Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Pháp luật về tái định cư và thực tiễn thực hiện tại khu kinh tế vũng áng – tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.81 KB, 74 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Từ bao đời nay, nhân dân ta luôn luôn tâm niệm “an cư rồi mới lạc nghiệp”. Quan
niệm này đã ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ, vào tiềm thức của mỗi người. Vấn đề đầu tiên
mà người ta hướng tới khi muốn ổn định đời sống là nơi ở. Nơi ở gắn liền với tập quán
sinh hoạt, tập quán sản xuất, thậm chí gắn với cả truyền thống văn hóa của con người. Đặc
biệt là ở vùng nông thôn – nơi mà văn hóa làng xã còn khá đậm nét và sản xuất nông
nghiệp vẫn là chủ yếu thì nơi ở có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tuy nhiên, trong xu thế mở cửa hội nhập hiện nay, nơi ở của người dân, nhất là ở
vùng nông thôn có sự xáo trộn mạnh mẽ. Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước, nhu cầu đất đai cho việc đầu tư xây dựng các khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao, KKT nói riêng và cho sự phát triển kinh tế nói chung của đất nước là rất
cần thiết. Có thể thấy, nhu cầu đất cho đô thị hóa và công nghiệp hóa ở nước ta là rất lớn,
nhưng quỹ đất nhàn rỗi do Nhà nước quản lý không đáp ứng đủ những nhu cầu đó. Bởi
vậy, quỹ đất phục vụ cho công cuộc phát triển nói trên cần phải lấy từ nhiều nguồn, trong
đó có phần từ thu hồi đất của tổ chức, cá nhân và hộ gia đình. Trong số đó, có nhiều trường
hợp Nhà nước phải thu hồi cả đất ở của người dân để lấy mặt bằng thực hiện dự án. Thậm
chí đối với một số dự án, số hộ phải di dời lên đến hàng nghìn hộ với vài chục nghìn nhân
khẩu như Dự án Thủy điện Sơn La ở tỉnh Sơn La; Dự án Khu liên hợp gang thép và cảng
biển Sơn Dương Formosa ở tỉnh Hà Tĩnh… Đối với các dự án này, vấn đề TĐC cho người
dân bị mất đất ở là một yêu cầu bức thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người
dân. Bởi lẽ, tách con người ra khỏi nơi ở truyền thống là tách họ ra khỏi cuộc sống thường
nhật đã gắn bó với họ nhiều năm, có khi là cả cuộc đời, cả nhiều thế hệ. Điều này có ảnh
hưởng vô cùng to lớn, là bước ngoặt trong cuộc đời của họ.
Xuất phát từ tầm ảnh hưởng của vấn đề TĐC đối với người bị thu hồi đất, trong
những năm qua chính sách và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC luôn được Nhà nước
quan tâm. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, pháp luật về bồi thường, TĐC đã bộc lộ
nhiều điểm vướng mắc. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến
tình trạng công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng trên thực tế gặp phải rất nhiều khó
khăn, gây bức xúc trong dư luận, gây tác động tiêu cực đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội của
đất nước. Để góp phần khắc phục tình trạng này, việc đi sâu tìm hiểu quy định của pháp


luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC là rất cần thiết; qua đó có thể phân tích được thực trạng
pháp luật, đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp khắc phục những hạn chế của
pháp luật hiện hành. Với những lý do đó, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về TĐC và thực tiễn
thực hiện tại KKT Vũng Áng – tỉnh Hà Tĩnh” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào
tạo Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu:
Ở nước ta hiện nay, với những điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, cộng với chính
sách thu hút đầu tư của Nhà nước, các dự án đầu tư, nhất là dự án đầu tư nước ngoài ngày
càng tăng. Sự gia tăng các dự án đầu tư một mặt là lợi thế lớn giúp cho nền kinh tế nhanh
chóng phát triển, mặt khác cũng gia tăng áp lực lên quỹ đất phát triển kinh tế xã hội vốn đã
hạn hẹp.
Từ hơn hai thập niên trở lại đây, bồi thường giải phóng mặt bằng nói chung và TĐC
nói riêng là một vấn đề rất nhức nhối, thường xuyên thu hút được sự quan tâm của dư luận.
Bởi vậy, có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này. Trong đó,
phải kể đến các công trình nghiên cứu: Luận văn Thạc sỹ Luật học của Nguyễn Vĩnh Diện
“Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất” năm 2006; Luận văn Thạc sỹ
Luật học của Đinh Thị Huê “Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất ở tỉnh Hà Nam hiện nay”; Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật học của
Nguyễn Thu Hiền năm 2007 và Nguyễn Hoàng Dương năm 2009 cùng về đề tài “Các vấn
đề pháp lý về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư” Bên cạnh đó,
có nhiều bài viết về bồi thường, hỗ trợ và TĐC được đăng trên các tạp chí uy tín như:
Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất của Trần Quang Huy đăng trên Tạp chí Luật
học số 10/2010; Về chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất của
Nguyễn Thị Phượng đăng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 176 (tháng 9/2010); Pháp
luật về bồi thường, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore và Trung Quốc – những
gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, TĐC khi Nhà nước thu hồi
đất của Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Ngọc Minh đăng trên Tạp chí Luật học số
10/2010
Nhìn chung, vấn đề bồi thường, giải phóng mặt bằng nói chung và TĐC nói riêng
đã được rất nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, các bài viết mới chỉ dừng lại ở

việc phân tích một khía cạnh nhỏ trong toàn bộ chế định TĐC. Đối với các luận văn thạc
sỹ, các khóa luận tốt nghiệp, đây là những công trình nghiên cứu công phu, có chất lượng.
Nhưng các công trình này chủ yếu đề cập đến việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu
hồi đất, trong đó vấn đề TĐC chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể công trình. Một số công
trình khác tuy đã trực tiếp nghiên cứu về TĐC, nhưng có nhiều quy định về TĐC được đề
cập trong đó hiện nay đã bị bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung Bởi vậy, việc nghiên cứu pháp luật
hiện hành về TĐC là rất cần thiết.
3. Phạm vi nghiên cứu:
TĐC cho người dân bị Nhà nước thu hồi đất ở là một chế định pháp luật được quy
định đầu tiên tại Luật Đất đai 1993 và tiếp tục được khẳng định tại Luật Đất đai 2003.
Trong giới hạn nghiên cứu, luận văn đi sâu tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành về
TĐC, bao gồm quy định tại Luật Đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất
đai 2003 về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên, do đặc thù của công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC mà mỗi địa phương
khác nhau có thể có các quy định không giống nhau về cùng một vấn đề. Để làm rõ hơn
khía cạnh này, luận văn cũng tìm hiểu các quy định pháp luật về TĐC áp dụng đối với một
địa bàn cụ thể là KKT Vũng Áng – tỉnh Hà Tĩnh. Qua thực tiễn thực hiện pháp luật về
TĐC ở địa bàn này, luận văn làm rõ những ưu điểm cũng như những mặt còn hạn chế,
vướng mắc của pháp luật, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác xít là phương pháp duy vật
biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử để phân tích những vấn đề đặt ra trong luận
văn; tuân theo quy luật logic, tổng hợp, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn… Luận văn
cũng sử dụng phương pháp xã hội học, thống kê, tổng hợp, so sánh, khảo cứu tài liệu và kế
thừa những kết quả nghiên cứu đã có để giải quyết những vấn đề trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài.
5. Tính mới và đóng góp của luận văn:

Luận văn đã giới thiệu các quy định của pháp luật về TĐC đối với người dân mất
đất ở một cách tổng hợp, toàn diện; làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề
TĐC. Trên cơ sở đó, luận văn đã phân tích, luận giải những điểm tiến bộ, hợp lí, cũng như
những vấn đề còn vướng mắc trong quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về TĐC.
Đồng thời, luận văn cũng đi sâu tìm hiểu thực tiễn thực hiện công tác TĐC tại một
địa bàn cụ thể là KKT Vũng Áng – tỉnh Hà Tĩnh. Đây là địa bàn tập trung nhiều dự án đầu
tư trong và ngoài nước, trong đó có cả dự án trọng điểm quốc gia. Qua việc tìm hiểu về
công tác TĐC ở đây có thể rút ra những kinh nghiệm nhất định đối với công tác TĐC ở các
địa phương khác có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng. Không những thế, việc thực
hiện công tác TĐC ở địa bàn cũng giúp kiểm chứng quy định của pháp luật về vấn đề này,
qua đó, có thể đề xuất những giải pháp để khắc phục những khó khăn, vướng mắc còn tồn
tại.
Như vậy, luận văn đã đóng góp cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về công tác TĐC hiện
nay, từ đó đề ra các giải pháp mang tính tham khảo cho việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện pháp luật hiện hành về TĐC.
6. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về TĐC và pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi
đất
Chương 2: Thực trạng pháp luật về TĐC khi nhà nước thu hồi đất- Nghiên cứu cụ
thể tại KKT Vũng Áng tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về công tác
TĐC qua thực tiễn thực hiện tại KKT Vũng Áng – tỉnh Hà Tĩnh
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁI ĐỊNH CƯ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1 Các vấn đề chung về TĐC
1.1.1 Khái niệm TĐC
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay ở Việt Nam, TĐC
cho người dân bị mất đất ở là một vấn đề rất bức thiết, được dư luận quan tâm. Bởi vậy,

thuật ngữ “TĐC” được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như
trong cuộc sống của người dân. Nó cũng là một thuật ngữ pháp lý được đề cập nhiều trong
các văn bản pháp luật, đặc biệt là văn bản pháp luật về đất đai. Vậy “TĐC” là gì?
“Từ điển Luật học” – cuốn sách tập hợp những giải thích trên khía cạnh pháp lý về
các thuật ngữ pháp lý thông dụng không đưa ra định nghĩa về “TĐC”.
Trong “Đại từ điển Tiếng Việt” do Nguyễn Như Ý chủ biên cũng không giải thích
về thuật ngữ “TĐC”. Tuy nhiên, tác giả lại chỉ rõ: “tái: hai lần hoặc lần thứ hai; lại một lần
nữa”

[46, tr.1485]; “định cư: ở lại một nơi nhất định để sinh sống và làm ăn, phân biệt với
du cư” [46, tr.641]. Như vậy, có thể hiểu TĐC là việc một lần nữa chuyển đến một nơi
nhất định để sinh sống và làm ăn ổn định. Có thể thấy cách hiểu về TĐC như trên không
chỉ áp dụng trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà còn áp dụng
đối với một số trường hợp khác không liên quan đến thu hồi đất như TĐC cho đồng bào
dân tộc ít người sinh sống du canh du cư, hoặc TĐC tự phát của từng người dân riêng lẻ…
“TĐC” là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản quy phạm
pháp luật, bởi vậy các nhà làm luật đã có giải thích về thuật ngữ này tại Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về việc bồi thường, hỗ trợ TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất (sau đây gọi tắt là Nghị định 197/2004/NĐ-CP). Theo đó, “người sử dụng
đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này mà phải di chuyển chỗ ở thì
được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau:
1. Bồi thường bằng nhà ở
2. Bồi thường bằng đất ở
3. Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới” (Điều 4)
Có thể thấy, quy định trên mới chỉ dừng lại ở việc nêu ra các hình thức TĐC mà
chưa chỉ rõ nội hàm của “TĐC”. Các nhà làm luật mới chỉ liệt kê được các hình thức TĐC
mà chưa định nghĩa được TĐC là gì.
Bởi vậy, trong thực tế, có một số tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về
TĐC.
Theo tác giả Nguyễn Quang Tuyến, “TĐC là việc người sử dụng đất được bố trí nơi

ở mới bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng
giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở
và phải di chuyển chỗ ở” [39].
Theo tác giả Trịnh Thị Hằng Nga, “TĐC là biện pháp nhằm ổn định, khôi phục đời
sống cho các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án, khi mà đất định cư cũ bị thu hồi hết hoặc thu hồi
không hết, mảnh còn lại không đủ điều kiện để ở lại nơi ở cũ, phải di chuyển đến nơi ở
mới” [26, tr.66].
Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới được ghi nhận trong Khung chính sách
TĐC thuộc khuôn khổ Dự án Quản lý thủy lợi phục vụ Phát triển Nông thôn vùng Đồng
bằng sông Mê Kông (MDWRM-RDP), “TĐC là thuật ngữ chung liên quan tới việc thu hồi
đất và bồi thường cho tổn thất về tài sản khi có di dời, tổn thất đất, nhà ở, tài sản hoặc
phương tiện sinh kế khác” [23, tr.5]. Tuy nhiên, định nghĩa trên đã đưa ra cách hiểu khá
rộng về TĐC, bao gồm cả công tác bồi thường do tổn thất nhà ở, tài sản hoặc phương tiện
sinh kế khác. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, những công tác nêu trên thuộc về
phạm vi bồi thường về đất và tài sản gắn liền trên đất. Như vậy, quan điểm của Ngân hàng
thế giới và của pháp luật Việt Nam về nội hàm khái niệm “TĐC” có điểm không tương
đồng với nhau.
Xem xét khái niệm TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, có thể thấy rất rõ TĐC là hậu
quả pháp lý của việc thu hồi đất của Nhà nước. Nói cách khác, vấn đề TĐC chỉ đặt ra khi
có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất của người sử dụng đất.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp cứ có hành vi thu hồi đất là phát sinh vấn đề
TĐC. Để công tác TĐC được tiến hành phải đáp ứng được một số điều kiện nhất định theo
quy định của pháp luật, trong đó điều kiện về thu hồi đất là tiên quyết, quan trọng nhất.
Khi Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất, bên cạnh việc tổ chức TĐC cho
người dân không còn chỗ ở thì Nhà nước còn phải thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ cho
người sử dụng đất. Như vậy, TĐC chính là một trong các công việc của hậu thu hồi đất.
Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra khái niệm về TĐC như sau: TĐC là một trong
các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi ở mới cho người bị Nhà nước thu hồi đất và
phải di chuyển chỗ ở bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc
bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới. TĐC là hậu

quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà nước.
TĐC có các đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, TĐC là việc giải quyết hậu quả pháp lý của một hành vi hành chính của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi họ ra quyết định thu hồi đất ở của người đang sử
dụng đất
Thứ hai, về đối tượng, TĐC chỉ áp dụng đối với trường hợp người sử dụng đất ở bị
Nhà nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở;
Thứ ba, mục đích của TĐC là nhằm giải quyết chỗ ở mới cho người bị thu hồi đất
và phải di chuyển chỗ ở để giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và sinh hoạt.
Đây là mục đích xuyên suốt trong chính sách, pháp luật về TĐC. Việc di chuyển
chỗ ở đã tạo ra sự xáo trộn lớn trong cuộc sống của người dân bị thu hồi đất, thậm chí
trong rất nhiều trường hợp nó đã tạo ra những bất lợi lớn cho người được TĐC khi chỗ ở
mới không phù hợp với tập quán sinh hoạt, nghề nghiệp cũ của họ. Bởi vậy, để đảm bảo
lợi ích của những đối tượng được TĐC, Đảng và Nhà nước luôn quán triệt nguyên tắc
TĐC là chỗ ở mới phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ.
Thứ tư, TĐC không phải là một biện pháp chế tài của Nhà nước áp dụng đối với
người sử dụng đất có hành vi vi phạm pháp luật đất đai mà là nghĩa vụ của Nhà nước đối
với người bị thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở.
1.1.2. Phân loại TĐC
TĐC là một chính sách nhất quán của Nhà nước được áp dụng thống nhất trên phạm
vi cả nước. Trên cơ sở các quy định của Nhà nước, các địa phương ban hành các quy định
phù hợp với thực tế của địa phương mình. Có thể nói, TĐC không phải là một chính sách
đơn nhất, áp dụng cứng nhắc ở mọi địa phương như nhau. Bởi lẽ, ở các địa phương khác
nhau có sự khác biệt rõ nét về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội…,
dẫn đến việc giải quyết vấn đề nhà ở TĐC ở các địa phương là không giống nhau. Trong
quá trình tìm hiểu về TĐC, có thể nhận thấy một đặc thù là việc giải quyết TĐC ở đô thị có
các hình thức đa dạng hơn so với ở khu vực nông thôn. Ở khu vực đô thị việc giải quyết
TĐC có thể bằng nhiều hình thức khác nhau, trong khi ở khu vực nông thôn hầu như chỉ áp
dụng hình thức TĐC bằng đất ở.
Đối với đất đô thị, đất bị thu hồi là đất ở thì được bồi thường bằng tiền, nhà ở chung

cư hoặc đất ở tại khu vực TĐC. Diện tích bồi thường cho mỗi hộ gia đình theo hạn mức đất
ở do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định, nhưng không được vượt quá
diện tích của đất bị thu hồi. Mức tối đa được bồi thường bằng mức ở nơi ở mới do UBND
cấp tỉnh phê duyệt. Trong trường hợp đất ở bị thu hồi lớn hơn diện tích bị thu hồi thì có thể
bồi thường thêm một phần diện tích đất ở tùy theo quỹ đất tại địa phương, phần còn lại bồi
thường bằng tiền. Đối với đất ở thu hồi thuộc nội thành đô thị loại đặc biệt và loại 1 thì chủ
yếu bồi thường bằng nhà ở hoặc bằng tiền, việc nhận nhà hay tiền do người bị thu hồi
quyết định. Ngoài ra, trong một số ít trường hợp người bị thu hồi đất cũng có thể được bồi
thường bằng đất ở nếu như thỏa mãn điều kiện: có dự án TĐC ở ngay trong khu vực thu
hồi đất, TĐC ở các khu quy hoạch dân cư hoặc các khu dân cư khác thuộc nội đô thị đó đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Đối với đất ở thu hồi tại các đô thị khác
không thuộc loại đô thị đặc biệt và loại 1 thì được bồi thường bằng đất, bằng tiền hoặc nhà
ở theo đề nghị của người có đất bị thu hồi. Trong trường hợp trong nội đô thị không có đất
để bồi thường thì bồi thường bằng đất ở tại ngoại đô thị [14, tr.65-66].
Đối với khu vực nông thôn, TĐC chủ yếu được thực hiện dưới hình thức TĐC
bằng đất ở. Đó có thể là đất ở xen dắm trong các khu dân cư, hoặc cũng có thể là đất ở tập
trung trong các khu TĐC được quy hoạch. Chỉ trong trường hợp người bị thu hồi đất
không có nhu cầu nhận đất ở TĐC mà yêu cầu nhận bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở
mới thì họ sẽ được đáp ứng. Riêng đối với hình thức TĐC bằng nhà ở hầu như không được
áp dụng đối với việc TĐC ở khu vực nông thôn.
Lý do dẫn đến tình trạng như trên xuất phát từ thực trạng quỹ đất ở hiện nay ở các
địa phương. Đối với khu vực đô thị, với việc gia tăng nhanh dân số thì nhu cầu về nhà ở
cũng tăng lên tương ứng, bởi vậy quỹ đất ở hạn hẹp tại khu vực đô thị không thể đáp ứng
được nhu cầu đặt ra. Bởi vậy, việc TĐC bằng đất ở là rất khó thực hiện, đặc biệt là tại các
đô thị loại đặc biệt và loại 1; giải pháp TĐC bằng nhà ở, nhất là nhà chung cư cao tầng là
lựa chọn hợp lý. Riêng đối với khu vực nông thôn, nơi mà quỹ đất ở về cơ bản có thể đáp
ứng được yêu cầu TĐC thì việc TĐC bằng đất ở là chủ yếu được coi là một lựa chọn khôn
ngoan, bởi lẽ nó vừa giảm chi phí cho Nhà nước khi không phải xây dựng nhà ở TĐC, vừa
đảm bảo hơn quyền lợi của người có đất bị thu hồi.
1.1.3 Mối quan hệ giữa TĐC và thu hồi đất

1.1.3.1 Một số vấn đề khái quát về thu hồi đất:
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Chế
độ sở hữu này khác hoàn toàn so với chế độ tư hữu đất đai được thừa nhận ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Xuất phát từ điểm khác biệt cơ bản này mà việc thu hồi đất ở nước ta
cũng có nhiều điểm đặc thù.
- Khái niệm thu hồi đất:
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất
hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy
định của Luật Đất đai (Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai 2003). Như vậy, thu hồi đất là một
biện pháp pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai để phục vụ cho lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, hoặc xử lý vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất. Hình thức
pháp lý của thu hồi đất được thể hiện bằng một quyết định hành chính của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
- Đặc trưng của thu hồi đất:
Thứ nhất, thu hồi đất là một quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm
chấm dứt quan hệ sử dụng đất của người sử dụng đất
Thứ hai, thu hồi đất là quyết định hành chính thể hiện quyền lực Nhà nước nhằm
thực thi một trong những nội dung của quản lý Nhà nước về đất đai
Thứ ba, việc thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước và xã hội hoặc là biện
pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lý hành vi vi phạm pháp luật đất đai của người sử
dụng đất
- Các trường hợp thu hồi đất:
Như đã nói ở trên, thu hồi đất là quyết định hành chính của người có thẩm quyền
nhằm chấm dứt quan hệ sử dụng đất của người sử dụng đất. Như vậy, có thể thấy tất cả các
trường hợp thu hồi đất đều dẫn tới một hệ quả như nhau là quyền sử dụng đất bị chấm dứt.
Tuy nhiên, các trường hợp thu hồi đất trên thực tế lại có sự khác nhau về bản chất pháp lý,
cụ thể như sau:
- Nhóm thứ nhất: các trường hợp thu hồi đất do nhu cầu của Nhà nước, của xã hội
Đây là các trường hợp thu hồi đất không do lỗi của người sử dụng đất gây ra mà do
nhu cầu của Nhà nước, của xã hội để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi

ích công cộng, phát triển kinh tế; ví dụ: thu hồi đất để xây dựng khu công nghiệp, thu hồi
đất để làm đường…. Do vậy, các trường hợp thu hồi đất này người sử dụng đất được Nhà
nước bồi thường về đất, bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất; được xem xét hỗ trợ; TĐC.
- Nhóm thứ hai: các trường hợp thu hồi vì các lý do đương nhiên
Đây là các trường hợp thu hồi đất không do lỗi của người sử dụng đất gây ra và
cũng không xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước, của xã hội mà việc sử dụng đất bị chấm
dứt bởi các sự kiện pháp lý hay tình huống bất khả kháng. Ví dụ: thu hồi đất do cá nhân sử
dụng đất chết mà không có người thừa kế; người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; đất
được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn Trong
các trường hợp này, người sử dụng đất không được bồi thường về đất. Họ có thể được xem
xét hỗ trợ một phần kinh phí bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất.
- Nhóm thứ ba: các trường hợp thu hồi đất do người sử dụng đất vi phạm pháp luật
đất đai
Đây là các trường hợp thu hồi đất do lỗi vi phạm pháp luật đất đai của người sử
dụng đất gây ra. Ví dụ: sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả,
người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất, người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước … Các trường hợp thu hồi đất này, người sử dụng đất không được bồi thường,
hỗ trợ, TĐC. Họ chỉ có thể được Nhà nước xem xét, hỗ trợ một phần kinh phí cho việc di
dời.
1.1.3.2 Mối quan hệ giữa thu hồi đất và TĐC:
Xuất phát từ cách phân loại các trường hợp thu hồi đất, có thể thấy mỗi nhóm
trường hợp thu hồi đất sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý nhất định. Hay nói cách khác, đối với
các nhóm trường hợp khác nhau, Nhà nước đều có hướng xử lí khác nhau, tùy vào bản chất
pháp lý của từng trường hợp. Đối với nhóm trường hợp thứ hai và thứ ba, việc thu hồi đất
của Nhà nước là xuất phát từ nguyên nhân khách quan (vì các lí do đương nhiên hoặc vì
người sử dụng đất có hành vi vi phạm pháp luật đất đai). Bởi vậy, Nhà nước không có
trách nhiệm phải bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Có chăng, Nhà nước chỉ áp dụng một số biện
pháp nhất định hỗ trợ cho người bị thu hồi đất. Chỉ có nhóm thứ nhất việc thu hồi đất được
tiến hành là do ý muốn chủ quan của Nhà nước, do đó người bị thu hồi đất được Nhà nước
bồi thường thiệt hại về đất và tài sản gắn liền trên đất, được hỗ trợ, TĐC.

Như vậy, vấn đề bồi thường, hỗ trợ, TĐC chỉ đặt ra đối với nhóm trường hợp thu
hồi đất do nhu cầu của Nhà nước và xã hội để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích công cộng, phát triển kinh tế. Có thể thấy cách tiếp cận thu hồi đất ở góc độ này
giống với quan điểm về thu hồi đất của Ngân hàng Thế giới: Thu hồi đất – là quá trình
trong đó một cá nhân, hộ gia đình, công ty hoặc cơ sở tư nhân bị một cơ quan Nhà nước
buộc chuyển giao một phần hoặc toàn bộ đất đai mà họ sở hữu hoặc chiếm hữu sang cho
cơ quan Nhà nước đó sử dụng hoặc chiếm hữu vì các mục đích công và được bồi thường
với mức chi phí thay thế [23, tr.5]. Sở dĩ hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà
nước trong trường hợp này khác hẳn so với các nhóm trường hợp thu hồi đất còn lại là do
ở trường hợp này người sử dụng đất không có bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật đất đai
nào, cũng như không hề có bất kỳ một lý do đương nhiên nào dẫn đến việc chấm dứt quyền
sử dụng đất của họ. Theo quy định, quyền sử dụng đất của họ đang được pháp luật bảo vệ.
Bởi vậy, khi Nhà nước thu hồi đất của họ thì Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường, hỗ
trợ và trong một số trường hợp phải bố trí TĐC cho họ nếu họ phải di chuyển chỗ ở.
Từ những phân tích ở trên, có thể thấy TĐC là một trong các trách nhiệm hậu thu
hồi đất của Nhà nước. TĐC là hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà nước.
Trong phạm vi nghiên cứu vấn đề TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, chỉ khi có hành vi thu
hồi đất mới phát sinh vấn đề TĐC. Hay nói cách khác, thu hồi đất chính là tiền đề, là điều
kiện đầu tiên, quan trọng nhất để công tác TĐC được tiến hành. Tuy nhiên, cần phải xác
định rõ hành vi thu hồi đất chỉ là điều kiện cần; người bị thu hồi đất để được TĐC còn cần
đáp ứng được một số điều kiện đủ khác.
1.1.4. Khái quát về chủ trương, chính sách TĐC của Đảng:
1.1.4.1 Sự cần thiết của việc xây dựng chính sách TĐC:
Ở bất kỳ quốc gia nào, đất đai cũng được đánh giá là tài nguyên quốc gia vô cùng
quan trọng, là tư liệu sản xuất không thể thay thế. Ý thức được tầm quan trọng của đất đai,
kể từ khi thành lập, Đảng ta đã luôn chú trọng đến vấn đề này. Trải qua các giai đoạn lịch
sử khác nhau, Đảng ta luôn kịp thời đề ra các chủ trương, chính sách đất đai cho phù hợp
với những thay đổi, phát triển của cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ “đất đai là hàng hóa đặc
biệt, là nguồn nội lực và là nguồn vốn to lớn, rất quý của đất nước, có ý nghĩa kinh tế,
chính trị, xã hội sâu sắc” [21, tr3]

Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng, nhất là
đối với đất để phục vụ phát triển hạ tầng, thực hiện các dự án đầu tư… thì quỹ đất nhàn rỗi
của Nhà nước không đáp ứng được. Bởi vậy, việc thu hồi đất đối với người sử dụng đất
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất là việc làm không thể tránh khỏi. Một khi vấn đề thu
hồi đất được đặt ra sẽ ảnh hưởng đến nhiều chủ thể liên quan, trong đó người bị thu hồi đất
là người chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất. Nếu không quan tâm giải quyết nhanh chóng, đúng
mức, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất thì việc thực hiện
thu hồi đất chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Điều này đã được kiểm nghiệm trên thực
tế. Trong thời gian qua, 70% khiếu kiện thuộc về lĩnh vực đất đai, trong số đó khiếu kiện
về bồi thường, hỗ trợ, TĐC chiếm số lượng rất lớn, lại là khiếu kiện kéo dài. Có thể nói,
giải phóng mặt bằng nói chung và TĐC nói riêng là vấn đề gây bức xúc dư luận và việc
giải quyết nó là một bài toán làm đau đầu các cơ quan hữu quan. Bởi vậy, Đảng và Nhà
nước cần phải ban hành những chính sách hợp lí để vạch ra phương hướng, đường lối giải
quyết vấn đề này, nhằm ổn định cuộc sống cho người bị thu hồi đất, đồng thời góp phần ổn
định trật tự, an toàn xã hội.
1.1.4.2. Nội dung cơ bản của chính sách TĐC:
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 và các Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương tiếp theo, Đảng ta chủ trương thực hiện “ruộng đất được giao
cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng pháp luật việc thừa kế, chuyển
quyền sử dụng ruộng đất” [10, tr.68). Thể chế hóa quan điểm của Đảng về trao quyền sử
dụng đất ổn định lâu dài cho hộ gia đình, cá nhân và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất, ngày 14/7/1993, Luật Đất đai năm 1993 được ban hành, quy định khá
cụ thể về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Quan điểm của Đảng về vấn đề đất
đai nói chung và bồi thường thiệt hại, TĐC nói riêng tiếp tục được khẳng định tại các Nghị
quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI và các Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương các khóa. Đặc biệt tại Nghị quyết 26/NQ-TƯ ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần
thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật
đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã đề ra những
chính sách quan trọng về bồi thường thiệt hại, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ
thể như sau:

- Chính sách đất đai phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người đầu tư và
người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của Nhà nước, của xã hội.
- Nhà nước có quyền thu hồi đối với đất nông nghiệp được quy hoạch vào mục đích
xây dựng đô thị, kết cấu hạ tầng;
- Cần thực hiện các biện pháp phát triển ngành nghề, đào tạo nghề để tạo việc làm,
đổi mới cơ chế sản xuất nông nghiệp và những biện pháp hỗ trợ khác để giải quyết một
cách cơ bản việc làm và thu nhập cho người nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào
mục đích công cộng, phát triển kinh tế - xã hội;
- Khi Nhà nước thu hồi đất mà cá nhân hoặc tổ chức đang sử dụng hợp pháp để
phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển sản
xuất – kinh doanh, Nhà nước thực hiện chế độ bồi thường, TĐC, đào tạo nghề và hỗ trợ
việc làm. Nhà nước không bồi thường đối với đất lấn chiếm, đất sử dụng không hiệu quả,
không đúng mục đích;
- Chính phủ quy định khung giá đất cho từng địa bàn, trong từng thời gian (có điều
chỉnh theo tình hình thực tế) và nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất. UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương quy định giá cụ thể làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất;
- Phải lập và xây dựng khu TĐC trước khi thu hồi đất đối với những dự án thu hồi
đất đang sử dụng; đồng thời chú trọng đào tạo để chuyển đổi nghề cho lao động TĐC. Việc
bồi thường, hỗ trợ, TĐC và đào tạo việc làm theo nguyên tắc “bảo đảm cho người bị thu
hồi đất đến chỗ ở mới có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”;
- Nhà nước có quy hoạch tổng thể về sử dụng đất trên địa bàn cả nước, tạo điều kiện
cho các tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch đồng bộ việc bồi thường, TĐC và hỗ trợ đào
tạo việc làm khi thu hồi đất;
Như vậy, Nghị quyết số 26/NQ-TƯ đã đề ra quan điểm, đường lối khá đầy đủ và
toàn diện về bồi thường thiệt hại, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Quan điểm,
đường lối này có ý nghĩa hết sức quan trọng và đã được Luật Đất đai 2003 thể chế hóa, tạo
cơ sở pháp lý cho việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
1.1.4.3. Ý nghĩa của chính sách TĐC
- Đối với người dân thuộc đối tượng TĐC
Đối với mỗi người, không chỉ là người dân Việt Nam mà tất cả con người trên thế

giới, nhà ở đều đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để có được nhà ở, nhiều người đã phải
phấn đấu lao động trong suốt cả cuộc đời. Bởi vậy, việc Nhà nước thu hồi đất ở của người
dân, làm cho họ không còn chỗ ở nào khác đồng nghĩa với việc gây ra cho họ những thiệt
thòi nhất định. Đặc biệt ở những đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…, để có
được nhà ở là vấn đề rất khó khăn, nhất là đối với những người ngoại tỉnh đến đây lập
nghiệp. Còn đối với người dân ở nông thôn, tuy vấn đề nhà ở không khó khăn như ở các
khu vực đô thị nhưng việc di chuyển chỗ ở chắc chắn sẽ dẫn đến nhiều xáo trộn trong sinh
hoạt hằng ngày cũng như công việc sản xuất của họ, đặc biệt là những người dân gắn với
sản xuất nông nghiệp. Suy cho cùng, dù ở địa bàn nào thì việc phải di chuyển chỗ ở đều
đưa đến cho người dân bị thu hồi đất những hệ lụy nhất định trong cuộc sống và công việc.
Do những ảnh hưởng như trên mà Nhà nước trong thời gian qua đã rất chú trọng
đến việc ban hành chính sách TĐC phù hợp để tạo điều kiện tốt nhất cho người dân bị thu
hồi đất phải di chuyển chỗ ở. Về cơ bản, chính sách TĐC hiện nay ở nước ta đã quan tâm
đến quyền lợi của người được TĐC. Cụ thể là đã xem xét đến phong tục tập quán sinh hoạt
và nghề nghiệp của những người được TĐC để bố trí TĐC thích hợp; đề ra nguyên tắc nơi
ở TĐC phải bằng hoặc tốt nơi ở cũ… Với đường lối, chính sách như trên, Đảng đã vạch ra
đường lối, phương hướng cơ bản để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, tạo cơ sở pháp
lý cho công tác TĐC được tiến hành trên thực tế. Qua đó, quyền lợi của người được bối trí
TĐC được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
- Đối với nhà đầu tư
Trong quan hệ thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư, nhà đầu tư tuy không phải
là chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi thu hồi đất, cũng không phải là người có đất bị thu
hồi, nhưng họ chính là chủ thể có quyền và lợi ích liên quan. Trong môi trường kinh
doanh, nơi mà thời gian đóng vai trò rất quan trọng thì việc giải quyết vấn đề bồi thường,
hỗ trợ, TĐC giữa Nhà nước và người bị thu hồi đất có tác động không nhỏ đối với họ. Nếu
như công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC được tiến hành thuận lợi, nhà đầu tư sẽ sớm có mặt
bằng để tiến hành dự án đầu tư. Khi đó, công việc kinh doanh của họ bước đầu được thực
hiện thuận lợi, góp phần giúp họ ổn định sản xuất. Ngược lại, nếu những khâu này không
được giải quyết nhanh chóng, nhiều trường hợp còn có khiếu kiện kéo dài… dẫn đến việc
nhà đầu tư không được bàn giao mặt bằng đúng thời hạn, hoặc bị cản trở trong quá trình

thực hiện dự án làm hoạt động kinh doanh của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bởi vậy,
chính sách về bồi thường thiệt hại nói chung và TĐC nói riêng có ý nghĩa không nhỏ đối
với các nhà đầu tư. Một chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC tốt sẽ đẩy nhanh tiến độ giải
quyết các công việc này. Qua đó góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của họ được tiến
hành theo đúng kế hoạch đề ra.
- Đối với Nhà nước:
Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Thẩm quyền tiến hành thu hồi đất thuộc về Nhà nước. Thẩm quyền này
một mặt là quyền hạn của Nhà nước trong việc quản lý quỹ đất để tiến hành các hoạt động
của mình, mặt khác cũng là trách nhiệm nặng nề của Nhà nước khi mà việc thực hiện công
tác thu hồi đất trên thực tế rất khó khăn. Đối với những trường hợp thu hồi đất mà phải
thực hiện TĐC thì công việc càng khó khăn hơn vì chỉ khi việc bố trí TĐC được thu xếp ổn
định thì mới có thể thu hồi đất. Bởi vậy, chính sách TĐC hợp lý sẽ giúp cho công tác thu
hồi đất được thực hiện nhanh chóng hơn, nhờ đó giúp Nhà nước giảm được áp lực trong
công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC.
Mặt khác, một chính sách TĐC tốt cũng giúp cho Nhà nước nhận được sự đồng
thuận của người dân trong công tác bồi thường, TĐC. Từ đó góp phần cải thiện mối quan
hệ vốn căng thẳng giữa Nhà nước và người dân trong lĩnh vực đất đai nói chung và bồi
thường, hỗ trợ, TĐC nói riêng; tạo điều kiện để các chính sách được ban hành sau đó được
người dân tiếp nhận dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, chính sách TĐC tốt còn góp phần làm cho môi trường đầu tư hấp dẫn
hơn, thu hút được nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn. Qua đó,
thúc đẩy phát triển kinh tế nước nhà.
Tóm lại, chính sách TĐC có ý nghĩa quan trọng đối với cả Nhà nước, người được
TĐC và nhà đầu tư. Nếu chính sách TĐC đề ra hợp lý, đảm bảo được lợi ích của các chủ
thể liên quan sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
1.1.5. Các yêu cầu cơ bản đối với công tác TĐC
TĐC là quan hệ được đặt ra giữa Nhà nước và người có đất bị thu hồi phải di
chuyển chỗ ở. Tuy nhiên, “sức nóng” của vấn đề này không chỉ ảnh hưởng tới các bên chủ
thể liên quan mà được cả xã hội quan tâm. Chính bởi vấn đề này có tác động lớn tới quyền

lợi của nhiều chủ thể, đặc biệt là quyền lợi thiết thân của người có đất bị thu hồi; đồng thời
nó cũng là vấn đề có tính thời sự thu hút được sự quan tâm của dư luận hiện nay nên quá
trình thực hiện công tác TĐC trên thực tế phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
1.1.5.1. Về mặt chính trị - xã hội
Trong quá trình thực hiện công tác TĐC, phải chú ý tới các yêu cầu cơ bản về mặt
chính trị - xã hội:
Một là, công tác TĐC phải được tiến hành theo đúng chủ trương, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Đây là một yêu cầu rất quan trọng không chỉ đặt ra đối với công tác TĐC mà còn
đặt ra đối với nhiều hoạt động khác. Một mặt, nó đảm bảo được tính pháp chế xã hội chủ
nghĩa, trong đó pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh. Mặt khác, nó cũng
góp phần làm cho công tác TĐC được thực hiện một cách thống nhất trên phạm vi cả nước.
Nhờ đó, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở được
bảo vệ. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện khác nhau mà các địa phương có thể ban hành một số
quy định khác nhau phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương mình.
Hai là, việc thực hiện công tác TĐC phải đảm bảo ổn định xã hội
Hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC là hoạt động khó khăn và gây ra nhiều bức xúc
trong dư luận nhiều năm trở lại đây, đặc biệt đối với người dân phải di chuyển chỗ ở -
những người phải chịu nhiều thiệt thòi. Nếu như quyền lợi của họ không được quan tâm
đúng mức, không được giải quyết thỏa đáng thì việc họ phản đối, gây cản trở cho quá trình
Nhà nước thu hồi đất là một điều hoàn toàn dễ hiểu, thậm chí họ có thể bị các phần tử xấu
lợi dụng gây mất ổn định trật tự an toàn xã hội. Đây là một hệ quả tất yếu bởi lẽ “xã hội sẽ
bất an và rối loạn nếu dân chúng luôn cảm thấy phấp phỏng, lo lắng khi pháp luật và người
thi hành pháp luật vô tình hay hữu ý đem đến cho họ sự rủi ro bất cứ lúc nào” [19, tr.3].
Bởi vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác TĐC là phải đảm bảo tối đa lợi ích của người
được TĐC, giảm thiểu đến mức thấp nhất mâu thuẫn phát sinh giữa Nhà nước, nhà đầu tư
với người dân trong quá trình thực hiện TĐC. Có như vậy mới đạt được sự đồng thuận từ
phía người dân, qua đó đảm bảo được ổn định xã hội. Ngược lại, hậu quả để lại cho Nhà
nước và xã hội là không thể lường trước được.
1.1.5.2. Về mặt kinh tế:

Đối với bất kỳ hoạt động nào, lợi ích kinh tế chính là một trong những vấn đề mà
những chủ thể liên quan quan tâm nhất; và công tác TĐC không phải là ngoại lệ. Bởi vậy,
công tác TĐC phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản nhằm thỏa mãn lợi ích kinh tế của
các chủ thể.
Đối với người bị thu hồi đất, yêu cầu cơ bản đối với công tác TĐC là phải bố trí cho
họ nơi ở mới thích hợp, đảm bảo theo nguyên tắc “nơi ở mới phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở
cũ”. Tất nhiên việc bố trí TĐC không thể thực hiện theo hình thức đền bù ngang nhau,
nghĩa là bố trí TĐC theo đúng diện tích, giá trị địa lí… như phần đất ở bị thu hồi. Tuy
nhiên, về cơ bản phải xác định đúng giá trị và có phương án bồi thường, TĐC tương xứng.
Có như vậy mới đảm bảo được lợi ích kinh tế cho người có đất bị thu hồi, tạo được sự
đồng thuận trong dân.
Đối với nhà đầu tư, công tác TĐC phải được thực hiện theo đúng kế hoạch, thời
gian đề ra. Khi đó, dự án đầu tư của họ không bị cản trở, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của họ.
Về phía Nhà nước, yêu cầu đặt ra đối với công tác TĐC là việc thực hiện phải
nhanh chóng, kịp thời, phù hợp với nguyện vọng của người dân; đồng thời công tác TĐC
cũng phải được thực hiện với chi phí thấp nhất có thể. Nếu các yêu cầu này được thực
hiện, Nhà nước vừa đạt được sự đồng thuận của người dân, vừa tạo ra môi trường đầu tư
hấp dẫn để thu hút đầu tư. Hơn nữa, gánh nặng ngân sách cũng bị giảm thiểu đáng kể.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà “việc thu hồi đất để thực hiện các dự án
phát triển kinh tế vẫn là một trong các vấn đề nổi cộm ở phần lớn các địa phương và là một
trong các nguyên nhân chủ yếu làm chậm tiến độ triển khai nhiều dự án đầu tư, gây nên
những bức xúc cả cho người sử dụng đất, nhà đầu tư và chính quyền có trách nhiệm thu
hồi đất [36, tr.4] thì việc thực hiện các yêu cầu đặt ra đối với công tác TĐC là một tất yếu
khách quan. Tuy nhiên, để thực hiện được điều đó đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài
thực hiện cải cách đồng bộ về hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật ở nước ta.
1.2. Pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm pháp luật về TĐC
“Một nhà nước văn minh có nhiệm vụ tạo ra an toàn mọi mặt cho dân chúng, trong
đó có cả an toàn về pháp lý. Pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do của dân chúng không

bị xâm phạm bởi sự tùy tiện của công quyền” [19, tr.3]. Nhận thức được vai trò, nhiệm vụ
của mình, trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật, trong đó pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
“Bồi thường, hỗ trợ, TĐC là ba bộ phận cấu thành chính sách của Nhà nước nhằm đảm bảo
quyền lợi cho các hộ gia đình, cá nhân khi bị thu hồi đất” [34, tr.6]. Bồi thường, hỗ trợ,
TĐC có mối liên hệ mật thiết với nhau. Bởi vậy, quy định của pháp luật về các vấn đề này
tất yếu cũng có những liên hệ chặt chẽ, đặc biệt đối với TĐC – công tác chỉ tiến hành khi
Nhà nước thu hồi đất. Nói như vậy để khẳng định chế định TĐC có mối quan hệ ràng buộc
với các chế định bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Pháp luật về TĐC là một bộ phận của pháp luật đất đai điều chỉnh các quan hệ liên
quan đến thu hồi đất và việc giải quyết nơi ở cho người bị thu hồi đất (chỉ có người bị thu
hồi đất mới liên quan đến giải quyết đất ở TĐC). Nhưng nói như vậy không có nghĩa là
pháp luật về TĐC điều chỉnh tất cả các quan hệ kể trên. Đối với nhóm quan hệ liên quan
đến thu hồi đất về nguyên tắc thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về thu hồi đất nói
chung. Tuy nhiên, như đã nói ở trên vấn đề TĐC là hậu quả pháp lý trực tiếp của thu hồi
đất, TĐC chỉ phát sinh khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất. Bởi vậy, khi quy định về
TĐC, nhất thiết phải đề cập đến vấn đề thu hồi đất.
Mặt khác, TĐC được xác định là một trong các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi
ở mới cho người dân bị thu hồi đất và phải di chuyển chỗ ở. Như vậy, TĐC không chỉ là
một chế định pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định, mà ở một khía cạnh
khác, pháp luật về TĐC là một bộ phận các chính sách về an sinh xã hội đối với người bị
thu hồi đất không còn nơi ở cần sự trợ giúp từ Nhà nước và Nhà nước trong trách nhiệm xã
hội của mình phải đáp ứng các nhu cầu chính đáng của họ. Sở dĩ chúng ta xác định vị trí
trên cho pháp luật về TĐC là bởi “chế định này không những bù đắp cho các hộ gia đình,
cá nhân sử dụng đất quyền lợi kinh tế họ mất đi khi bị thu hồi đất mà còn giúp đỡ họ trong
việc tạo lập cuộc sống mới” [34, tr.6]. Pháp luật về TĐC đã tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất
cho việc thực hiện TĐC trên thực tế. Thông qua việc quy định và tổ chức thực hiện công
tác TĐC, Nhà nước đã thể hiện rõ sự quan tâm đến những đối tượng phải chịu thiệt thòi do
hành vi thu hồi đất mang lại. Đặc biệt đối với nhóm người phải di chuyển chỗ ở, khi mà
“di chuyển để sinh sống ở một nơi mới, với tập quán mới, cơ sở vật chất mới và điều kiện

sống mới là những vấn đề luôn được người bị Nhà nước thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở
quan tâm” [15, tr.32] thì việc nơi bố trí TĐC có thể đáp ứng được cơ bản nguyện vọng của
người dân là một điều hết sức có ý nghĩa. Khi đó, họ mới có thể yên tâm với cuộc sống
mới, mới có thể “lạc nghiệp” sau khi được “an cư”.
Như vậy, pháp luật về TĐC không chỉ đơn thuần là một chế định pháp luật về lĩnh
vực đất đai mà còn là một bộ phận chính sách an sinh xã hội đối với người dân sau thu hồi
đất, thể hiện được bản chất “của dân, do dân, vì dân” của Nhà nước.
1.2.2. Điều chỉnh pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.2.1 Giai đoạn trước năm 2003:
Trong lịch sử lập pháp của nước ta, vấn đề thu hồi đất đã được quy định khá sớm tại
một số văn bản như: Nghị định 151/TTg ngày 14/5/1959 của Hội đồng Chính phủ quy định
về Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất; Thông tư 1972/TTg ngày 11/1/1970 quy định
một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lưu niên, các hoa màu cho
nhân dân xây dựng các vùng kinh tế, mở rộng thành phố… Những văn bản này đã bước
đầu quy định về đền bù về đất và tài sản trên đất; về một số biện pháp hỗ trợ khi Nhà nước
trưng dụng đất. Ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII thông qua Luật Đất đai, trong đó có
quy định đền bù thiệt hại khi thu hồi đất. Tuy nhiên, trong thời kỳ này, vấn đề TĐC chưa
được đề cập đến.
Năm 1992 Hiến pháp mới được ban hành thay thế Hiến pháp năm 1980. Lần đầu
tiên vấn đề đền bù, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được quy định trong văn bản có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 1992, ngày 14/7/1993 Quốc
hội khóa IX thông qua Luật Đất đai 1993 thay thế cho Luật Đất đai 1987. Với sự ra đời của
Luật Đất đai 1993, vấn đề TĐC chính thức được ghi nhận. Thời gian sau đó, các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền tiếp tục ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai
1993.
1.2.2.2 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay:
Sau 10 năm thực hiện, các văn bản pháp luật trên đây đã phần nào phát huy được
hiệu quả, góp phần vào việc thực hiện chính sách đất đai nói chung và chính sách bồi
thường, TĐC nói chung. Tuy nhiên, có một thực tế là Luật Đất đai 1993 và các văn bản
hướng dẫn thực hiện trong quá trình thi hành đã bộc lộ rất nhiều điểm vướng mắc, đặc biệt

đối với vấn đề TĐC còn quy định quá sơ sài. Để đáp ứng những đòi hỏi đặt ra trong thời
đại mới, việc sửa đổi những quy định không còn phù hợp là một điều tất yếu.
Ngày 26/3/2003, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Đất đai mới
thay cho Luật Đất đai 1993. Việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất được quy
định tại 4 điều, từ Điều 39 đến Điều 42 Luật Đất đai 2003. “Nội dung chủ yếu của các điều
luật này là làm rõ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc khơi thông
các vướng mắc hiện nay về bồi thường, giải phóng mặt bằng cho các công trình của Nhà
nước, quyền lợi của số đông người bị thu hồi đất” [14, tr.49].
Sau khi Luật Đất đai 2003 ra đời, hàng loạt các văn bản hướng dẫn thi hành các quy
định của Luật này trong lĩnh vực bồi thường, TĐC được ban hành. Các văn bản chính gồm
có:
1. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về việc thi hành Luật
đất đai;
2. Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về việc bồi thường,
hỗ trợ TĐC khi Nhà nước thu hồi đất;
3. Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực
hiện Nghị định 197/2004/NĐ-CP ;
4. Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác
định giá đất và khung giá các loại đất.
5. Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định
187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần
(sau đây gọi tắt là Nghị định 17/2006/NĐ-CP);
6. Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về
việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất
đai (sau đây gọi tắt là Nghị định 84/2007/NĐ-CP);
7. Thông tư 06/2007/TT-BTNMT ngày 15/6/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
về hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 84/2007/NĐ-CP;
8. Thông tư liên tịch số 14/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/1/2008 của Bộ Tài chính

và Bộ Tài nguyên Môi trường hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định
84/2007/NĐ-CP;
9. Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về
quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, và TĐC (sau đây gọi tắt là
Nghị định 69/2009/NĐ-CP);
10. Thông tư 14/2009/TT-TNMT ngày 16/11/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, TĐC và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho
thuê đất (sau đây gọi tắt là Thông tư 14/2009/TT-TNMT);
Như vậy, song hành với sự phát triển của pháp luật đất đai, các quy định về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất luôn được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
nhằm xử lí hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và
chủ đầu tư. “Ở một chừng mực nhất định, các quy định này đã đạt được mục đích nêu trên
và tạo ra quỹ đất sạch đáp ứng nhu cầu sử dụng của xã hội và góp phần vào việc thực hiện
thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ở từng thời kỳ lịch sử” [5,
tr.13-14].
Pháp luật hiện hành về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: Các nguyên tắc
TĐC; đối tượng TĐC; các hình thức TĐC; điều kiện đối với các khu TĐC; trình tự thực
hiện công tác TĐC; trách nhiệm của các cấp, các ngành và chủ đầu tư; giải quyết các khiếu
kiện liên quan đến công tác TĐC…
Kết luận chương 1
Trên đây người viết đã tập trung phân tích, làm rõ các vấn đề lý luận chung nhất về
TĐC cho người dân bị mất đất ở khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm: (i) Các vấn đề chung
về TĐC; (ii) Pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Qua việc phân tích này, người
viết đã cố gắng làm rõ các vấn đề cơ bản về công tác TĐC – một phạm trù nghiên cứu mới
mà chưa nhiều tác giả nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện. Đồng thời chúng tôi cũng
đưa ra cái nhìn tổng quát về pháp luật TĐC qua các thời kỳ, qua đó thấy được nỗ lực của
Nhà nước ta trong việc điều chỉnh các quan hệ đất đai nói chung và bồi thường, TĐC nói
riêng; cũng như thấy được bước phát triển của pháp luật về TĐC.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT - NGHIÊN CỨU CỤ THỂ TẠI

KHU KINH TẾ VŨNG ÁNG TỈNH HÀ TĨNH
2.1 Quy định chung của pháp luật về TĐC:
2.1.1 Nguyên tắc TĐC:
Như đã nói ở trên, khi Nhà nước ra quyết định thu hồi đất sẽ làm phát sinh quan hệ
bồi thường, hỗ trợ, TĐC giữa Nhà nước với người sử dụng đất. Như vậy, bồi thường, hỗ
trợ, TĐC là ba khâu “hậu thu hồi”, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi vậy,
khi xây dựng pháp luật về thu hồi đất, bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất, Nhà nước đã đề
ra nguyên tắc chung cho bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Theo đó, khi thực hiện bồi thường, hỗ
trợ, TĐC phải tuân theo nguyên tắc sau:
- Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật liên quan thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường
thì UBND cấp tỉnh xem xét để hỗ trợ.
- Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi
thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường
thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm quyết
định thu hồi đất; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc giao đất ở TĐC hoặc
nhà ở TĐC, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thanh toán bằng tiền
theo quy định sau:
+ Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ lớn hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà
ở tại khu TĐC thì người TĐC được nhận phần chênh lêch.
+ Trường hợp tiền bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn tiền sử dụng đất ở hoặc tiền mua nhà
ở TĐC thì người TĐC phải nộp phần chênh lệch, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận
đất ở, nhà ở TĐC mà số tiền được bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn giá trị một suất TĐC tối
thiểu thì được hỗ trợ khoản chênh lệch đó.
- Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì
phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ
để hoàn trả vào ngân sách Nhà nước.
- Nhà nước điều tiết một phần lợi ích từ việc thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất
để thực hiện các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi.

2.1.2 Đối tượng TĐC:
* Các đối tượng thuộc diện được bố trí TĐC:
Theo quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ,
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế bao gồm: “tổ chức, cộng đồng dân cư,
cơ sở tôn giáo, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ
chức, cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi chung là
người sử dụng đất)” (Khoản 1 Điều 2).
Tuy nhiên, không phải tất cả các đối tượng thuộc diện nêu trên đều được bố trí
TĐC. Theo quy định tại Điều 18 Thông tư 14/2009/TT-BTNMT, các trường hợp sau đây
được bố trí TĐC khi Nhà nước thu hồi đất:
- Hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở mà không có chỗ
ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi (trừ trường hợp hộ gia
đình, cá nhân không có nhu cầu TĐC);
- Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất mà phần diện tích đất ở còn lại sau khi bị thu
hồi không đủ điều kiện để ở theo quy đinh của UBND cấp tỉnh mà không có chỗ ở nào
khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi;
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở nằm trong hành lang an toàn khi xây dựng
công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn phải di chuyển chỗ ở mà không có chỗ ở
nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi;
- Trường hợp trong hộ gia đình có nhiều thế hệ (nhiều cặp vợ chồng cùng sinh sống)
đủ điều kiện tách hộ hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một thửa đất ở bị
thu hồi thì UBND cấp tỉnh căn cứ điều kiện thực tế tại địa phương để quy định diện tích
đất, diện tích nhà ở để bố trí TĐC.
* Quyền và nghĩa vụ của người được bố trí TĐC:
Về quyền: người được TĐC có các quyền sau:
- Đăng ký đến ở nơi TĐC bằng văn bản;
- Được ưu tiên đăng ký hộ khẩu cho bản thân, các thành viên khác trong gia đình về
nơi ở mới và được ưu tiên chuyển trường cho các thành viên trong gia đình trong độ tuổi đi
học;

- Được từ chối vào khu TĐC nếu khu TĐC không đảm bảo các điều kiện như đã
thông báo và niêm yết công khai;
- Được cung cấp mẫu thiết kế nhà miễn phí.
Về nghĩa vụ:
- Thực hiện di chuyển vào khu TĐC theo đúng thời gian theo quy định của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền;
- Xây dựng nhà, công trình theo đúng quy hoạch và thực hiện các nghĩa vụ khác
theo quy định của pháp luật;
- Nộp tiền mua nhà ở hoặc tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật
2.1.3 Các hình thức TĐC:
- Bồi thường bằng nhà ở: TĐC bằng nhà ở là hình thức khá phổ biến ở các khu đô
thị hiện nay. Đây là việc người dân bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở được bồi thường
bằng nhà ở mới do chủ đầu tư xây dựng. Ưu điểm của hình thức này thể hiện ở chỗ người
dân khi nhận nhà TĐC có ngay nhà để ở mà không phải tự mình xây dựng. Tuy nhiên bên
cạnh đó cũng có nhiều mặt hạn chế, như: nhà xây dựng có thể không đúng với ý đồ của
người dân, nhiều trường hợp chất lượng không đảm bảo…
- Bồi thường bằng giao đất ở mới: đây là hình thức người bị thu hồi đất được cấp
một diện tích đất nhất định để tự mình xây dựng nhà ở. Nếu lô đất được cấp nằm trong khu
TĐC thì việc xây dựng nhà ở phải được thực hiện theo như thiết kế mẫu được đề ra nhằm
đảm bảo quy hoạch. Hình thức này được áp dụng khá phổ biến ở nông thôn, hoặc các đô
thị mật độ dân cư không cao.
Đối với hai hình thức TĐC nêu trên, pháp luật quy định “Nhà ở, đất ở TĐC phải
được thực hiện theo nhiều cấp nhà, nhiều mức diện tích khác nhau phù hợp với mức bồi
thường và khả năng chi trả của người được TĐC” (khoản 1 Điều 19 Nghị định
69/2009/NĐ-CP). Quy định này xuất phát từ việc nhà làm luật nhận thức được “không thể
có mô hình chung cho mọi đối tượng thụ hưởng suất nhà ở TĐC, bởi vì diện tích nhà đất bị
thu hồi của các hộ gia đình không giống nhau, số nhân khẩu khác nhau, khả năng chi trả
của từng gia đình khác nhau, nên nhà ở TĐC sẽ có quy mô diện tích khác nhau để đáp ứng
nhu cầu đa dạng của người bị thu hồi đất” [15, tr.32-33].
- Bồi thường bằng tiền để tự lo nơi ở mới: đây là hình thức TĐC duy nhất cho phép

người dân được lựa chọn. Hình thức TĐC này áp dụng trong trường hợp người bị thu hồi
đất không có nhu cầu được TĐC bằng nhà ở, hoặc đất ở mà muốn nhận tiền để tự lo nơi ở
cho mình.
2.1.4 Điều kiện đối với các khu TĐC
- Khu TĐC phải xây dựng phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tiêu chuẩn
và quy hoạch xây dựng.
Đây là một điều kiện đầu tiên vô cùng quan trọng đối với các khu TĐC. Nếu khu
TĐC không được xây dựng đúng với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có thể dẫn đến tình
trạng sau khi đưa vào sử dụng một thời gian có thể lại tiếp tục bị di dời để phục vụ cho các
công trình, các dự án khác. Mặt khác, khu TĐC được xây dựng đúng theo quy hoạch sử
dụng đất đồng nghĩa với việc nó đã được đặt trong một khu vực có quy hoạch hệ thống hạ
tầng xã hội phục vụ cho các nhu cầu cần thiết của người dân, nhờ đó cuộc sống của họ
được đảm bảo hơn.
- Khu TĐC phải được sử dụng chung cho nhiều dự án
Hiện nay, tình trạng thiếu quỹ đất, quỹ nhà TĐC đang diễn ra và sẽ tiếp tục tiếp diễn
trong nhiều năm tới. Trong khi đó, quỹ đất chưa sử dụng ngày càng bị thu hẹp lại. Bởi vậy,
khi quy hoạch các khu TĐC cần phải xác định không chỉ xây dựng để phục vụ một dự án
mà phải được sử dụng chung cho nhiều dự án.
- Trước khi bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu TĐC phải được xây dựng
cơ sở hạ tầng đồng bộ đảm bảo đủ điều kiện cho người sử dụng tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ.
Đây là một yêu cầu vô cùng cần thiết để đảm bảo cuộc sống sau TĐC cho người dân. Tuy
nhiên, nó rất khó thực hiện trên thực tế.
2.1.5 Bồi thường đất ở đối với những người đồng quyền sử dụng sử dụng đất:
Đây là vấn đề lần đầu tiên được đề cập trong Nghị định 197/2004/NĐ-CP nhằm tạo
cơ sở pháp lí để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện xung quanh việc bồi thường đất ở đối
với những người đang đồng quyền sử dụng đất, cụ thể:
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất chung có đồng quyền sử dụng đất,
khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường theo diện tích đất thuộc quyền sử dụng; nếu
không có giấy tờ xác định diện tích đất thuộc quyền sử dụng riêng của tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân thì bồi thường chung cho các đối tượng có đồng quyền sử dụng đất.

- UBND cấp tỉnh hướng dẫn việc phân chia tiền bồi thường đất ở của nhà chung cư
cho các đối tượng đồng quyền sử dụng tại địa phương mình.
2.1.6 Trách nhiệm của các bên liên quan:
Từ trước đến nay, bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất được xác định
là mảng công việc vô cùng khó khăn, phức tạp. Đặc biệt là công tác TĐC và ổn định cuộc
sống sau TĐC đang là vấn đề gây bức xúc trong nhân dân trong thời gian qua. Bởi vậy,
công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC trong thời gian tới cần phải được quan tâm, giải quyết tốt
hơn, đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt đối với người bị thu hồi đất. Đây
không phải là trách nhiệm của riêng một cấp, một ngành mà cần sự quan tâm, vào cuộc của
nhiều cơ quan, tổ chức.
Để công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC được thực hiện tốt hơn trên thực tế, Nhà nước
đã có những quy định cụ thể nhằm chỉ rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc thực hiện
công tác này. Quy định này một mặt giúp phân định phạm vi quản lý của từng cơ quan,
mặt khác ràng buộc trách nhiệm đối với các cơ quan này trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ,
TĐC. Theo quy định pháp luật hiện hành giao trách nhiệm thực hiện công tác bồi thường,
hỗ trợ, TĐC cho các cơ quan sau: UBND các cấp; Các tổ chức được giao nhiệm vụ thực
hiện công tác TĐC; Các sở ban, ngành liên quan; Hội đồng bồi thường, hỗ trợ TĐC. Trách
nhiệm cụ thể của các cơ quan này được quy định cụ thể trong Nghị định 69/2009/NĐ-CP
của Chính phủ.
2.1.7 Trình tự, thủ tục thực hiện công tác TĐC:
Bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói chung và công tác TĐC nói riêng là khâu then chốt,
quyết định trong quá trình Nhà nước thu hồi đất để phục vụ mục đích quốc phòng an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế. Chỉ khi các công tác này
được thực hiện tốt, đảm bảo được lợi ích của các bên, đặc biệt là lợi ích của người dân có
đất bị thu hồi thì việc thu hồi đất mới được tiến hành một cách thuận lợi. Xuất phát từ tầm
quan trọng đó mà Nhà nước quy định một cách tương đối đầy đủ, chặt chẽ về trình tự, thủ
tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC tại Luật Đất đai 2003 và Nghị định 197/2004/NĐ-
CP; Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy
hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và TĐC (sau đây gọi là Nghị
định 69/2009/NĐ-CP). Xét một cách tổng quát, trình tự, thủ tục thực hiện TĐC bao gồm

các bước sau: (i) Lập, thẩm định và phê duyệt phương án TĐC; (ii) Công khai phương án
TĐC; (iii) Chi trả bồi thường, hỗ trợ và TĐC.
Phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và TĐC là một nội dung của dự án đầu tư
được nhà đầu tư lập và được phê duyệt cùng với phê duyệt tự án đầu tư. Trường hợp dự án
đầu tư không phải trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt hoặc không phải cấp
Giấy chứng nhận đầu tư thì UBND cấp huyện nơi có đất có trách nhiệm xem xét, chấp
thuận về phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và TĐC. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng giúp nhà đầu tư lập phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ
và TĐC. Nội dung phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và TĐC bao gồm: (i) Diện
tích các loại đất dự kiến thu hồi; (ii) Tổng số người sử dụng đất trong khu vực dự kiến thu
hồi đất; (iii) Dự kiến số tiền bồi thường, hỗ trợ; (iv) Việc bố trí TĐC (dự kiến về nhu cầu,
địa điểm, hình thức TĐC); (v) Dự kiến thời gian và kế hoạch di chuyển, bàn giao mặt
bằng.
Sau khi dự án đầu tư được phê duyệt, căn cứ quy mô thu hồi đất để thực hiện dự án
đầu tư, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư có thể quyết định tách nội dung bồi
thường, hỗ trợ, TĐC thành tiểu dự án riêng và tổ chức thực hiện độc lập (K1Đ33 NĐ69).
Thời điểm tách nội dung bồi thường, hỗ trợ, TĐC thành tiểu dự án riêng là thời điểm chấp
thuận hoặc xét duyệt dự án đầu tư. Tiểu dự án đầu tư sau khi được phê duyệt được thực
hiện độc lập nhưng phải phù hợp với tiến độ thực hiện của dự án đầu tư (Đ21 TT14/2009).
* Lập, thẩm định và phê duyệt phương án TĐC:
Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh giao việc thực hiện bồi
thường, hỗ trợ, TĐC cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường gồm:
- Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và TĐC cấp huyện;
- Tổ chức phát triển quỹ đất.
Theo quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP, Nghị định 69/2009/NĐ-CP và
Thông tư 14/2009/TT-BTNMT, phương án TĐC được thực hiện như sau:
Thứ nhất, lập phương án TĐC:
Sau khi dự án đầu tư được xét duyệt hoặc chấp thuận thì Hội đồng bồi thường, hỗ
trợ, TĐC hoặc Tổ chức phát triển quỹ đất có trách nhiệm lập và trình phương án bồi
thường, hỗ trợ và TĐC theo quy định pháp luật. Nội dung phương án bồi thường, hỗ trợ,

TĐC gồm: (i)Tên, địa chỉ của người bị thu hồi đất; (ii) Diện tích, loại đất, vị trí, nguồn gốc
của đất bị thu hồi; số lượng, khối lượng, tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của tài sản bị
thiệt hại; (iii) Các căn cứ tính toán số tiền bồi thường, hỗ trợ như giá đất, giá nhà, công
trình, số nhân khẩu, số lao động trong độ tuổi, số người được hưởng trợ cấp xã hội; (iv) Số
tiền bồi thường, hỗ trợ; (v) Việc bố trí TĐC; (vi) Việc di dời các công trình của Nhà nước,
của tổ chức, của cơ sở tôn giáo, của cộng đồng dân cư; (vii) Việc di dời mồ mả.
Thứ hai, lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC:
Niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC tại trụ sở UBND cấp xã và
tại các điểm sinh hoạt khu dân cư nơi có đất bị thu hồi để người bị thu hồi đất và những
người có liên quan tham gia ý kiến;
Việc niêm yết phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện UBND cấp xã,
đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã, đại diện những người có đất bị thu hồi;
Thời gian niêm yết và tiếp nhận ý kiến đóng góp ít nhất là 20 ngày, kể từ ngày đưa
ra niêm yết.
Thứ ba, hoàn chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC
Hết thời hạn niêm yết và tiếp nhận ý kiến, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, nêu rõ số lượng ý
kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi
thường, hỗ trợ, TĐC; hoàn chỉnh và gửi phương án đã hoàn chỉnh kèm theo bản tổng hợp ý
kiến đóng góp đến cơ quan tài chính để thẩm định;
Trường hợp còn nhiều ý kiến không tán thành phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC
thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng cần giải thích rõ hoặc xem xét,
điều chỉnh trước khi chuyển cơ quan tài chính thẩm định.
Thứ tư, thẩm định và trình duyệt

×