Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA KHU KINH TẾ VŨNG ÁNG TRONG VIỆC ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH THPT TẠI THỊ XÃ KỲ ANH TỈNH HÀ TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 111 trang )

MỤC LỤC
A – Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………...
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài…………………………….
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………...
4. Đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu…………………………..
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………….
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học………………………….
7. Đóng góp (tính sáng tạo) của đề tài………………………………….
8. Cấu trúc của đề tài……………………………………………………
B – Phần nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài……………………………………
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu…………………………………..
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới………………………….
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước…………………………...
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về KKT Vũng Áng………………….
1.2. Một số khái niệm về nghề nghiệp………………………………….
1.2.1. Khái niệm về nghề nghiệp………………………………………..
1.2.2. Một số vấn đề cơ bản về nghề và sự lựa chọn nghề nghiệp…….
1.2.3. Định hướng nghề nghiệp của học sinh…………………………...
1.3. Cơ sở hình thành nhu cầu định hướng nghề………………………..
1.3.1. Mối quan hệ giữa giáo dục phổ thông và ………………………..
1.3.2. Cơ sở khoa học của hoạt động hướng nghiệp……………………
1.3.3. Một số quan điểm của Đảng và nhà nước ……………………….
1.3.4. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THPT………………………...
1.4. Một số nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong chọn nghề ……………
Chương 2. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu……….
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu …………………………………..
2.1.1. Vài nét về thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh…………………….........
2.1.2. Vài nét về khu kinh tế Vũng Áng………………………………...
2.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu…………………………………...


2.2.1. Trường THPT Lê Quảng Chí…………………………………….
2.2.2. Trường THPT Kỳ Anh…………………………………………...
2.3. Cách thức tổ chức nghiên cứu……………………………………..
2.4. Phương pháp nghiên cứu …………………………………………
Chương 3: Kết quả nghiên cứu………………………………………
3.1. Khảo sát tình hình lao động việc làm tại KKT Vũng Áng…………
3.1.1. Các nhóm ngành đang được phát triển tại KKT Vũng Áng
3.1.2. Tình hình lao động làm việc tại KKT Vũng Áng………………...
3.1.3. Lao động tại KKT Vũng Áng – cơ hội và thách thức …………...
3.2. Khảo sát xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh …………..
3.2.1. Xu hướng lựa chọn của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT
3.2.2. Các ngành nghề được lựa chọn…………………………………..
3.2.3. Những khó khăn và thuận lợi khi lựa chọn nghề nghiệp
3.2.4. Các yếu tố tác động đến việc lựa chọn nghề nghiệp……………

1

Trang
3
4
5
5
6
6
7
8
9
10
10
10

10
11
13
13
13
14
16
17
18
21
23
27
30
34
34
34
37
44
44
45
46
49
52
52
52
62
76
78
78
80

………… 82
84


3.2.5. Mong muốn về một nghề nghiệp trong tương lai………………...
3.3. Đánh giá tác động của khu kinh tế Vũng Áng ……………………
3.3.1. Đối với học sinh …………………………………………………
3.3.2. Đối với phụ huynh………………………………………………..
3.3.3. Đối với giáo viên và nhà trường………………………………….
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả định hướng nghề nghiệp ……………
3.4.1. Cơ sở đề xuất giải pháp…………………………………………..
3.4.2. Những giải pháp cơ bản………………………………………….
3.4.3. Kiểm chứng tính khả thi của giải pháp…………………………..
C – Phần kết luận và kiến nghị
1. Kết luận………………………………………………………………
2. Kiến nghị……………………………………………………………..
Tài liệu tham khảo………………………………………………………

86
87
87
91
92
95
95
101
113
116
116
117

119

A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ năm 2006 khi Chính phủ quyết định thành lập Khu kinh tế Vũng Áng,
theo đề án “Quy hoạch phát triển các Khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến
năm 2020”. Diện mạo quê hương Hà Tĩnh nói chung và mảnh đất phía Nam Kỳ
Anh nói riêng đã có bước phát triển vượt bậc. Khu kinh tế Vũng Áng với hạt
nhân phát triển là cụm cảng biển nước sâu Vũng Áng - Sơn Dương. Đây là khu
vực có vị trí địa lý thuận lợi cho giao lưu quốc tế, nằm trên hành lang của các
tuyến hàng hải quốc tế, là cửa ngõ ra biển của Lào và Thái Lan thông qua
QL12A, cảng Vũng Áng - Sơn Dương. Đồng thời, khu vực quy hoạch khu kinh
tế Vũng Áng có QL1A, xa lộ Bắc Nam đi qua (và tương lai sẽ đấu nối với đường
sắt Quốc gia). Đây cũng là khu vực có quỹ đất lớn, sản xuất nông nghiệp ít hiệu
quả, phù hợp cho xây dựng các công trình công nghiệp và đô thị. Điều kiện tự
nhiên của khu vực Vũng Áng tương đối thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái,
nghỉ dưỡng. Việc xây dựng Khu kinh tế Vũng Áng sẽ góp phần quan trọng thúc
đẩy tăng trưởng của tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và tạo sự liên kết phát triển giữa các
tỉnh Duyên hải Bắc Trung bộ, đưa miền Trung hội nhập với sự phát triển của cả
nước. Trong những năm qua, khu vực Vũng Áng đã được sự quan tâm chỉ đạo
của các cấp chính quyền, bước đầu đã có những bước đi nhằm phát huy các tiềm
2


năng và lợi thế của khu vực này, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế
vùng ven biển Việt Nam.
KKT Vũng Áng đã có nhiều đóng góp lớn cho tỉnh Hà Tĩnh. Cụ thể năm
2010 tổng thu ngân sách tại KKT Vũng Áng mới đạt 719 tỷ đồng nhưng đến
năm 2014 đã tăng lên hơn 8.000 tỷ đồng và năm 2015 ước đạt trên 10 nghìn tỷ
đồng... Trong những năm tới, thu ngân sách tại KKT Vũng Áng vẫn tiếp tục

chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn thu của tỉnh nhà. Nhưng đóng góp lớn
nhất của KKT Vũng Áng có lẽ là đã tạo ra khối việc làm khổng lồ cho gần
30.000 người lao động. Ngoài ra, còn tạo ra các ngành kinh doanh dịch vụ vệ
tinh, phục vụ cho KKT, tăng thu nhập cho nhân dân trong vùng. Nằm trong xu
hướng phát triển của KKT thị xã Kỳ Anh được thành lập để đáp ứng nhu cầu
“vươn mình trưởng thành” của vùng đất phía nam Hà Tĩnh này.
Tuy nhiên, do nhu cầu lao động lớn, đòi hỏi trình độ tay nghề cao nên chất
lượng lao động tại KKT Vũng Áng cũng có những đòi hỏi riêng biệt. Đặc biệt
với quyết tâm giúp cho người dân trên địa bàn KKT “ly nông, bất ly hương”, các
ban ngành đã có nhiều chính sách để tạo cơ hội cho con em có thể làm việc tại
KKT. Tuy nhiên, quan trọng vẫn là chính những lao động, họ phải có trình độ,
kiến thức, năng lực mới có thể đáp ứng nhu cầu làm việc của KKT. Một thực tế
đặt ra, là tại KKT Vũng Áng nhu cầu lao động rất lớn, nhưng con em trên địa
bàn vẫn khó được tuyển dụng, tình trạng thất nghiệp, hoặc làm trái nghề rất cao.
Khi nhu cầu về nguồn lao động thiếu buộc các doanh nghiệp phải tuyển lao động
ở ngoài tỉnh hoặc lao động nước ngoài. Điều đó kéo theo những bất cập trong
quản lí xã hội, chưa kể, nếu không có ý thức bảo vệ thì sẽ dần bị hòa tan và mất
đi bản sắc văn hóa của địa phương và dân tộc. Vì thế chúng em, những thế hệ trẻ
của quê hương thị xã Kỳ Anh mới, mong muốn được định hướng nghề nghiệp
một cách đúng đắn để có thể là những chủ nhân tương lai, làm giàu thực sự trên
chính quê hương mình. Bởi vậy, chúng em quyết định chọn đề tài: “Tác động
3


của KKT Vũng Áng đến việc định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT
trên địa bàn thị xã Kỳ Anh”, với mong muốn tìm hiểu kĩ hơn về hoạt động nghề
nghiệp tại KKT, khảo sát nhận thức của các bạn học sinh THPT về nghề nghiệp,
từ đó đưa ra những giải pháp để các bạn lựa chọn được hướng đi đúng đắn cho
bản thân và có thể gắn bó, làm giàu được trên chính quê hương của mình.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

* Ý nghĩa khoa học:
Đề tài đã chỉ ra mối quan hệ mật thiết có tính chất qua lại giữa kinh tế và
giáo dục, đặc biệt là giáo dục hướng nghiệp. Đề tài mong muốn tìm ra những
yếu tố chi phối, tác động tới lựa chọn của học sinh THPT. Từ đó, khái quát và
tìm hiểu xu thế chung của giới trẻ trong việc lựa chọn ngành nghề của họ. Bên
cạnh đó, đề tài còn mong muốn tìm hiểu nhận thức của học sinh về nghề nghiệp
mà mình lựa chọn và muốn có được trong tương lai, nguyên nhân dẫn tới sự
nhận thức đó. Từ đó, có thể đưa ra cho học sinh THPT những biện pháp có khả
năng hữu ích, giúp họ định hướng cho bản thân trong việc lựa chọn những việc
làm nghề nghiệp thích hợp.
* Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Qua đề tài, chúng tôi muốn làm rõ thực trạng chọn ngành nghề trong
tương lai của học sinh THPT trên địa bàn thị xã Kỳ Anh. Thông qua đó chỉ ra
những điều bất cập, những vấn đề còn tồn tại, còn chưa phù hợp trong xu hướng
lựa chọn của họ. Ngoài ra, đề tài còn làm rõ nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng
tới sự lựa chọn nghề nghiệp của học sinh. Cùng với đó, chúng tôi cũng cố gắng
tìm hiểu và cung cấp một số thông tin về nhu cầu việc làm hiện tại và trong
khoảng 3 - 5 năm tới. Trên cơ sở đó để đưa ra những giải pháp mang tính thực
tiễn giúp cho các nhà quản lý có thêm những cơ sở khoa học, để hoạch định
chính sách cho phù hợp hơn với thực tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4


* Mục đích nghiên cứu:
- Mô tả thực trạng tình hình định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT ở
thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
- Ảnh hưởng của khu kinh tế Vũng Áng đến định hướng nghề nghiệp.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đưa ra một số kết luận và khuyến nghị
xung quanh vấn đề định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT trên địa bàn thị

xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Lựa chọn và vận dụng một số lý thuyết về nghề nghiệp để làm rõ định
hướng nghề nghiệp của học sinh THPT.
- Tiến hành khảo sát (phỏng vấn sâu và phỏng vấn bằng bảng hỏi) một số
nhóm học sinh THPT, phụ huynh và giáo viên để có dữ liệu thực tế phục vụ cho
đề tài nghiên cứu.
- Khảo sát thị trường lao động và đặc điểm việc làm tại khu kinh tế để có
sự định hướng tốt cho học sinh trong lựa chọn nghề.
- Phân tích dữ liệu, tìm ra những yếu tố tác động đến lựa chọn của học
sinh THPT. Từ đó, đưa ra những kết quả có tính thuyết phục, đáp ứng mục tiêu
của đề tài.
- Từ đó, nghiên cứu các giải pháp để công tác hướng nghiệp có ý nghĩa.
4. Đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT ở thị xã Kỳ Anh trong giai
đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu:
Tiến hành nghiên cứu trên địa bàn thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh cụ thể là 2
trường : THPT Lê Quảng Chí và THPT Kỳ Anh
5


- Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 9/2015 đến cuối tháng 12/2015.
* Khách thể nghiên cứu
Học sinh của 2 trường THPT : Lê Quảng Chí; Kỳ Anh
5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lí luận

Chúng tôi đã tiến hành thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau: các bài
báo, các đề tài nghiên cứu, khoá luận tốt nghiệp được đánh giá cao; các công
trình nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp, các thông tin về thị trường lao
động từ các doanh nghiệp lớn trên địa bàn và những tài liệu khác có liên quan
đến vấn đề này nhằm đưa ra những thông tin cần thiết phục vụ nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi:
Bảng hỏi được xây dựng 1 cách logic, có nguyên tắc dựa theo nội dung
của đề tài nhằm thu nhận các thông tin đáp ứng yêu cầu đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này được thực hiện ở 1 số cá nhân nhằm thu thập thêm
thông tin và kiểm tra tính xác thực của bảng hỏi.
- Phương pháp thu thập số liệu
+ Phương pháp điều tra viết
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp thống kê toán học
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học
* Câu hỏi nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào giải quyết các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Có cần định hướng nghề nghiệp cho học sinh trong trường THPT? (Tại
sao cần tổ chức định hướng nghề nghiệp cho học sinh trong trường THPT?)
6


- Tình hình lao động và làm việc tại KKT Vũng Áng hiện nay như thế
nào? Xu hướng tuyển dụng lao động thời gian tới ra sao?
- Nhận thức của học sinh THPT về vấn đề hướng nghiệp như thế nào?
- Nhận thức của học sinh THPT trên địa bàn thị xã Kỳ Anh về KKT Vũng
Áng như thế nào?
- Những giải pháp nhằm nâng cao sự định hướng nghề nghiệp cho học

sinh THPT trên địa bàn thị xã Kỳ Anh theo hướng phát triển nguồn nhân lực cho
KKT Vũng Áng trong thời gian tới?
* Giả thuyết khoa học
- Học sinh THPT đã có những nhận thức tương đối đúng đắn về việc lựa
chọn nghề nghiệp của bản thân trong tương lai. Tuy nhiên, nhận thức của một số
bạn về nghề nghiệp của bản thân còn chưa thật đầy đủ và sâu sắc, vẫn còn mang
cảm tính hoặc phù thuộc nhiều vào người khác, thiếu cơ sở khoa học.
- Thực trạng lựa chọn nghề nghiệp trong giai đoạn hiện nay có nhiều khác
biệt so với thời kỳ trước (lựa chọn nghề không chỉ dựa vào sở thích cảm tính của
bản thân mà phải nắm bắt thị trường lao động, nhu cầu xã hội). Vì vậy, nếu
chúng ta biết rõ nhu cầu của thị trường lao động, cùng với những chuyển dịch
trong cơ cấu ngành nghề sẽ giúp cho việc lựa chọn nghề nghiệp phù hợp và hiệu
quả.
- Nhận thức của gia đình, nhà trường, các cấp chính quyền và các doanh
nghiệp về vấn đề hướng nghiệp cho học sinh THPT còn lệch lạc. Vì thế cần phải
có giải pháp đồng bộ để việc học và lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, đạt hiệu quả
cao.
7. Đóng góp (tính sáng tạo) của đề tài:
- Thông qua nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài, góp phần làm rõ vấn đề:
định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT
7


- Góp phần làm rõ nhận thức về định hướng nghề nghiệp tương lai của
học sinh THPT cả nước nói chung và của thị xã Kỳ Anh – Hà Tĩnh nói riêng.
- Đưa ra những thông tin về tuyển dụng lao động thuộc khu kinh tế Vũng
Áng để giúp học sinh có thông tin trong việc lựa chọn nghề nghiệp của bản thân.
- Đề xuất giải pháp để giáo dục hướng nghiệp cho học sinh đạt hiệu quả
thiết thực hơn.
8. Cấu trúc của đề tài

Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.2. Một số khái niệm về nghề nghiệp
1.3. Cơ sở hình thành nhu cầu định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT
1.4. Một số nguyên nhân dẫn đến sự sai lầm trong việc lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh THPT
Chương 2. Tổ chức nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
2.2. Vài nét về khách thể nghiên cứu
2.3. Cách thức tổ chức nghiên cứu
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
3.1. Khảo sát tình hình lao động việc làm tại KKT Vũng Áng
3.2. Khảo sát xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT trên địa
bàn thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
3.3. Đánh giá tác động của khu kinh tế Vũng Áng đối với việc lựa chọn
nghề nghiệp của học sinh THPT
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả định hướng nghề nghiệp cho học sinh
THPT trên địa bàn thị xã Kỳ Anh theo hướng đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực
cho KKT Vũng Áng
.

8


B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
Có thể nói những tư tưởng về định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã có

từ thời cổ đại, tuy nhiên ở dưới dạng rất sơ khai và biểu hiện thông qua việc
phân chia, phân cấp lao động tuỳ thuộc vào địa vị và nguồn gốc xuất thân của
mỗi người trong xã hội. Điều này thể hiện rõ tính áp đặt của giai cấp thống trị và
sự bất bình đẳng trong phân công lao động xã hội. Đến thế kỷ XIX, khi nền sản
xuất xã hội phát triển cùng với những tư tưởng tích cực về giải phóng con người
trên khắp thế giới thì khoa học hướng nghiệp mới thực sự trở thành một khoa
học độc lập.
Cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” xuất bản năm 1948 ở Pháp được xem
là cuốn sách đầu tiên nói về hướng nghiệp. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến sự
phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công
nghiệp từ đó đã rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề
quan trọng không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố
thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong thế kỷ XX cũng ghi nhận nhiều công trình nghiên cứu ở các nước
như Liên Xô (cũ), Mĩ với những quan niệm, lập trường khác nhau nhưng đều có
điểm chung đề cao vai trò, vị trí quan trọng của việc định hướng nghề nghiệp
cho thế hệ trẻ, góp phần thúc đẩy sự phát triển về kinh tế xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, trên thế giới nền sản xuất công nghiệp và hậu
công nghiệp đã phát triển cao, trong xã hội xuất hiện thêm nhiều ngành nghề
mới, sự phân hoá lao động đã khiến hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải
9


quan tâm đến công tác hướng nghiệp. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học hướng
nghiệp, mở các trung tâm tư vấn hướng nghiệp và đào tạo giáo viên, chuyên gia
tư vấn hướng nghiệp trong và ngoài trường Đại học. Ví dụ như các trung tâm
INETOP (Viện nghiên cứu quốc gia về lao động và hướng nghiệp) và CNAM
(Học viện quốc gia về nghệ thuật và nghề nghiệp) của Pháp. Chương trình đào
tạo chuyên gia hướng nghiệp của họ bắt đầu có mặt tại Việt Nam [15].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

Đối với vấn đề định hướng nghề nghiệp cho học sinh vốn đã được quan tâm
từ rất lâu. Điều đó được thể hiện trong các văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ
các bộ ban ngành từ Trung ương đến địa phương. Nhất là trong giai đoạn hiện
nay, khi mà vấn đề “Dạy nghề” ngày càng được quan tâm, chú trọng hơn nhiều.
Về mặt nghiên cứu khoa học hướng nghiệp ở Việt Nam, theo các chuyên
gia thì ngành hướng nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ vào
những năm 1970, 1980. Những nhà khoa học tiên phong phải kể đến GS. Phạm
Tất Dong, PGS. Đặng Danh Ánh, GS. Phạm Huy Thụ, GS. Nguyễn Văn Hộ.
GS. Phạm Tất Dong là người có những đóng góp rất lớn cho giáo dục
hướng nghiệp Việt Nam, ông đã dày công nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực
tiễn cho giáo dục hướng nghiệp như xác định mục đích, ý nghĩa, vai trò của
hướng nghiệp; hứng thú, nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan
điểm, nguyên tắc hướng nghiệp, các nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục
hướng nghiệp... Điều này được thể hiện ở rất nhiều các báo cáo, bài báo, sách,
giáo trình của ông như bài: “hướng nghiệp cho thanh niên”, đăng trên tạp chí
Thanh Niên số 8 năm 1982; Báo cáo: “Một con đường hình thành lý tưởng nghề
nghiệp cho HS lớn”; các tác phẩm như: “Nghề nghiệp tương lai - giúp bạn chọn
nghề” hay cuốn “Tư vấn hướng nghiệp - sự lựa chọn cho tương lai”. Trong một
công trình nghiên cứu gần đây ông đã chỉ ra rằng: “Công tác hướng nghiệp góp
phần điều chỉnh việc chọn nghề của thanh niên theo hướng chuyển đổi cơ cấu
10


kinh tế”. Bởi vì theo tác giả, đất nước đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp
CNH - HĐH, trong quá trình CNH - HĐH, cơ cấu kinh tế sẽ chuyển theo hướng
giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ. Xu hướng chọn
nghề của thanh niên phù hợp với xu hướng chuyển cơ cấu kinh tế là một yêu cầu
của công nghiệp.[5]
Ngoài ra còn có rất nhiều các đề tài luận văn tiến sỹ, thạc sỹ như: Phan
Thị Tố Oanh, Nghiên cứu nhận thức và dự định chọn nghề của học sinh THPT,

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1996 (Luận án Phó tiến sĩ Khoa học sư
phạm tâm lý); Nguyễn Toàn và cộng tác viên, Nghiên cứu một số giải pháp khả
thi trong việc ứng dụng triển khai công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ
thông cấp 2 -3 ở Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Khoa học Công nghệ - Môi trường
và Sở Giáo dục đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998; Phạm Đức Khiêm,
Nghiên cứu về định hướng NN học sinh THPT nhằm phân luồng học sinh vào
các trường THCN tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005; Phạm Hồng Thắng,
Khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp hoạt động hướng nghiệp học sinh
THPT tại tỉnh Gia Lai, năm 2008;

Phan Thị Kim Hồng, Nghiên cứu đề xuất

các giải pháp hướng ngiệp cho đối tượng thanh thiếu niên tỉnh Ninh Thuận, năm
2010; Vũ Thảo My, Nghiên cứu đề xuất giải pháp hướng nghiệp cho học sinh
THPT tại huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, năm 2011…
Bên cạnh các đề tài nghiên cứu khoa học, các Hội thảo chuyên đề mang
tính quốc gia quốc tế về hướng nghiệp cũng được tổ chức với sự tham gia của
nhiều nhà chuyên môn, các nhà giáo dục. Cụ thể :
Vào năm 2002, tại Hà Nội đã tổ chức Hội thảo: “Giáo dục phổ thông và
Hướng nghiệp - Nền tảng để phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa,
Hiện đại hóa đất nước”. Có nhiều bài viết của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu
kinh nghiệm tham gia hội thảo. Các bài viết, tham gia thực sự là những nghiên
cứu, tổng kết có giá trị về lý luận và thực tiễn của giáo dục phổ thông và hướng
11


nghiệp. Đồng thời cũng chỉ ra các giải pháp nhằm làm cho giáo dục hướng
nghiệp và giáo dục phổ thông phục vụ tốt nhất cho việc chuẩn bị nguồn nhân lực
trong thời kỳ CNH - HĐN và hội nhập quốc tế của đất nước.
Trong Hội thảo: “Đối ngoại Pháp - Á về các vấn đề và hướng đi cho giáo

dục hướng nghiệp tại Việt Nam”, tại Khoa Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội
phối hợp với Viện nghiên cứu Nghiên cứu quốc gia về Lao động hướng nghiệp Cộng hòa Pháp ngày 11/01/2005, nhiều tham luận của các nhà khoa học trong và
ngoài nước đã trình bày sâu sắc các nội dung, hướng đi cần thiết để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp tại Việt Nam.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về KKT Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh
Đối với KKT Vũng Áng, đây là một trung tâm mới về kinh tế ở khu vực
miền Trung Việt Nam. Nơi đây đã và đang là tâm điểm thu hút nguồn nhân lực
lao động lớn của cả nước, nộp ngân sách Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng. Về KKT
Vũng Áng cũng đã có một số công trình nghiên cứu như:
Luận văn thạc sỹ của Lê Xuân Từ, Phát triển nguồn nhân lực cho KKT
Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, Đại học Kinh tế Quốc dân, năm 2014; Khóa luận tốt
nghiệp, Trần Thúy Hằng, Tác động của KKT Vũng Áng đến sự phát triển KT –
XH trong quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH của tỉnh Hà Tĩnh trong giai
đoạn đến năm 2020, Học viện hành chính, năm 2014.
Cùng với đó là các bài báo phân tích về đặc điểm nổi bật của KKT Vũng
Áng như: Khu kinh tế động lực mang tên Vũng Áng (Thành Châu); Phát triển
KKT Vũng Áng vươn tầm quốc tế (Ngô Tuấn)…
Nhìn chung, về KKT Vũng Áng chưa có nhiều công trình, bài viết đáng kể,
đây là một vấn đề lớn, đòi hỏi các nhà khoa học tập trung nghiên cứu để giúp các
nhà quản lí hoạch định chính sách phù hợp với sự phát triển KT – XH của vùng.
1.2. Một số khái niệm về nghề nghiệp và định hướng nghề nghiệp
1.2.1. Khái niệm về nghề nghiệp
12


* Khái niệm về nghề nghiệp : Nghề nghiệp là một thuật ngữ để chỉ một
hình thức lao động trong xã hội, theo sự phân công lao động mà con người sử
dụng sức lao động của mình để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần cho xã
hội. Con người thông qua hành nghề để duy trì và phát triển cuộc sống cá nhân,
đồng thời góp phần xây dựng xã hội, đất nước. Và nghề nghiệp là sự tổ hợp

những chuyên môn có quan hệ cùng loại với nhau, trong một nghề có nhiều
chuyên môn khác nhau và các chuyên môn này bổ sung cho nghề đó.
Bất cứ nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong nó một hệ thống giá trị : tri
thức lý thuyết nghề, kỹ năng, kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, đạo đức phẩm
chất nghề, hiệu quả do nghề mang lại. Những giá trị này có thể được hình thành
theo con đường tự phát (do tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình sống với cộng
đồng mà có) hoặc theo con đường tự giác (do được đào tạo trong các cơ sở
trường, lớp dài hạn hay ngắn hạn).
Hoạt động trong bất kỳ nghề nghiệp nào, mỗi cá nhân phải tiêu tốn một số
lượng vật chất (sức lực) và tinh thần (trí tuệ) nhất định. Cá nhân sống bằng nghề
nào thì lượng tiêu hao về sức lực và trí tuệ cho dạng lao động đó là lớn nhất.
Chính vì thế, nghề được coi như đối tượng hoạt động cơ bản trong một giai đoạn
nào đó của đời sống cá nhân và trong đa số các trường hợp, nó gắn bó với cả
cuộc đời con người, nhiều khi còn truyền từ đời này sang đời khác.
* Giáo dục nghề phổ thông: được hiểu là hoạt động giáo dục nghề nghiệp
nhằm cung cấp kiến thức, kĩ năng, kĩ thuật ban đầu cho học sinh phổ thông, giúp
học sinh thấy được những đòi hỏi của nghề đối với người lao động về phẩm chất
và năng lực, từ đó có sự lựa chọn nghề và định hướng học tập phù hợp nhất.
1.2.2. Một số vấn đề cơ bản về nghề và sự lựa chọn nghề nghiệp
* Đặc điểm hoạt động của nghề nghiệp:
- Đối tượng lao động: Đối tượng lao động là hệ thống những thuộc tính,
13


những mối quan hệ qua lại của các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà ở cương
vị lao động nhất định con người phải vận dụng chúng.
- Mục đích lao động: là kết quả mà xã hội đòi hỏi, trông đợi ở người lao
động, nó có thể ở các công việc thao tác chủ yếu phải hoạt động trong nghề và
các sản phẩm thu được khi hành nghề.
- Công cụ lao động: công cụ lao động không chỉ là những công cụ gia

công mà còn gồm những phương tiện làm tăng năng lực nhận thức của con
người về các đặc điểm của đối tượng lao động, làm tăng sự tác động của con
người đến đối tượng đó. Như vậy, các công cụ đo lường, máy móc, cũng như
những quy tắc thực hành, lý luận cũng được xem là công cụ lao động.
- Điều kiện lao động: là những đặc điểm của môi trường tự nhiên và môi
trường XH mà trong đó công việc NN của con người được diễn ra.
- Sản phẩm lao động: là tất cả các giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà
quá trình lao động sản sinh ra.
* Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề:
- Sự phù hợp nghề
Việc chọn nghề là một việc không dễ dàng vì hoạt động này quyết định
tương lai và cuộc sống sau này. Với sự phát triển của khoa học, công nghệ thì
nghề nghiệp là một thế giới bao la, nhiều ngành nghề khác nhau vì thế việc lựa
chọn nghề nghiệp phù hợp cho một người là điều không dễ dàng.
Khi chọn nghề, cần thiết phải biết nghề có yêu cầu như thế nào đối với
người lao động, người chọn nghề phải tự đánh giá những phẩm chất, tâm sinh lý
của bản thân có đáp ứng yêu cầu của nghề không. Để chọn được nghề đúng với
khả năng mình, cần phải xem có sự ăn khớp giữa “con người – nghề nghiệp”,
trong hướng nghiệp gọi là sự phù hợp nghề. Vì vậy, phù hợp nghề chính là sự
phù hợp tương hợp tương hỗ giữa con người cụ thể với công việc, với hoạt động
nghề nghiệp của người đó.
14


- Hứng thú nghề nghiệp
Hứng thú là định hướng nhận thức chủ động của con người đối với sự vật,
hiện tượng khách quan, thường gắn liền với thái độ ưu ái muốn nhận thức được
nó hoặc muốn thực hiện một hành động nào đó
Hứng thú với nghề này hay nghề khác được đặc trưng bởi sự hiểu biết bản
chất dấu hiệu của nghề, có hiểu biết về nghề thì mới yêu nghề và gắn bó lâu dài

với nghề. Hứng thú nghề giúp cho con người tìm tòi sáng tạo trong lao động, đi
sâu vào mọi hoạt động liên quan đến nghề mình yêu thích. Từ đó nở rộng tầm
hiểu biết và nâng cao năng suất lao động của con người. Hứng thú là động lực
quan trọng nhất trong việc nắm vững tri thức, mở rộng học vấn, làm giàu nội
dung của đời sống tâm lý con người
Hứng thú nghề nghiệp là cơ sở tâm lý cơ bản nhất để hình thành lòng yêu
nghề, chỉ có hứng thú lao động thì con người mới vươn lên đỉnh cao của sáng
tạo. Lựa chọn nghề nghiệp là một công việc hệ trọng của tuổi học trò, vì thế nếu
ở các em có được sự định hướng đúng trong việc hình thành hứng thú tích cực
đối với nghề nghiệp thì sẽ giúp cho việc tạo lập ở bản thân các em động cơ mạnh
mẽ trong lựa chọn nghề nghiệp.
- Năng lực nghề nghiệp:
Năng lực là khả năng được hình thành hoặc phát triển, cho phép một con
người đạt thành công trong một hoạt động thể lực, trí lực hoặc nghề nghiệp.
Năng lực NN là khả năng thực hiện có hiệu quả một nghề, một chức năng
hoặc một số nhiệm vụ chuyên biệt với sự thành thạo cần thiết.
1.2.3. Định hướng nghề nghiệp của học sinh
Định hướng nghề nghiệp là một khái niệm bao gồm hai yếu tố liên kết với
nhau chặt chẽ: yếu tố thứ nhất chỉ trạng thái động của khái niệm - là quá trình
xác định cho mình một hướng đi, hướng phấn đấu, rèn luyện, và yếu tố thứ hai sự cần thiết phải thực hiện hoạt động của bản thân theo một hướng đã được xác
15


định. Tuy nhiên, với ý nghĩa thứ hai này, không thể không có một mục tiêu, một
đích nào đó làm chuẩn để xác định hướng hành động.
Như vậy, yếu tố định hướng bao gồm trong nó quá trình hoạt động của
chủ thể nhằm đạt tới mục đích đã định, yếu tố thứ hai của khái niệm – nghề
nghiệp trở thành mục tiêu của hoạt động định hướng. Yếu tố này chi phối các
hoạt động của chủ thể về nhận thức, về thái độ, hành vi, đồng thời nó là kết quả
cần đạt tới quá trình hoạt động.

Trong nhà trường, chủ thể trực tiếp định hướng tới nghề nghiệp là học
sinh, song với tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm, vốn sống và trình độ nhận thức xã
hội còn nhiều hạn hẹp, nên cần có sự trợ giúp của các lực lượng giáo dục. Hoạt
động định hướng nghề nghiệp của học sinh trở thành đối tượng lao động giáo
dục của thầy, cô giáo, của các tổ chức chính trị, xã hội trong trường nhằm giúp
cho quá trình định hướng nghề của học sinh diễn ra thuận lợi, đạt tới sự tương
hợp cần thiết giữa nguyện vọng cá nhân với yêu cầu của nghề trong những điều
kiện KT -XH cụ thể. Các lực lượng sư phạm trong trường trở thành chủ thể của
một hoạt động đặc thù - hoạt động hướng nghiệp - một trong những nhiệm vụ
giáo dục toàn diện đối với học sinh. Để thực hiện có hiệu quả hoạt động này, nhà
trường cần hiểu rõ đặc điểm định hướng nghề của HS với những yếu tố tạo thành
như nhận thức nghề, thái độ nghề, lựa chọn nghề và quyết định nghề. Ngoài ra
những thay đổi về tình hình kinh tế - xã hội cũng tác động rất lớn đến việc định
hướng nghề nghiệp cho học sinh. Chính vì vậy giáo dục hướng nghiệp cần phải
có sự đón đầu để kịp thời tư vấn, định hướng tốt hơn.
1.3. Cơ sở hình thành nhu cầu định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT
1.3.1. Mối quan hệ giữa giáo dục phổ thông và phát triển nguồn nhân lực
Giáo dục là một trong những quá trình chủ yếu hình thành và phát triển
những phẩm chất, đạo đức, kiến thức, kỹ năng, khả năng hành động của con
người thông qua các dạng học tập của cá nhân trong mối quan hệ tương tác, hài
16


hoà với môi trường kinh tế - xã hội, tạo nguồn phát triển nhân lực, từ đó tạo nên
sự phát triển chung của nền kinh tế - xã hội. Xã hội ngày phát triển về kinh tế,
văn hoá khoa học, công nghệ thì càng có điều kiện để tổ chức nền giáo dục tiến
bộ toàn diện và đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy sự phát triển của bản thân
giáo dục. Mặt khác, giáo dục phát triển là một trong những điều kiện tiên quyết
cho tiến bộ kỹ thuật - khoa học. Ngày nay, hầu như đứng trên trường phái nào,
người ta cũng có cùng một quan niệm chung, cho rằng một chính sách phát triển

kinh tế - xã hội hiện đại là chính sách phát triển “bằng con người và vì con
người”, giáo dục là một trong những công cụ chủ yếu để thực hiện chính sách
này, do vậy, cần thiết phải quan tâm tới mối quan hệ gắn bó giữa giáo dục phổ
thông với việc phát triển nguồn nhân lực.
* Giáo dục phổ thông
- Theo cách hiểu chung nhất, giáo dục phổ thông là bộ phận của giáo dục
quốc dân có vai trò hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ, trang bị những kiến thức
và những kỹ năng phổ thông, cơ bản hiện đại về khoa học, văn hoá, nghệ thuật,
hướng nghiệp, có sức khoẻ để tiếp tục học lên các bậc học cao hơn, học nghề và
đi vào cuộc sống lao động sản xuất, thực hiện nghĩa vụ công dân.
- Mỗi bước, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá
mầm đặt ra mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu giáo dục phổ thông nói
riêng cho phù hợp.
- Nhìn chung, ở hầu khắp các châu lục, hệ thống giáo dục phổ thông bao
gồm các cấp giáo dục tiểu học (Primary Education), giáo dục sơ trung (Lowen
SecondaryEducation) và cao trung (Higher Sccondary Education). Ở Việt Nam
có 3 cấp bậc học phổ thông, đó là: tiểu học, trường trung học cơ sở và trường
trung học phổ thông.
* Nhân lực, nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực:
17


Dựa trên việc xem xét vai trò và yếu tố con người trong quá trình phát
triển thì có thể khái quát thành hai quan điểm chính:
Quan điểm thứ nhất:
- Xem con người như một tác nhân của sự phát triển. Theo quan điểm này,
nhân lực (Man powew) là một nhân tố của sản xuất (tương tự như vốn, tài
nguyên, tiến bộ kỹ thuật và công nghệ) với mục tiêu làm tăng trưởng kinh tế.
- Nguồn nhân lực (Human resource - HR) là lực lượng người sẽ và đang
có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu lao động của các ngành nghề trong xã hội.

(Thực chất đó là kiến thức trình độ lành nghề, năng lực của toàn bộ cuộc sống
con người hiện có và tiềm năng trong một cộng đồng nhất định). Những dấu hiệu
đặc trưng của nguồn nhân lực theo quan niệm này là:
+ Về số lượng, đó là số người có sức khoẻ sẽ bổ sung vào lực lượng lao động.
+ Về chất lượng, đó là trình độ văn hoá, kỹ năng lao động được chuẩn bị,
mức độ được chuẩn bị về phẩm chất đặc điểm, nghề nghiệp, tâm thế sẵn sàng
tham gia lao động vì lợi ích cá nhân, gia đình và xã hội; mức độ được chuẩn bị
về năng lực tổ chức quản lý, tư duy kinh tế, tư duy kinh tế có thể hợp tác lao
động hiệu quả, thích ứng kịp thời với sự thay đổi yêu cầu lao động xã hội.
- Do những đặc trưng trên của nguồn nhân lực, có thể thấy rằng phát triển
nguồn nhân lực là nâng cao năng lực của con người để họ tham gia một cách có
hiệu quả vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Đó chính là quá trình tạo lập và sử
dụng năng lực của con người vì sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo cách hiểu
như vậy thì các tiêu chí đánh giá sự phát triển nguồn nhân lực là: Mức tăng năng
suất lao động, mức độ tham gia lao động của nguồn nhân lực (tỷ lệ thất nghiệp);
kết cấu lao động, kết cấu ngành nghề trong xã hội, mức thu nhập, khả năng thích
ứng với thị trường lao động hiện đại (Human Resource).
- Các yếu tố tác động đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực là:
18


+ Trình độ phát triển kinh tế (quy mô tăng trưởng; cơ cấu kinh tế; phát
triển nguồn nhân lực; khả năng tiết kiệm và đầu tư; tình trạng kỹ thuật lao động;
hệ thống kết cấu hạ tầng; thu nhập và đời sống dân cư...). Các yếu tố kinh tế vĩ
mô, thị trường, chính sách ... và đặc biệt là sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
+ Trình độ phát triển giáo dục và đào tạo (quy mô giáo dục và đào tạo, tỷ
lệ trẻ trong độ tuổi đến trường, hệ thống cơ sở vật chất, hiệu quả trong và ngoài
của giáo dục và đào tạo). Điều này phụ thuộc vào quan niệm về lợi ích của đầu
tư phát triển nguồn nhân lực (sự khác nhau trong đánh giá dựa trên sự khác biệt
về lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, giữa người ra quyết đầu tư và người được

đầu tư, giữa nhu cầu sử dụng nhân lực được đào tạo ở các lĩnh vực đặc biệt).
+ Tình hình dinh dưỡng, chăm sóc sức khoẻ (thực trạng dinh dưỡng, thực
trạng hệ thống y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng dân cư, thực trạng môi
trường sống...).
+ Số lượng cá nhân, họ gia đình và cộng đồng.
- Theo quan điểm thứ hai: Xem con người vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển (quan điểm này được UNESCO đưa ra vào những năm 80).
Theo quan điểm này thì “con người đứng ở trung tâm của sự phát triển, là tác
nhân và là mục đích của sự phát triển” . Phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh
tế mà thực chất là để mở rộng khả năng lực chọn của con người (sự lựa chọn này
là vô hạn và thay đổi theo thời gian).
+ Trên cơ sở, quan niệm về nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở vai trò là
động lực của tăng trưởng kinh tế mà còn được coi là mục tiêu của sự phát triển
kinh tế xã hội.
+ Theo quan niệm này, phát triển chất lượng nguồn nhân lực là việc mở
rộng khả năng lựa chọn cho con người, mang lại cho con người sự gia tăng thu
nhập, cơ hội học tập, sức khoẻ và tuổi thọ, đóng góp vào quá trình duy trì, phát
triển và tái tạo con người.
19


* Kế hoạch hoá nhân lực và phát triển giáo dục:
- Để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội có hiệu quả, sự phát
triển chất lượng nguồn nhân lực và phát triển giáo dục phải được kế hoạch hoá
với mục đích đảm bảo các nhu cầu về phát triển chất lượng nguồn nhân lực của
nhà nước (đó là nhu cầu về trình độ học vấn của nhân dân; nhu cầu về nhân lực
cần thiết cho sản xuất, dịch vụ quản lý; nhu cầu về nhân tài nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh trong phạm vi quốc gia và quốc tế).
- Kế hoạch hoá nhân lực là việc đảm bảo cho sự cân đối giữa mục đích
giáo dục đã được xác định với nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, thông

tin, con người cơ chế có thể thực hiện mục tiêu.
- Kế hoạch hoá phát triển giáo dục được định hướng thông qua chính sách,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trên cơ sở thị trường lao động
và đòi hỏi của nhân dân về phát triển giáo dục - đào tạo.
1.3.2. Cơ sở khoa học của hoạt động hướng nghiệp
* Cơ sở tâm lý học
Mục đích của hướng nghiệp là tạo được sự phù hợp nghề của từng con
người cụ thể trong tương lai. Trên góc độ tâm lý là tìm hiểu mối tương quan giữa
đặc điểm nhân cách với các yêu cầu của nghề nào đó để tìm sự phù hợp giữa tính
cách và nghề nghiệp. Sự phù hợp nghề của một người nào đó bao giờ cũng thể
hiện ở hai phương diện đó là năng lực và phẩm chất lao động. Năng lực và phẩm
chất lao động luôn thống nhất và chuyển hóa cho nhau, vì thế nếu thiếu một
trong hai thành phần thì không thể cho là phù hợp nghề. Về mặt hướng nghiệp,
các nhà tâm lý cho rằng nhân cách bao gồm 4 cấu trúc sau :
- Xu hướng nghề nghiệp: gồm hứng thú nghề nghiệp, lý tưởng nghề
nghiệp, khuynh hướng nghề nghiệp … Xu hướng nghề nghiệp đóng vai trò là
động cơ chọn nghề, vì thế trong hướng nghiệp cần phải coi trọng giáo dục xu
hướng nghề nghiệp cho học sinh.
20


- Kinh nghiệm nghề nghiệp: xét về mặt lao động nghề nghiệp thì kinh
nghiệm nghề nghiệp là những tri thức về quá trình công nghệ, tổ chức lao động
khoa học, quản lý công nghệ, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và thói quen
lao động.
- Đặc điểm của quá trình phản ảnh tâm lý: đây là những đặc điểm của quá trình
cảm giác, tri giác, tư duy trừu tượng, trí nhớ… giúp việc thực hành nghề thuận lợi.
- Đặc điểm về khí chất, giới tính, lứa tuổi, bệnh lý : là những đặc tính chịu
ức chế sinh vật của con người. Do đó, khi tư vấn chọn nghề cần lưu ý đến tính
khí giới tính, tuổi tác, sức khỏe của từng đối tượng.

* Cơ sở điều khiển học:
Công tác hướng nghiệp chính là các tác động điều khiển các động cơ chọn
nghề của học sinh, bao gồm :
- Chủ thể điều khiển là gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội, các cơ
quan nhà nước, các nhóm, câu lạc bộ của học sinh.
- Các phương tiện, phương pháp điều khiển là công tác hướng nghiệp
trong nhà trường, sự định hướng của gia đình, các thông tin liên quan từ mạng
truyền thông, hoạt động tư vấn hướng nghiệp …
- Đối tượng điều khiển là động cơ và định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Kết quả là tạo cho học sinh tâm lý sẵn sàng tham gia lao động nghề nghiệp, các
em chọn ngành nghề phù hợp với bản thân và đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
* Cơ sở giáo dục học
Đào tạo và bồi dưỡng nghề nghiệp theo định hướng hình thành những
năng lực thực hiện, năng lực nghề nghiệp. Đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu
bản thân người lao động, của xã hội, người sử dụng lao động... Kết hợp thống
nhất định hướng nghề, tư vấn chọn nghề, đào tạo nghề, giải quyết việc làm tiến
tới sự phù hợp nghề .
21


1.3.3. Một số quan điểm của Đảng và nhà nước về hoạt động giáo dục
hướng nghiệp
* Về nội dung của các văn bản
Các văn bản của Đảng và Nhà nước đã xác định công tác hướng nghiệp là
một bộ phận gắn bó hữu cơ với toàn bộ hoạt động giáo dục trong mọi cấp học,
trong chương trình nội dung các môn học chính khoá và hoạt động ngoại khoá,
trong phương pháp chỉ đạo tổ chức hoạt động giáo dục và dạy học của nhà
trường phổ thông. Đặc biệt công tác hướng nghiệp phải được tiến hành trên cơ
sở nội dung giáo dục lao động - giáo dục kỹ thuật tổng hợp và tổ chức lao động
sản xuất. Cụ thể, trong nội dung, các văn bản đã đề cập tới những vấn đề sau:

* Những yêu cầu cơ bản đối với công tác hướng nghiệp.
- Giúp cho học sinh hiểu được hệ thống nghề nghiệp trong xã hội, phương
hướng phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung và của địa phương nói riêng
nhằm xác định cho bản thân trách nhiệm, nghĩa vụ sẵn sàng tham gia vào lao
động sản xuất.
- Trên cơ sở của sự hiểu biết nghề nghiệp và nền kinh tế quốc dân, của địa
phương, những đòi hỏi khách quan của hoàn cảnh, biết đối chiếu với sự phát
triển, năng lực, sở trường, tình trạng tâm sinh lý sức khoẻ của bản thân để điều
chỉnh động cơ lựa chọn nghề.
- Tạo ra những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, về các mối quan hệ
xã hội và ý thức cầu tiến bộ của học sinh để các em tích cực tham gia vào các
hình thức lao động kỹ thuật do nhà trường tổ chức, nâng cao ý thức và thái độ
lao động, có dịp thử sức mình trong hoàn cảnh thực tiễn, từ đó kết luận về sự
phù hợp nghề nghiệp của bản thân.
- Phải làm cho mỗi học sinh có được tính chủ động trong lựu chọn nghề,
có khả năng tự quyết định được con đường nghề nghiệp tương lai của mình.
22


Như vậy, yêu cầu của công tác hướng nghiệp chính là kích thích phát triển
hứng thú lao động nghề nghiệp của học sinh, uốn nắn sự phát triển hứng thú đó
cho phù hợp với sự phát triển sản xuất của địa phương và đất nước. Công tác
hướng nghiệp còn cần thiết phải hình thành những năng lực lao động - kỹ thuật nghề nghiệp cho học sinh, tạo cho các em điều kiện cơ bản để quyết định chọn
nghề, hơn thế nữa hướng nghiệp được coi như một hoạt động điều chỉnh động cơ
chọn nghề của thế hệ trẻ, sao cho mỗi thanh niên học sinh có được tâm lý sẵn
sàng lao động, thoả mãn với sự lựa chọn nghề nghiệp của mình, hăng hái bước
vào cuộc sống lao động hiện nay.
* Phương hướng thực hiện công tác hướng nghiệp
Các văn bản của Nhà nước đã để cập tới phương hướng thực hiện công tác
hướng nghiệp trước mắt và lâu dài là theo sát đường lối kinh tế của Đảng phù

hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
Công tác hướng nghiệp phải nhằm vào nhiệm vụ trung tâm các trọng điểm
của kế hoạch Nhà nước. Tuy nhiên với đặc điểm của một nước đi lên từ nông
nghiệp, việc thu hút nhân lực vào các lĩnh vực này là hết sức cần thiết, do đó cần
phải cần thiết chú ý tới các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp, ở thành phố cần quan tâm tới các
nghề thủ công, dịch vụ... Hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ, vì cần thiết phải lưu ý tới nhu cầu của các
ngành công nghiệp hiện đại trọng nước và xu hướng hội nhập quốc tế.
Đây là một hướng rất cơ bản có tính đến yêu cầu chuẩn bị mở rộng đội
ngũ công nhân lành nghề cho các ngành công nghiệp then chốt như năng lượng,
cơ khí, luyện kim, hoá chất, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công
nghệ thông tin, bưu chính viễn thông...
Các văn bản cũng đều nhấn mạnh rằng, công tác hướng nghiệp sẽ được
thực hiện và không đòi hỏi điều kiện gì đặc biệt trong khi liên tục cố gắng tạo
23


nên những điều kiện ngày càng tốt hơn. Điều kiện cần thiết nhất, cần ngay là nhà
trường cần phải có nhận thức đúng, có tổ chức tốt, đồng thời các cấp bộ Đảng,
chính quyền và cơ sở sản xuất phải có trách nhiệm tích cực giải quyết vấn đề
theo khả năng của mình. Cần phải làm cho các bậc cha mẹ học sinh hiểu rõ hơn
lao động của công tác hướng nghiệp và nhận thức đúng đắn vị trí của mọi hoạt
động nghề nghiệp trong xã hội, khuyên nhủ con em mình thấy được vinh dự và
trách nhiệm của tuổi trẻ trước những đòi hỏi của đất nước. Để chuẩn bị nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu của công cuộc Công nghiệp hoá -Hiện đại hoá và nền
kinh tế tri thức ở nước ta, việc thực hiện nội dung hướng nghiệp cho học sinh
phổ thông đã, đang và sẽ theo các định hướng sau đây :
+ Nội dung phải đáp ứng được mục tiêu đào tạo con người toàn diện,
năng động sáng tạo, có khả năng xử lý tốt các vấn đề thực tiễn đặt ra.

+ Nội dung vừa mang tính cơ bản, tinh giản, thiết thực, vừa có tính chất
"chìa khoá" để tạo điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh được các nội dung khác và
khả năng phát triển sâu hơn, rộng hơn ngành nghề đã học.
+ Nội dung phải đủ mềm dẻo (có phần cứng và phần mềm), có sự phân
hoá phù hợp với năng lực, sở trường của họ sinh, tăng thời lượng thực hành, vận
dụng tri thức, kỹ năng để giải quyết các vấn đề thực tiễn, đặc biệt chú ý tới năng
lực khai thác thông tin để biến các nguồn thông tin thành tri thức.
+ Làm cho học sinh biết tiếp cận với trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ
tiên tiến của nhân loại, đồng thời phải biết phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc
bằng việc phát triển các nghề truyền thống ở địa phương và đất nước.
+ Xác định rõ hướng nghiệp là cầu nối giữa giáo dục phổ thông và giáo dục
nghề nghiệp. Giáo dục phổ thông dưới góc độ hướng nghiệp là để tạo nền tảng
phát triển nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thay
đổi nội dung, giáo trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông phải chú ý đến hướng
nghiệp, dành tỷ lệ số giờ cho hướng nghiệp một cách hợp lý và thích ứng hơn.
24


+ Đảm bảo được sự cân đối giữa tri thức văn hoá khoa học và kỹ thuật – công
nghệ - hướng nghiệp. Tạo điều kiện cho học sinh nhanh chóng tiếp cận với nghề
nghiệp, đặc biệt là nghề trong định hướng phát triển cửa địa phương và đất nước.
+ Đảm bảo được sự cân đối của mối quan hệ khoa học và kỹ thuật, truyền
thống và hiện đại, cá nhân và cộng đồng, dân tộc và quốc tế
+ Đảm bảo cho người lao động tương lai hội nhập vào xã hội thông tin, do đó
yêu cầu về kỹ thuật, kỹ năng nghề phải đạt trình độ tương đương khu vực và thế giới.
+ Theo hướng phát triển liên tục, tạo điều kiện cho học sinh có thể học tập
suất đời để nâng cao trình độ và hoàn thiện nhân cách người lao động trong nền
sản xuất hiện đại.
+ Công tác hướng nghiệp phải cung cấp cho học sinh sự hiểu biết về hệ
thống nghề nghiệp trong xã hội, đặc biệt đối với những nghề phổ biến và quan

trọng nhất của nền kinh tế, đồng thời cũng phải giúp cho học sinh quen biết với
những nghề chính của địa phương, của khu vực và những nghề có tính chất
truyền thống. Bên cạnh hệ thống nghề nghiệp, trong các giờ hướng nghiệp cũng
phải cho học sinh hiểu biết hệ thống các trường nghề (trường dạy nghề, các
trường trung học và đại học chuyên nghiệp).
+ Nội dung công tác hướng nghiệp còn bao gồm cả những yêu cầu mà
nghề nghiệp đòi hỏi của con người cần có về tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tâm sinh
lý và điều kiện sức khoẻ. Đó là những dự kiến đưa ra trước học sinh, giúp các
em có cơ sở khoa học, lường thấy hiện thực trong nghề của mình sẽ lựa chọn,
xem xét sự phù hợp hay không phù hợp với mình.
+ Thông qua các giờ hướng nghiệp, giúp học sinh có thái độ đúng đắn đối
với kinh tế xã hội và người lao động, thấy rõ trách nhiệm của mình giữa hưởng
thụ và cống hiến, giữa cá nhân và tập thể, đánh giá đúng những khó khăn và
thuận lợi của đất nước, của địa phương nhằm tạo cho mình tâm thế sẵn sàng đi
vào mọi nghề, mọi nơi mà Tổ quốc kêu gọi.
25


×