Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Vấn đề vi phạm đạo đức báo chí của nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------------

HOÀNG MINH HẠNH

VẤN ĐỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
CỦA NHÀ BÁO TRÊN BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội, 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------------------------

HOÀNG MINH HẠNH

VẤN ĐỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
CỦA NHÀ BÁO TRÊN BÁO MẠNG
ĐIỆN TỬ HIỆN NAY

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60320101
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS,TS. Đinh Văn Hƣờng



Hà Nội, 2015
2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Vấn đề vi phạm đạo đức báo chí của nhà
báo trên báo mạng điện tử hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của PGS,TS. Đinh Văn Hƣờng. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất
kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ trong việc thực hiện luận văn
này đã đƣợc cảm ơn và những thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã đƣợc
chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả

Hoàng Minh Hạnh

3


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn “Vấn đề vi phạm đạo đức báo chí
của nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay”, tôi đã nhận đƣợc rất nhiều sự
giúp đỡ quý báu từ các thầy cô bộ môn Báo chí học – Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin trân trọng cảm ơn BGH Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
cùng tập thể thầy cô giáo bộ môn Báo chí học đã hết sức tạo điều kiện cho tôi

thực hiện luận văn của mình.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cám ơn PGS,TS. Đinh Văn Hƣờng, ngƣời
đã luôn tận tình chia sẻ những hiểu biết, kiến thức và kinh nghiệm để giúp tôi
định hƣớng đƣợc đƣờng đi, thực hiện luận văn một cách tốt nhất.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn ở bên, động viên, giúp đỡ tôi
trong thời gian vừa qua.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất hy vọng nhận đƣợc những ý kiến góp ý từ
thầy cô, bạn bè, những phóng viên, nhà báo, những nhà nghiên cứu hoặc
ngƣời quan tâm đến vấn đề này để có thể hoàn thiện và phát triển đề tài ở cấp
độ cao hơn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả
Hoàng Minh Hạnh

4


DANH MỤC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN VĂN

Trang
Hình 2.1: Biểu đồ sử dụng cụm từ “cán chết” và “tử vong”

55

Hình 2.2. Biểu đồ đưa tin về bà Tưng

57

Hình 2.3. Giao diện chuyên trang Tấm Gương báo Tiền phong


59

Hình 2.4. Giao diện trang chủ báo Thanh Niên

60

Hình 2.5. Ảnh chụp giao diện kết quả tìm kiếm google về lá thư gửi

66

bố nơi đảo xa

5


DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TÊN BÁO
TÊN MIỀN
VnExpress
VnExpress.net
Vietnamnet
Vietnamnet.vn
Dân trí
Dantri.com.vn
Tuổi Trẻ
Tuoitre.vn
Thanh Niên
www.thanhnien.com.vn
Pháp luật TP.HCM

phapluattp.vn
Lao động
Laodong.com.vn
Ngƣời lao động
Nld.com.vn
Kiến thức
Kienthuc.net.vn
Zing
News.zing.vn
Báo Đất Việt
Baodatviet.vn
Gia đình Việt Nam
www.giadinhvn.vn
Ngôi sao
Ngoisao.net
VTC
Vtc.vn
Năng lƣợng mới
petrotimes.vn
VOV
vov.vn
An Ninh Thủ Đô
anninhthudo.vn
Giáo dục
giaoduc.net.vn
Dân Việt
Danviet.vn
Đời sống pháp luật
www.doisongphapluat.com
Công an nhân dân

cand.com.vn
Infonet
Infonet.vn
Thế giới vi tính
www.pcworld.com.vn
Phụ nữ Việt Nam
/>Kinh doanh & Pháp luật
kinhdoanhnet.vn
Sức khỏe Đời sống
suckhoedoisong.vn
Gia đình Việt Nam
www.giadinhvn.vn
Phụ nữ Today
phunutoday.vn

6


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................... 9
2. Tình hình nghiên cƣ́u liên quan đến đề tài................................................ 11
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cƣ́u ................................................................ 15
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................................ 15
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cƣ́u: .............................................. 16
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: .................................................... 16
7. Cấu trúc của luận văn: ............................................................................... 17
Chƣơng 1: QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ .......................................................... 18
1.1. Quan niệm về đạo đức nhà báo ............................................................... 18
1.2. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật .................................................. 28

1.3. Những yêu cầu về đạo đức nhà báo ở Việt Nam .................................... 33
1.4. Về Báo mạng điện tử............................................................................... 40
1.5. Những vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trên Báo mạng điện
tử......................................................................................................................41
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1.................................................................................. 54
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ HIỆN NAY ............................................... 56
2.1 Những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trên báo
mạng điện tử hiện nay ..................................................................................... 56
7


2.2. Nguyên nhân hiện tƣợng vi phạm đạo đức của nhà báo trên báo mạng
điện tử hiện nay ............................................................................................... 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.................................................................................. 97
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG VI PHẠM ĐẠO ĐỨC CỦA NHÀ BÁO TRÊN BÁO
MẠNG ĐIỆN TỬ. ......................................................................................... 98
3.1.Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về báo chí ...................................... 98
3.2.Nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo, quản lý báo chí. ............................ 105
3.3.Nâng cao trình độ đội ngũ phóng viên/ biên tập viên ............................. 107
3.4.Nâng cao văn hóa tiếp nhận và tham gia cho công chúng ...................... 118
KẾT LUẬN .................................................................................................. 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 124

8


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nghề nghiệp nào cũng cần có những quy định, những chuẩn mực riêng
trong hoạt động của mình và nghề làm báo cũng không phải là một ngoại lệ.
Thật khó hình dung nổi nếu nhƣ đời sống xã hội, nhất là một xã hội văn minh,
lại thiếu đi hoạt động của phƣơng tiện thông tin đại chúng. Tính từ khi tờ báo
đầu tiên ra đời (năm 1690), trong bốn thế kỷ tồn tại, báo chí đã trở thành
phƣơng tiện, đồng thời trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đƣợc của
con ngƣời. Nói cách khác, báo chí đã tự xác định cho mình những chức năng
to lớn phục vụ con ngƣời và phục vụ cho sự tồn tại, phát triển xã hội loài
ngƣời. Ngƣợc lại, con ngƣời càng phát triển, xã hội càng phát triển, càng đòi
hỏi nhiều hơn và tạo ra những khả năng mới, kỳ diệu cho việc thu nhận,
chuyển tải và tái hiện thông tin - tức là cho hoạt động báo chí. Hoạt động báo
chí thuộc về hoạt động chính trị - xã hội liên quan mật thiết đến tƣ tƣởng,
tình cảm của con ngƣời. Ở đó, dù khách quan đến mức nào, ngƣời làm báo
cũng bộc lộ cách nhìn, thái độ, phƣơng pháp tiếp cận và sự bình giá của mình
đối với những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Và bằng tầm ảnh hƣởng rộng
lớn của mình, có thể hiểu rằng báo chí góp phần định hƣớng cho sự hình
thành tƣ tƣởng của mỗi ngƣời và sự thống nhất cao trên phạm vi toàn xã hội.
Tìm hiểu, nghiên cứu về đạo đức nhà báo không chỉ cần thiết cho những
ngƣời làm báo chí, truyền thông mà ngay cả đối với những ngƣời tiếp nhận
thông tin điều này cũng vô cùng cần thiết bởi trong xu hƣớng phát triển của
báo chí hiện đại, ranh giới giữa nhà báo và công chúng tiếp nhận đang ngày
càng đƣợc rút ngắn, xóa nhòa.
Trong những thập kỷ gần đây, bƣớc nhảy vọt của kỹ thuật truyền thông
là một trong những hiện tƣợng gây tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội,
9


làm thay đổi bản chất xã hội cũng nhƣ đời sống tâm lý, các chuẩn mực văn
hóa và thói quen của con ngƣời. Sự ra đời và phát triển của Internet đã tạo
tiền đề cho sự ra đời và phát triển của báo mạng điện tử - loại hình báo chí

mới mẻ với những đặc điểm không một loại hình báo chí nào cạnh tranh đƣợc
nhƣ khả năng đa phƣơng tiện (multimedia), tính tƣơng tác cao, khả năng
truyền tải thông tin không hạn chế, tính thời sự và phi định kì khiến cho thông
tin trên báo mạng điện tử là thông tin sống động nhất, nóng nhất, tƣơi mới
nhất vì có thể cập nhật từng giờ, từng phút, thậm chí từng giây. Nhƣng đi kèm
với những tiện ích đó, vấn đề đạo đức báo chí trong môi trƣờng truyền thông
kỹ thuật số lại càng trở thành một vấn đề thời sự nóng bỏng hiện nay. Những
khối lƣợng thông tin lớn đƣợc chuyển tải tin tức từng giây, từng phút trên các
trang báo mạng, trang thông tin điện tử khiến con ngƣời không còn đủ khả
năng kiểm soát thông tin. Hiện tƣợng vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng
điện tử đang xuất hiện ngày càng nhiều hơn và trở thành nỗi lo của nhiều
ngƣời có trách nhiệm và dƣ luận xã hội.
Trong một vài năm trở lại đây, sự phát triển mạnh mẽ của Công nghệ
thông tin, đặc biệt là sự xuất hiện của Mạng xã hội đã đẩy các trang báo điện
tử ở Việt Nam vào một cuộc đua khốc liệt trong việc truyền tải thông tin. Chỉ
với một chiếc điện thoại thông minh có khả năng truy cập Internet và một
trang cá nhân trên mạng xã hội, bất cứ công dân nào cũng có thể trở thành
ngƣời đƣa tin. Đối với hoạt động báo chí, sự xuất hiện của Mạng xã hội giống
nhƣ con dao hai lƣỡi, và trong cuộc đua khốc liệt để truyền tải thông tin ấy, đã
không ít ngƣời làm báo phạm phải sai lầm khi lạm dụng mạng xã hội mà đánh
mất đi lƣơng tâm nghề nghiệp của ngƣời cầm bút. Luận văn tập trung nghiên
cứu chủ yếu vào sự sa sút về mặt chất lƣợng của báo mạng điện tử hiện nay,
mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do vi phạm đạo đức nghề nghiệp
10


của các nhà báo, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục, hạn chế và
giảm thiểu tối đa hiện tƣợng này.
2. Tình hình nghiên cƣ́u liên quan đến đề tài
2.1. Trên thế giới

Báo chí xuất hiện trên thế giới từ đầu thế kỷ 17. Trải qua quá trình phát
triển vài trăm năm, vấn đề đạo đức, nghề nghiệp của nhà báo luôn đƣợc quan
tâm. Đã có rất nhiều cuốn sác đề cập hoặc nghiên cứu vấn đề này một cách hệ
thống và bài bản. Tiêu biểu phải kể đến những cuốn nhƣ:
+ The Elements of Journalism (Những yếu tố của nghề báo) của tác giả
Bill Kovach & Tom Rosenstiel. Với lời đề tựa: “Điều mà những ngƣời làm
báo nên biết và công chúng nên đòi hỏi”, hai tác giả, bằng ngòi bút sắc sảo
phân tích nền báo chí Mỹ: điểm mạnh và điểm yếu. Các tác giả cũng dành
nhiều trang để nêu những nguyên tắc căn bản của nghề báo trong đó nguyên
tắc tôn trọng sự thật đƣợc đặt lên hàng đầu.
+ The Principles of Multimedia Journalism (Những nguyên tắc của báo
chí đa phƣơng tiện). Tác giả Richard Hernandez và Jeremy Rue đều là những
nhà báo giàu kinh nghiệm. Hai tác giả đã hệ thống hóa, phân loại các đặc tính
của tác phẩm báo chí trên nền tảng kĩ thuật số. Bằng cách đó, các tác giả đã
tạo cơ hội cho các sinh viên báo chí và các chuyên gia một cách để hiểu về
tầm quan trọng trong việc dàn dựng câu chuyện trong một kỷ nguyên hội tụ.
+ Gatekeeping in Transition (Kiểm duyệt báo chí). Tác giả: Tim P.Vos,
Francois Heinderyckx. Báo chí đang thay đổi từng ngày: từ cách sản xuất, loại
hình, phƣơng tiện lẫn các kênh chuyển tải. Với những thực tế thay đổi đó,
việc kiểm duyệt báo chí có thay đổi gì không? Cuốn sách trả lời câu hỏi đó.

11


+ Ethics for Digital Journalists (Đạo đức cho Nhà báo kỹ thuật số). Tác
giả Lawrie Zion, David Craig. Sự phát triển mạnh mẽ của báo mạng điện tử
đã dẫn đến những sự phức tạp trong đạo đức nghề nghiệp của báo chí. Trong
khi những nguyên tắc đạo đức truyền thống không thay đổi nhiều thì việc áp
dụng nó lên một nền tảng điện tử lại đầy khó khăn và thách thức. Trong cuốn
Ethics for Digital Journalists, hai tác giả đã phỏng vấn những nhà báo kinh

nghiệm và các học giả nghiên cứu về báo chí nhằm đƣa ra những cách thực
hành tích cực nhất cho báo chí kỹ thuật số.
+ Journalism Ethics: Arguments and Cases for the 21st Century (Đạo
đức báo chí: Lý luận và Dẫn chứng cho thế kỷ 21 ). Tác giả: Roger Patching,
Martin Hirst. Cuốn sách đề cập cả lý thuyết và thực hành của đạo đức báo chí.
+ Explorations in Global Media Ethics (Khám phá đạo đức truyền
thông thế giới). Tác giả: Muhammad Ayish, Shakuntala Rao. Cuốn sách đƣợc
xuất bản trong series Nghiên cứu về báo chí.
+ Principles of American Journalism: An Introduction (Những nguyên
tắc của Báo chí Mỹ: Phần giới thiệu). Tác giả: Stephanie Craft và Charles
N.Davis. Đây là cuốn sách giới thiệu cho các sinh viên báo chí giá trị cốt lõi
của báo chí và vai trò quan trọng của nó trong xã hội dân chủ.
+ The New Ethics of Journalism: A Guide for the 21 st Century (Những
quy tắc đạo đức mới cho báo chí: Một sự chỉ đƣờng cho thế kỷ 21). Tác giả:
Kelly McBride và Tom Rosenstiel. Tác phẩm bao gồm các chƣơng thể hiện
quyền, trách nghiệm của các nhà báo (vd: giá trị, văn hóa đƣa tin), những bối
cảnh liên quan (chủ sở hữu, độc giả, kinh tế học, công dân) và những điểm áp
lực (sự chính xác, xung đột lợi ích, thành kiến, đƣa tin về những đối tƣợng dễ
bị tổn thƣơng).

12


Ở Việt Nam, một số nghiên cứu của các học giả ngƣời Nga đƣợc dịch
ra tiếng Việt phải kể đến: “Những vấn đề cơ bản của đạo đức nghề nghiệp
nhà báo” (G.V.Ladutina), “Cơ sở lý luận của báo chí” tập 2 (E.P.Prôkhôrốp),
“Cơ sở hoạt động sáng tạo của nhà báo” (G.V.Lazutina), “Nghiệp vụ báo chí
lý luận và thực tiễn” (V.V.Vôrôsilốp), “Báo chí hiện đại nước ngoài: Những
quy tắc và nghịch lý” (X.A.Mikhailốp), “Giao tiếp trên truyền hình trước ống
kính và sau ống kính camera” (X.A.Muratốp), “Báo chí điều tra”

(A.A.Chertƣchơnƣi), “Truyền thông, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em” (Helena
Thorfinn)
2.2. Ở Việt Nam
Vấn đề đạo đức báo chí từ lâu đã đƣợc nhiều học giả quan tâm nghiên
cứu tại Việt Nam. Có thể kể đến một số cuốn sách tiêu biểu nhƣ: “Nghề báo
nghiệp văn” – tác giả Phan Quang, nhà xuất bản Thông tấn năm 2005, “Cẩm
nang đạo đức báo chí” – tác giả GS, TS Tạ Ngọc Tấn, PGS, TS Đinh Thị
Thúy Hằng, 2009, “Đạo đức về nghề nghiệp của nhà báo” – tác giả Nguyễn
Thị Trƣờng Giang, nhà xuất bản Chính trị - Hành chính năm 2011 , “Một số
nội dung cơ bản về nghiệp vụ báo chí xuất bản”, Nhiều tác giả, NXB Thông
tin và Truyền thông, 2012, Một số văn bản chỉ đạo và quản lý của Đảng, Nhà
nước về Hoạt động Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông, NXB Thông tin
và Truyền thông, 2012, “Đạo đức Nghề Báo: Những vấn đề lý luận và thực
tiễn” – tác giả: PGS. TS Hoàng Đình Cúc, NXB Chính trị Quốc gia, “100 quy
tắc đạo đức nghề báo trên thế giới” – tác giả: TS.Nguyễn Thị Trƣờng Giang,
NXB Chính trị Quốc gia, 2014. Tuy nhiên ở các đầu sách này, vấn đề đạo đức
nhà báo đƣợc khái quát là một trong những yêu cầu trong hoạt động nghề
nghiệp của ngƣời làm báo.

13


Ngoài ra, một số Hội thảo khoa học trong nƣớc cũng có bàn về đạo đức
nghề nghiệp của nhà báo nhƣ:
+ Hội thảo "Trách nhiệm xã hội và đạo đức báo chí trong kỷ nguyên
kỹ thuật số" do Khoa Báo chí và Truyền thông (Trƣờng ĐH KHXH&NV,
ĐHQGHN) phối hợp với Viện KAS (CHLB Đức) tổ chức ngày
10/06/2015. Hội thảo là một trong những hoạt động thiết thực kỷ niệm 90
năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam.
+ Hội thảo "90 năm báo chí cách mạng Việt Nam: Truyền thống, bản

lĩnh và trách nhiệm" do Ban Tuyên giáo Trung ƣơng, Bộ Thông tin và Truyền
thông và Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 18/6/2015 tại Hà
Nội.
+ Hội thảo “Đạo đức báo chí trong khai thác và xử lý nguồn tin” do
Hội Nhà báo Khánh Hòa tổ chức ngày 26/09/2014.
+ Hội thảo “Đạo đức nghề báo trong bối cảnh toàn cầu hóa thông tin”
do Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với Viện KAS (Konrad Adenauer
Stiftung) tổ chức ngày 17/3/2014.
Kế thừa những cơ sở lý luận nền tảng, cập nhật thêm những kiến thức
mới về truyền thông hội tụ, về mạng xã hội, luận văn này tập trung đi sâu vào
một khía cạnh rõ ràng, nhất quán, trong một phạm vi nhất định, đó là Vấn đề
vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay – dựa trên việc khảo
sát phản ứng của một số báo mạng điện tử trong năm 2013 và 2014 trƣớc một
số hiện tƣợng truyền thông nổi cộm.

14


3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cƣ́u
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng vấn đề
đạo đức nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay. Từ đó, đề xuất những giải
pháp để nâng cao đạo đức nghề nghiệp của ngƣời làm báo nói chung và báo
mạng điện tử nói riêng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn tập trung nghiên cứu những nhiệm
vụ sau:
-

Làm rõ những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận và thực tiễn của


-

Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm đạo đức nghề

đề tài.

nghiệp của những ngƣời làm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay.
-

Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao đạo

đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam nói chung, và đội ngũ làm báo mạng
điện tử nói riêng.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là vấn đề vi phạm đạo đức báo chí
của nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát phản ứng của một số báo mạng có số lƣợng
độc giả lớn ở Việt Nam hiện nay với các vấn đề nổi bật trong giới truyền
thông trong năm 2013 và 2014.
15


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cƣ́u:
5.1 Cơ sở lý luận
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc Việt
Nam về công tác tƣ tƣởng và báo chí; lý luận báo chí về vai trò, chức năng và

nguyên tắc hoạt động của báo chí; chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp báo chí
và sự tác động qua lại giữa đạo đức và các hình thái ý thức xã hội khác.
5.2 Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể


Phƣơng pháp phân tích nội dung: Dùng để phân tích nội dung

các tác phẩm báo chí trên báo mạng điện tử (bao gồm cả những bài viết, hình
ảnh, những video clip hoặc những đoạn âm thanh) và những câu trả lời thu
đƣợc qua phỏng vấn sâu.


Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Đƣợc sử dụng dùng để phỏng

vấn một số phóng viên, biên tập viên, nhà quản lý báo chí, nghiên cứu báo
chí, công chúng nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá nhân về thực trạng đạo
đức nghề nghiệp của nhà báo hiện nay cũng nhƣ nhận thức của họ về vấn đề
này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đổi mới và làm phong phú
thêm lý luận báo chí, truyền thông hiện đại và thực tiễn của báo mạng điện tử
hiện đại và vấn đề vi phạm đạo đức của nhà báo trên báo mạng điện tử ở Việt
Nam hiện nay.

16


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là một trong những cơ sở để các tổ

chức, cá nhân sau đây tham khảo và vận dụng:
-

Các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí;

-

Các tòa soạn báo chí;

-

Các cơ sở đào tạo báo chí;

-

Các phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí

-

Những ai quan tâm lĩnh vực này

-

Cho chính tác giả luận văn

7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chƣơng, 14 tiết, 116 trang.
Nội dung của luận văn đƣợc trình bày theo thứ tự các chƣơng sau đây:
Chƣơng 1: Quan niệm về đạo đức nhà báo và lý luận chung về báo

mạng điện tử.
Chƣơng 2: Thực trạng vấn đề vi phạm đạo đức nhà báo trên báo mạng
điện tử hiện nay
Chƣơng 3: Bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp, kiến nghị để
khắc phục vấn đề vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trên báo mạng
điện tử.

17


Chƣơng 1: QUAN NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC NHÀ BÁO VÀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ

1.1.

Quan niệm về đạo đức nhà báo

1.1.1 Khái niệm “đạo đức” và “đạo đức nghề nghiệp”
Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm “Đạo đức”. Theo định
nghĩa của sách giáo khoa Giáo dục công dân bậc Trung học phổ thông, “Đạo
đức là hệ thống các quy tắc chuẩn mực xã hội, mà nhờ đó con người tự giác
điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng và của xã
hội. Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định có những quan niệm về đạo đức khác
nhau”. Và cần phân biệt rất rõ khái niệm “đạo đức” và “pháp luật”. Dù cùng
có mục đích để điều chỉnh hành vi của con ngƣời, nhƣng đạo đức đƣợc thực
hiện dựa trên sự tự giác của con ngƣời với các chuẩn mực do xã hội đề ra, còn
pháp luật đƣợc thực thi một cách bắt buộc, theo những quy tắc, quy định bằng
văn bản chính thống do nhà nƣớc đề ra.
Tham khảo trên Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia, “ “Đạo đức” là
một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản

thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của
một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế
giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho
phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội.”.
Đứng trên khía cạnh khác, “Đạo đức” là một hình thái ý thức xã hội, là
tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con ngƣời tự
giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc
của con ngƣời, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ
18


cá nhân –xã hội. Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều
chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con ngƣời với nhau trong quan hệ xã hội
và quan hệ với tự nhiên.
Theo giáo trình “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông”, các tác giả Dƣơng Xuân
Sơn, Đinh Văn Hƣờng, Trần Quang thì: "Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc
được xã hội thừa nhận, quy định hành vi của con người đối với nhau và đối với xã
hội. Các nguyên tắc đạo đức giống như những chiếc máy điều chỉnh hành vi của con
người, nhưng không mang tính chất cưỡng chế mà mang tính tự giác (...) Trên cơ sở
lí tưởng và trách nhiệm đạo đức đã hình thành nên quan niệm về lương tâm và lòng
tự trọng của nhà báo chuyên nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm các nguyên tắc
xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn. Căn cứ vào những
tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính chất của những hành vi, mỗi nhà báo sẽ phải
chịu đựng sự tự xỉ vả, xấu hổ, phải tự kết tội, hoặc được khích lệ, tự hào, phấn khởi
và hạnh phúc" – [19, tr. 252]
Đạo đức nghề nghiệp: là một bộ phận của đạo đức xã hội, là đạo đức cụ
thể trong đạo đức chung của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp xuất hiện để là tên
gọi khoa học về cách sử dụng nghề nghiệp của con ngƣời (Déon: bổn phận
cần phải làm, logos: học thuyết - Déontologic đƣợc nhà triết học Anh Bentam
sử dụng có ý nghĩa là nghĩa vụ luận, đạo đức nghề nghiệp).

Đạo đức nghề nghiệp là những yêu cầu đạo đức đặc biệt, có liên quan
đến việc tiến hành một hoạt động nghề nghiệp nào đó; Là tổng hợp của các
quy tắc, các nguyên tắc chuẩn mực của 1 lĩnh vực nghề nghiệp trong đời
sống, nhờ đó mà mọi thành viên của lĩnh vực nghề nghiệp đó tự giác điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ của nó trong
mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể với xã hội,...

19


Tuân theo các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp sẽ tạo điều kiện cho việc
nâng cao chất lƣợng lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Phẩm chất đạo đức cá nhân trong xã hội đều có nét chung, nhƣng đạo
đức trong lĩnh vực nghề nghiệp có những đặc thù và yêu cầu riêng biệt. Ví dụ
nhƣ:
Thầy thuốc phải có lòng trắc ẩn
Thầy giáo phải là ngƣời mô phạm
Nhà báo phải trung thực
Nhà chính trị phải có lòng nhân hậu đặc biệt với nhân dân....
1.1.2 Đạo đức nhà báo
Nghề báo tuy không có một bộ luật đạo đức nghề nghiệp riêng nhƣng
cũng có các văn bản bao gồm các quy tắc đạo đức hành nghề cho báo giới và
đƣợc các hội đoàn báo chí thông qua. “Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo là
những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo trong các
mối quan hệ nghề nghiệp”.
Các quy tắc này áp dụng trong nhiệm vụ của nhà báo (nghĩa vụ thông
tin, tôn trọng độc giả, lợi ích xã hội, quyền đƣợc biết) và quy định tính chính
đáng cũng nhƣ tính đáng tin cậy của nhiệm vụ báo chí (độc lập với các quyền
lực chính trị hoặc kinh tế, tôn trọng đời tƣ, bảo vệ nguồn cung cấp thông tin
v.v...).

Tóm lại, có thể nói quy tắc đạo đức hành nghề báo chí bao gồm toàn bộ
các tiêu chuẩn nghề nghiệp giám sát lƣơng tâm nghề nghiệp của một thông tin
viên (nhà báo). Các tiêu chuẩn này dựa trên 2 nguyên tắc căn bản: trách
nhiệm xã hội và sự thật thông tin.
20


Mặt khác, quy tắc đạo đức nghề còn góp phần giúp nhà báo tránh đƣợc
các ý đồ lũng đoạn thông tin, tuyên truyền, đánh bóng hay bóp méo thông tin.
Tuyên bố về các quyền và nghĩa vụ của nhà báo đƣợc thông qua năm 1971 ở
Munich có ý nghĩa phổ quát. Nó quy định "quyền tiếp cận thông tin, quyền tự
do ngôn luận và quyền chỉ trích là một trong các quyền tự do căn bản của
toàn thể nhân loại", và "trách nhiệm của nhà báo đối với công chúng được
đặt lên trên hết, cao hơn cả trách nhiệm đối với chủ bút và chính quyền Nhà
nước". Ngoài ra nó quy định các nghĩa vụ của nhà báo nhƣ nghĩa vụ tôn trọng
sự thật và đời tƣ cá nhân, nhất thiết chỉ đƣa các tin "có nguồn gốc rõ ràng",
nghĩa vụ "kiểm tra tất cả các thông tin tỏ ra thiếu chính xác", "không tiết lộ
nguồn tin lấy được một cách bí mật".
Nghị quyết 1003 năm 1993 của Hội đồng châu Âu về đạo đức nghề báo
đƣợc thông qua, nhƣng chỉ mang tính chất "khuyến nghị" đối với báo chí các
quốc gia thành viên chứ không bắt buộc.
- Lƣơng tâm: Yếu tố nội tâm tạo cho mỗi ngƣời khả năng tự đánh giá
hành vi của mình về mặt đạo đức, và do đó tự điều chỉnh mọi hành vi của
mình
- Trách nhiệm: Điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình
Theo TS.Trƣơng Minh Tuấn- Thứ trƣởng Bộ Thông tin và Truyền
thông, không cứ là gì phải nghề báo mới đặt vấn đề về đạo đức, mà bất cứ
một nghề nào khác, chuyện đạo đức nghề nghiệp cũng phải đƣợc đặt ra, thậm
chí phải đƣợc đặt lên hàng đầu rồi mới nói đến chuyên môn nghiệp vụ của

ngƣời hàng nghề đó. Vì rằng không có đạo đức khi hành nghề thì khoảng cách
giữa việc hành nghề chính đáng với việc lợi dụng “nghề” để trục lợi hoặc làm

21


những việc bất chính chỉ là tơ tóc. Với nghề báo, do đặc thù của công việc,
câu chuyện về đạo đức lại càng đƣợc chú trọng và đặt lên hàng đầu.
Đạo đức của nhà báo không chỉ là sự dũng cảm, dám xông vào những
nơi nguy hiểm nhất để phanh phui những mặt trái của đời sống mà còn góp
phần trong việc “định hƣớng” dƣ luận, ngòi bút của nhà báo phải là mũi tên
dẫn đƣờng để mọi ngƣời cùng hƣớng thiện. Một nhà báo đƣợc gọi là “có đạo
đức” phải là ngƣời đồng hành cùng nhân dân mình, cùng dân tộc và đất nƣớc
mình, biết chia sẻ những vui, buồn, sƣớng, khổ với đồng bào mình trong cuộc
trƣờng chinh thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu để đến đích ấm no, hạnh phúc.
Đạo đức nhà báo không chỉ là việc đi đến tận cùng của nỗi oan khiên để tìm
ra lẽ phải, lẽ công bằng cho ngƣời bị oan khuất mà cái chính là, bằng ngòi bút
của mình, bằng sự trung thực và trách nhiệm của mình, nhà báo phải làm công
việc của một bác sĩ phẫu thuật, cắt bỏ vĩnh viễn những khối u có thể trở thành
“tiền lệ xấu”, có thể lây nhiễm thói hƣ cho cả cộng đồng.
“Một thông tin bị hiểu sai lệch hoặc bị nhà báo làm cho méo mó đi thì
hệ quả của nó không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của một cá nhân mà còn gây
hệ lụy cho cả cộng đồng. Ngược lại, một thông tin kịp thời, chính xác và
trung thực của nhà báo, với sự lan tỏa của nó sẽ có tác dụng tích cực đến cá
nhân, tập thể và đời sống toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề đạo đức của nhà báo là
câu chuyện luôn được đề cao và coi trọng nhất là trong thời đại bùng nổ
thông tin.” [18,tr.15]
Đạo đức nghề báo chính là những nguyên tắc, những chuẩn mực đƣợc
hình thành trong các mối quan hệ ứng xử nghề nghiệp của nhà báo, đƣợc thể
chế hóa, đƣợc nhà báo và dƣ luận xã hội thừa nhận, trở thành những chuẩn

mực điều chỉnh hành vi của nhà báo trong hoạt động thực tiễn nghề
nghiệp.Trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức trong
22


hoạt động nghề nghiệp của nhà báo là 3 mặt của một vấn đề, hòa quyện, liên
kết chặt chẽ, là điều kiện, là tiền đề của nhau, cùng hƣớng tới một mục tiêu
duy nhất là hoàn thành tốt trách nhiệm của nhà báo với sự phát triển của xã
hội, của đất nƣớc.
Đạo đức nghề báo cũng là một nội dung quan trọng của tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh, mang giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần to lớn vào việc
định hƣớng và đào tạo cho các thế hệ nhà báo Việt nam đủ đức và tài, trở
thành lực lƣợng xung kích trên mặt trận tƣ tƣởng, văn hóa của Đảng.Ngƣời là
tấm gƣơng sáng ngời về đạo đức của ngƣời làm báo.
Đạo đức cách mạng nói chung, đạo đức nghề báo nói riêng theo Hồ Chí
Minh đƣợc hiểu là phẩm chất tốt đẹp nhất, là gốc của mọi vấn đề trong cuộc
sống, là phƣơng tiện điều chỉnh các mối quan hệ xã hội của ngƣời làm báo,
mà phạm trù pháp luật không điều chỉnh đƣợc. Bởi, “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(1). Đạo đức báo chí không
chỉ nằm trong phạm vi điều chỉnh thuộc các quy định của luật báo chí hiện
hành, mà còn là tâm thức và phƣơng châm hành nghề của tất cả những ngƣời
làm báo cách mạng. Thực hiện đúng quy định đạo đức nghề nghiệp, ngƣời
làm báo sẽ tránh đƣợc những tác động tiêu cực trong cơ chế thị trƣờng, giữ
vững lòng tin của nhân dân, của xã hội đối với lực lƣợng báo chí cách mạng
nói chung và đối với mỗi ngƣời làm báo nói riêng.
1.1.3 Vai trò của đạo đức nhà báo
Bản lĩnh chính trị của ngƣời làm báo đƣợc thể hiện ngay trong tác
phẩm báo chí. Qua tác phẩm báo chí, nhà báo bày tỏ quan điểm, thái độ với

các sự kiện xảy ra; đấu tranh với các quan điểm sai trái và các tƣ tƣởng thù
23


địch; lên án phê phán, các hiện tƣợng tiêu cực, các thói hƣ tật xấu; bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân. Bản lĩnh chính trị của nhà báo còn đƣợc
thể hiện ở trình độ nhận thức chính trị-xã hội, qua học tập, rèn luyện thực tiễn
của nhà báo, đó là cái tâm, là phẩm chất chính trị của ngƣời làm báo. Cùng
với bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp là yêu cầu hết sức quan trọng với
ngƣời làm báo.
Đạo đức báo chí là đạo đức nghề nghiệp mang tính đặc thù do đặc
trƣng của nghề nghiệp báo chí quy định. Đạo đức nghề nghiệp báo chí đƣợc
thể hiện trong mối quan hệ giữa những ngƣời làm báo với nhau; giữa ngƣời
làm báo với các tổ chức, cá nhân liên quan đến nghề báo và đƣợc biểu hiện
qua hoạt động của nhà báo, đó là lƣơng tâm của nhà báo. Bên cạnh đó, lao
động sáng tạo của ngƣời làm báo là sự tái tạo lại hiện thực khách quan một
cách đúng đắn, chân thực nhƣng không phản ánh một cách thô thiển, máy
móc.
Trƣớc một sự kiện xảy ra nhà báo phải biết chắt lọc thông tin, tìm ra cái
bản chất nhất, mang tính định hƣớng dƣ luận, làm cho công chúng hiểu rõ vấn
đề. Sự sáng tạo không phải là sự thêm thắt, hƣ cấu, thêu dệt trong tác phẩm
của mình về sự kiện xảy ra nhằm mục đích cá nhân. Nếu nhƣ vậy nhà báo đã
tự đánh mất mình và vi phạm Luật Báo chí.
Đạo đức nhà báo không chỉ có ảnh hƣởng trực tiếp đến chất lƣợng tác
phẩm của nhà báo đó , mà còn tác động đến toàn xã hội nói chung và đội ngũ
báo chí nói riêng. Trong hơn mƣời năm qua, vấn để xuống cấp của đạo đức
báo chí trong cơ chế thị trƣờng đã là chủ đề của nhiều cuộc hội thảo do Hội
nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức. Nhƣng dƣờng
nhƣ số lƣợng những vụ việc, những biểu hiện tiêu cực về đạo đức báo chí vẫn
không thuyên giảm mà đang có xu hƣớng tăng lên.

24


Trƣớc tiên haỹ cùng trả lời câu hỏi : Vì sao với nghề báo, đạo đức nghề
nghiệp đƣợc đặc biệt coi trọng, đƣợc so sánh với nghề y, nghề luật, an ninh,
tòa án? Có ý kiến cho rằng vì đó là 5 nghề này có vị trí quan trọng đặc biệt và
mối quan hệ rộng rãi với nhiều ngƣời trong xã hội. Thế nhƣng nghề thực
phẩm, nghề nông hay rất nhiều nghề khác đều có mối quan hệ rất rộng với
ngƣời dân; thậm chí còn có tính toàn dân. Nhƣ vậy thì nghề giáo, nghề báo,
nghề y, nghề luật, an ninh, tòa án có gì khác biệt với phầ n lớn nhƣ̃ng nghề còn
lại? Có một sự khác biệt rất lớn về mối tƣơng quan của ngƣời làm nghề và đối
tƣơ ̣ng phu ̣c vu ̣ giƣ̃a 5 nghề này với nhƣ̃ng nghề còn lại. Nếu đặt lên bàn cân
một bên là ngƣời làm nghề và một bên là đối tƣợng phục vụ , thì với 5 nghề
vƣ̀a nêu, đối tƣợng phục vụ nhẹ cân hơn hẳn về vị thế. Dƣờng nhƣ ngƣời làm
nghề có quyền nhiều hơn đối tƣợng của mình. Ở thế yếu hơn, những ngƣời
đƣợc phục vụ khó có khả năng tự bảo vệ mình, họ phải trông chờ vào đạo đức
nghề nghiệp, vào lƣơng tâm của các nhà báo, cũng nhƣ các thẩm phán, bác sĩ,
điều tra viên. Những ngƣời đƣợc phục vụ mong muốn những ngƣời làm nghề
thận trọng và cân nhắc kỹ càng trƣớc mỗi một nhát dao mổ, một kết luận điều
tra, một bản án, một bài báo.
Các nƣớc phát triển trên Thế giới đều có những quy định rất khắt khe
về “đạo đức nhà báo”, thậm chí, ở một số tờ báo lớn còn có những quy định
riêng về đạo đức nghề nghiệp cho mỗi chức danh trong tòa soạn của mình. Ở
Nga, “Quy định về đạo đức nhà báo” đƣợc Hội đồng Nhà báo Nga thông qua
ngày 23/06/1994, tại Moscow với những hạng mục chi tiết về những quy tắc


nhà

báo


phải

tuân

thủ

trong

quá

trình

tác

nghiệp

nhƣ:

“Nhà báo phải tuân thủ chặt chẽ việc tách bạch các sự kiện, thông tin với
những ý kiến, phóng tác, và giả định có trong thông tin. Nhưng nhà báo cũng
không nhất thiết phải giữ tính trung lập công việc.
25


×