỳ.
Nếu không có dữ liệu về sinh và tử thì công thức tính di dân thuần túy gần đúng
như sau:
NM = ( P x NMR0) x n
Trong đó :
 NM: Lượng di dân thuần tuý, nghĩa là chênh lệch giữa số nhập cư và xuất cư
giữa hai thời điểm khảo sát.
 NMR0: Tỷ suất di dân thuần túy của kỳ gốc.


P : Số dân trung bình giữa hai thời điểm khảo sát.


 n: Khoảng thời gian giữa hai thời điểm khảo sát.
Như vậy có hai phương pháp đo lường di cư được đề cập ở trên, trong đó
phương pháp đo lường gián tiếp được sử dụng khi không có đầy đủ dữ liệu về di cư.


11

Để đạt hiệu quả về kết quả nghiên cứu và chi phí, luận văn sử dụng dữ liệu dựa trên
khảo sát hộ gia đình. Thông qua khảo sát này, luận văn sẽ có được nhiều thông tin
để nghiên cứu về di cư thông qua việc lấy dữ liệu về vốn xã hội và các đặc điểm hộ.
2.1.1.3. Các lý thuyết giải thích di cƣ
Quy luật di cư của Ravenstein (1885, 1889) là học thuyết đặt nền móng cho việc
nghiên cứu di cư cho đến thời điểm hiện tại. Dựa trên nghiên cứu thực nghiệm,
Ravenstein (1885, 1889) lập luận các giả thuyết về di cư như sau: (1) đa số người di
cư di chuyển ở phạm vi ngắn; (2) việc di cư được thực hiện từng bước một; (3)
những người di cư di chuyển xa nhìn chung là di chuyển đến các thành phố công
nghiệp hoặc thương mại lớn; (4) mỗi dòng di cư sẽ tạo ra dòng di cư ngược lại; (5)
phụ nữ có xu hướng di cư nhiều hơn nam giới ở phạm vi trong nước, còn nam giới
thường di cư ra khu vực nước ngoài hơn; (6) hầu hết người di cư là người lớn, gia
đình thường ít khi di cư; (7) quá trình đô thị hóa là thu hút dân số từ các vùng ngoại
ô hơn là gia tăng dân số tự nhiên; (8) sự di cư tăng lên song song với sự phát triển
của công nghiệp và giao thông vận tải; (9) hầu hết sự di cư là từ khu vực nông thôn
sang khu vực thành thị; (10) kinh tế là nhân tố quan trọng nhất khi di cư.
Đến thời điểm hiện tại, việc nghiên cứu di cư đã phát triển hơn với khá nhiều lý
thuyết riêng biệt. Có vài học giả đứng ra để gộp và phân loại về các lý thuyết di cư
đã được công bố, trong đó có hai học giả tác giả muốn đề cập đến, đó là Massey và
cộng sự (1993) và Faist (2000).
Massey và cộng sự (1993) phân chia các lý thuyết di cư thành hai nhóm, đó là sự
mở đầu di cư và sự duy trì di cư. Sự mở đầu di cư bao gồm các lý thuyết giải thích

tại sao di cư lại xảy ra, các lý thuyết này là: lý thuyết di cư tân cổ điển với mức độ
vi mô và vĩ mô, lý thuyết di cư kinh tế mới, lý thuyết thị trường lao động song song
và lý thuyết hệ thống thế giới. Các lý thuyết này giải thích được lý do tại sao di cư
lại bắt đầu nhưng lại không giải thích được tại sao di cư lại duy trì và tiếp tục theo
không gian và thời gian. Do đó, một nhóm thứ hai của các lý thuyết di cư là sự duy
trì di cư đã được đề cập đến, nhóm này bao gồm các lý thuyết sau: lý thuyết mạng
lưới, lý thuyết tổ chức, lý thuyết nguyên nhân tích tụ và lý thuyết hệ thống di cư.


12

Faist (2000) thì chia các lý thuyết di cư thành ba mức độ phân tích, đó là: mức
độ vi mô, mức độ trung mô và mức độ vĩ mô. Ở mức độ vi mô, nguyên nhân dẫn
đến di cư là do mong đợi và nguyện vọng của cá nhân di cư. Mức độ vi mô này gồm
có các lý thuyết là lý thuyết kéo – đẩy, lý thuyết di cư tân cổ điển và lý thuyết hệ
thống xã hội. Ở mức độ trung mô, nguyên nhân dẫn đến di cư là do mạng lưới xã
hội. Mức độ trung mô này gồm có các lý thuyết là lý thuyết vốn xã hội, lý thuyết tổ
chức, lý thuyết mạng lưới, lý thuyết nguyên nhân tích tụ và lý thuyết di cư kinh tế
mới. Ở mức độ vĩ mô, nguyên nhân dẫn đến di cư là do cấu trúc cơ hội mức độ vĩ
mô, chẳng hạn như do sự khác biệt về cơ hội việc làm và thu nhập ở các vùng. Mức
độ vĩ mô này gồm có các lý thuyết là lý thuyết di cư tân cổ điển, lý thuyết hệ thống
di cư, lý thuyết thị trường lao động song song, lý thuyết hệ thống thế giới và lý
thuyết chuyển tiếp di cư. Luận văn nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn xã hội và di
cư, do đó lý thuyết di cư được tác giả sử dụng trong luận văn này là lý thuyết ở mức
độ trung mô mà cụ thể là lý thuyết vốn xã hội. Ngoài ra, để xác định các biến kiểm
soát cho mô hình nghiên cứu của luận văn thì tác giả sẽ tóm lược về nội dung của
các lý thuyết di cư theo cách phân chia của Faist (2000).
a. Mức độ vi mô
a.1. Lý thuyết kéo - đẩy
Lee (1966) cho rằng quyết định di cư được dựa trên bốn nhóm nhân tố kéo –

đẩy, đó là các yếu tố gắn bó với nơi ở gốc, các yếu tố gắn với nơi sẽ di cư đến, các
trở ngại di cư và các nhân tố thuộc về bản thân người di cư.
Theo Lee (1966) thì số lượng di cư sẽ tùy thuộc vào các yếu tố cụ thể sau:
-

Khu vực có mức độ đa dạng hóa cao thì số lượng di cư ở khu vực đó sẽ tăng lên.

-

Con người trong khu vực có sự tương đồng về dân tộc, học vấn, thu nhập, truyền
thống thì số lượng di cư ở khu vực đó giảm xuống.

-

Các rào cản về di cư giảm xuống thì số lượng di cư sẽ tăng lên.

-

Sự lên xuống của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng đến di cư, giai đoạn mở rộng thì số
lượng di cư đến khu vực đó tăng lên, giai đoạn đi xuống thì số lượng di cư đến
khu vực đó sẽ ít lại.


13

-

Số lượng và tỷ lệ di cư có xu hướng tăng lên theo thời gian trừ khi có xuất hiện
sự cản trở.


-

Số lượng và tỷ lệ di cư sẽ thay đổi theo tiến trình thể chế của khu vực đến.

a.2. Lý thuyết di cƣ tân cổ điển
Faist (2000) cho rằng cách tiếp cận vốn con người được dùng để phân tích lý
thuyết di cư tân cổ điển ở mức độ vi mô. Dựa trên nghiên cứu của Sjaastad (1962),
di cư được xem như là quyết định đầu tư cá nhân để tăng năng suất vốn con người.
Mỗi cá nhân sẽ tự tính toán lợi ích – chi phí hợp lý cho mình để đạt được những gì
mình mong đợi trong tương lai. Cách tiếp cận vốn con người khá hữu ích trong việc
giải thích tính chọn lọc của di cư nhưng khá là khó để kiểm chứng bằng phương
pháp thực nghiệm.
a.3. Lý thuyết hệ thống xã hội
Hoffmann-Novotny (1981) đưa ra lý thuyết hệ thống xã hội để nghiên cứu về di
cư. Theo Hoffmann-Novotny (1981), người di cư mong muốn đạt được những điều
tốt đẹp ở nơi đến, nhưng thông thường những điều tốt đẹp lại không xảy ra mà thay
vào đó những căng thẳng tại nơi ở gốc lại chuyển hóa thành một hình thức khác ở
nơi ở mới. Mức độ thành công của việc di cư phụ thuộc vào việc phân phối xã hội.
Một người di cư đến từ một nơi mà tại đó họ ở tầng lớp xã hội thấp thì khi đến nơi ở
mới, họ cũng dường như không trở thành tầng lớp xã hội cao hơn. Học thuyết này
đặt nhân tố kinh tế trong quy mô rộng hơn để xem xét việc gì sẽ xảy ra khi người di
cư đi đến vùng đất mới. Học thuyết này cũng rất khó để áp dụng trong nghiên cứu
thực nghiệm.
b. Mức độ trung mô
b.1. Lý thuyết vốn xã hội
Các mối quan hệ xã hội, vốn xã hội trong gia đình, hàng xóm, cộng đồng và các
tổ chức chính thức giúp người di cư ra quyết định di cư và hòa nhập cuộc sống.
Theo Haug (2008), có năm giả thuyết về mối quan hệ giữa di cư và vốn xã hội:



14

 Giả thuyết sự giống nhau về cấu trúc: Sự tồn tại của họ hàng và bạn bè ở nơi
sinh sống làm giảm di cư. Lúc này, mạng lưới xã hội ở nơi sinh sống được gọi là
nhân tố ngăn di cư.
 Giả thuyết thông tin: Khi họ hàng và bạn bè đang sống ở nơi khác thì sẽ tăng di
cư. Thêm vào đó, việc di cư trở nên thu hút hơn vì lúc này các cá nhân đã biết
điều kiện sống ở nơi đến thông qua họ hàng và bạn bè. Lúc này, mạng lưới xã
hội ở nơi di cư đến là nhân tố kéo di cư.
 Giả thuyết thuận tiện: Họ hàng và bạn bè khuyến khích và lan truyền sự di cư
đến nơi mà họ di cư từ đó. Lúc này, mạng lưới xã hội ở nơi di cư đến là nhân tố
kéo di cư.
 Giả thuyết mâu thuẫn: Sự mâu thuẫn giữa gia đình với cộng đồng làm tăng di
cư. Lúc này, vốn xã hội ở nơi sinh sống là nhân tố đẩy di cư.
 Giả thuyết khuyến khích: Gia đình khuyến khích các thành viên di cư. Lúc này,
mạng lưới xã hội ở nơi sinh sống là nhân tố đẩy di cư.
Luận văn chú trọng vào giả thuyết sự giống nhau về cấu trúc, giả thuyết mâu
thuẫn và giả thuyết khuyến khích. Lý do luận văn tập trung vào các giải thuyết này
vì các giả thuyết này được xét ở phạm vi vốn xã hội địa phương, trong khi đó hai
giải thuyết thông tin và giả thuyết thuận tiện thì xét mối quan hệ giữa những người
sống ở nơi khác với những người dân địa phương để nói về vốn xã hội. Vì số liệu
hạn chế nên luận văn không sử dụng giả thuyết khyến khích trong nghiên cứu.
b.2. Lý thuyết tổ chức
Theo Massey và cộng sự (1993), một khi di cư diễn ra thì các tổ chức cá nhân và
tổ chức tình nguyện sẽ thành lập để đáp ứng nhu cầu của những người dân muốn
nhập cư khi mà con số tiếp nhận của địa phương thấp. Ngoài ra, các tổ chức nhân
quyền tình nguyện cũng hình thành ở các nước phát triển để đảm bảo quyền cho
người nhập cư.
Theo Goss và Lindquist (1995), những tổ chức này góp phần giúp duy trì luồng
di cư, do đó làm việc di cư diễn ra nhiều hơn và lan rộng hơn trong một cộng đồng.

b.3. Lý thuyết mạng lƣới


15

Theo Massey và cộng sự (1993), mạng lưới di cư là một tập hợp các mối quan
hệ giữa các cá nhân với nhau để kết nối giữa người di cư, người đã từng di cư và
người chưa di cư ở nơi ở gốc và nơi ở mới với nhau. Sự kết nối mạng lưới hình
thành nên một dạng của vốn xã hội mà các thành viên có thể dựa vào đó để tìm
kiếm được công việc ở nơi ở mới. Một khi số lượng người di cư đạt đến mức nào đó
thì việc mở rộng mạng lưới sẽ làm giảm chi phí và rủi ro gặp phải khi di cư, do đó
làm việc di cư tăng lên và mạng lưới di cư cũng sẽ rộng hơn.
b.4. Lý thuyết nguyên nhân tích tụ
Massey và cộng sự (1993) cho rằng cho tới hiện nay, các nhà khoa học xã hội
đang thảo luận về sáu nhân tố kinh tế - xã hội tác động đến di cư theo lý thuyết
nguyên nhân tích tụ, đó là: sự phân phối thu nhập, sự phân phối đất, tổ chức nông
nghiệp, văn hóa, phân phối vốn con người trong vùng và ý nghĩa xã hội của công
việc.
Về phân phối thu nhập, theo Stark và cộng sự (1986) thì trước đây khi chưa có
di cư xảy ra, sự bất bình đẳng thu nhập trong các hộ nông thôn nghèo không quá lớn
bởi vì các gia đình chỉ chi tiêu ở mức đủ sống với khoản thu nhập rất nhỏ từ bên
ngoài. Tuy nhiên, sau khi có một số người di cư để tham gia vào lực lượng lao động
bên ngoài thì khoản tiền gia đình nhận được từ họ làm tăng thu nhập của gia đình.
Thu nhập của các gia đình có người di cư tăng lên làm cho các gia đình có mức thu
nhập thấp còn lại có động lực để di cư. Cứ như vậy, bất bình đẳng thu nhập lại càng
tăng lên, rồi lại càng làm cho người dân có động lực di cư. Việc di cư này sẽ dần kết
thúc khi mọi gia đình đều có người di cư vì lúc đó bất bình đẳng thu nhập không
còn cao nữa.
Về phân phối đất, theo Rhoades (1978) một trong những mục tiêu quan trọng
của người di cư từ vùng nông thôn là mua đất. Tuy nhiên, vì tiền lương họ nhận

được khi làm việc ở nơi di cư cao hơn là lợi nhuận nhận được từ nông nghiệp nên
họ không sử dụng đất này để sản xuất nông nghiệp mà dùng để nghỉ ngơi khi về
hưu hoặc để khẳng định danh tiếng của mình. Do đó, việc này đã làm giảm nhu cầu
về lao động nông nghiệp, dẫn đến việc di cư lại càng nhiều hơn.


16

Về tổ chức nông nghiệp, theo Massey và cộng sự (1993), vì tiếp cận được nguồn
vốn nhiều hơn nên hộ gia đình có người di cư khi làm nông nghiệp trên mảnh đất
của họ thì họ sẽ sử dụng nhiều phương pháp thâm dụng vốn hơn là những hộ gia
đình không có người di cư. Do đó, những hộ gia đình có người di cư lại càng cần ít
lao động trong hoạt đông nông nghiệp hơn và hình thành áp lực di cư. Như vậy,
càng di cư nhiều, vốn cho nông nghiệp càng nhiều, lại càng ít nhu cầu lao động
nông nghiêp, dẫn đến di cư lại càng tăng.
Về văn hóa, theo Piore (1979), khi di cư trở nên phổ biến trong cộng đồng thì nó
sẽ thay đổi nhận thức về văn hóa và giá trị theo cách mà sẽ làm tăng di cư trong
tương lai. Những người di cư được trải nghiệm trong nền kinh tế công nghiệp tiên
tiến sẽ thay đổi thói quen, cách sống của mình mà cuộc sống ở nơi ở gốc khó đáp
ứng được. Theo Reicher (1982), ở mức độ cộng đồng thì việc di cư sẽ ăn sâu vào
trong hành vi và giá trị của cộng đồng đó. Những người trẻ xem việc không di cư là
biểu hiện của lười biếng, của người không có ước mơ.
Về phân phối vốn con người trong vùng, theo Greenwood và cộng sự (1987)
việc di cư sẽ làm suy yếu vốn con người ở nơi ở gốc trong khi tăng cường vốn con
người ở nơi ở mới. Dần dần, nơi ở mới sẽ có nền kinh tế phát triển vì có sự tập
trung của vốn con người và lại càng làm cho di cư diễn ra nhiều hơn.
Về ý nghĩa xã hội của công việc, theo Piore (1979) thì khi một lượng đáng kể
người nhập cư nhận được công việc cụ thể nào đó thì công việc này sẽ được mặc
định là việc của người nhập cư và người dân địa phương sẽ miễn cưỡng tiếp nhận
công việc này, do đó củng cố thêm cấu trúc nhu cầu về người nhập cư. Người nhập

cư thay đổi định nghĩa xã hội về công việc, tạo nên các tầng lớp công việc được
xem là dành cho người có học vấn thấp và không phù hợp với người dân địa
phương. Những công việc như vậy tạo chỗ đứng cho dân nhập cư và do đó làm tăng
lượng di cư.
b.5. Lý thuyết di cƣ kinh tế mới
Theo Stark và Levhari (1982) thì điểm cốt lõi trong cách tiếp cận này là quyết
định di cư không phải là quyết định riêng cá nhân đó mà còn là quyết định của


17

những cá nhân khác có liên quan, thông thường là gia đình và hộ gia đình. Việc ra
quyết định được dựa trên không chỉ là để tối đa hóa thu nhập và lương mà còn để đa
dạng hóa thu nhập và giảm rủi ro. Từ đây có thể thấy rằng gia đình và hộ đóng vai
trò phù hợp trong việc quản lý rủi ro cho kinh tế gia đình và hộ bằng việc đa dạng
hóa nguồn kiếm thu nhập và nguồn lực của hộ thông qua các hoạt động khác nhau
cũng như thông qua việc phân bổ nguồn lao động theo không gian và thời gian.
c. Mức độ vĩ mô
c.1. Lý thuyết di cƣ tân cổ điển
Theo Faist (2000) thì học thuyết này giải thích di cư là một phần của phát triển
kinh tế. Harris và Todaro (1970) giả định rằng thị thường hoàn hảo và luôn có dư
cung lao động ở khu vực nông nghiệp và lượng dư này sẽ được hấp thụ bởi khu vực
hiện đại. Khu vực hiện đại phát triển thông qua sự tích tụ vốn và hấp thụ lao động từ
khu vực truyền thống. Người lao động nông thôn bị thu hút bởi mức lương hấp dẫn
và do đó sẽ di cư đến khu vực thành thị. Việc di cư này sẽ tiếp tục đến khi có sự cân
bằng mức lương xảy ra.
c.2. Lý thuyết hệ thống di cƣ
Mabogunje (1970) xem di cư như là một hệ thống và giải thích di cư như là một
tiến trình không gian năng động. Luồng di cư và sự tương tác được hình thành với
một nhóm những người di cư tiềm năng. Luồng di cư sẽ bị tác động bởi các nhân tố

ở nơi ở gốc và nơi ở mới bởi các phản hồi từ những người di cư, bởi môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội, giao thông và liên lạc. Những nhân tố này thay đổi theo
thời gian làm cho luồng di cư trở nên năng động. Tuy nhiên, học thuyết hệ thống di
cư này không thể đưa ra được các dự đoán cụ thể về luồng di cư.
c.3. Lý thuyết thị trƣờng lao động song song
Piore (1979) lập luận rằng di cư lao động quốc tế diễn ra là do các nhân tố kéo.
Nhu cầu cần có lực lượng lao động linh hoạt và rẻ đã dẫn tới việc hình thành thị
trường lao động song song: một thị trường lao động được bảo đảm, lương cao và
một thị trường lao động với công việc đòi hỏi kỹ năng thấp với mức lương thấp và
không được bảo đảm. Việc làm trong khu vực mức lương thấp biến động theo vòng


18

quay kinh tế, do đó, nó không ổn định và không bảo đảm nên không thu hút người
lao động địa phương. Còn những người di cư thì có động lực để làm công việc này
vì họ không xem họ là một phần của xã hội di cư đến. Cuối cùng hình thành dòng
người di cư đến khu vực thành thị.
c.4. Lý thuyết hệ thống thế giới
Học thuyết hệ thống thế giới của Wallerstein (1974) nhấn mạnh vai trò của tình
trạng chia rẽ và trục trặc trên thế giới do sự mở rộng của chủ nghĩa thực dân và chủ
nghĩa tư bản trong giai đoạn cận đại. Điều này dẫn đến đất đai được giải phóng,
hình thành phương pháp nông nghiệp tư bản chủ nghĩa mới và các công ty sản xuất
được hình thành làm cho một bộ phận dân chúng không còn gắn với ruộng đất và có
xu hướng di cư. Thêm vào đó nhu cầu lớn về lao động nhập cư ở các thành phố là
một nhân tố kéo của việc di cư. Theo học thuyết này, việc di cư sẽ theo sau sự năng
động của việc hình thành thị trường và cấu trúc của kinh tế toàn cầu, nhưng động
lực di cư của từng cá nhân thì cần phải xem xét thêm.
c.5. Lý thuyết chuyển tiếp di cƣ
Giả thuyết về sự chuyển tiếp di cư của Zelinsky (1971) cho rằng mô hình di cư

gồm năm bước và các bước này được dựa trên mô hình tăng trưởng của Rostow.
Năm bước trong giả thuyết của Zelinsky (1971) bao gồm:
 Xã hội truyền thống tiền hiện đại: rất ít di cư, chủ yếu là di chuyển nội bộ do các
lý do về kết hôn hoặc quảng bá sản xuất nông nghiệp.
 Xã hội chuyển đổi ban đầu: di cư nông thôn - thành thị hàng loạt, việc nhập cư
đến các khu vực nước ngoài là do thiết lập và xâm chiếm thuộc địa.
 Xã hội chuyển đổi sau này: việc di cư giảm lại.
 Xã hội tiên tiến: di cư nông thôn – thành thị được thay bằng di cư nội bộ thành
thị, di cư của những người công nhân kỹ năng thấp từ các nước kém phát triển,
vòng tuần hoàn di cư quốc tế của người lao động có kỹ năng cao và chuyên gia,
vòng tuần hoàn di cư nội bộ vì mục đích kinh tế và giải trí.
 Xã hội cực tiên tiến trong tương lai: hệ thống phân phối và liên lạc tốt hơn cho
phép giảm di cư.


×