Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Một số yếu tố tác động đến định hướng nghề nghiệp cho học sinh thpt ngoại thành hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.81 KB, 51 trang )

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐỊNH HƯỚNG
NGHỀ NGHIỆP
CHO HỌC SINH THPT NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
( Nghiên cứu trường hợp 2 trường THPT ngoại thành Hà Nội )

Hà Nội 5/2011


MỤC LỤC


NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHĨ KHĂN TRONG Q TRÌNH THỰC TẬP
1. Khó khăn :
Đề tài làm về các em học sinh THPT và là những học sinh lớp 12 nên gặp nhiều
khó khăn trong q trình thu thập tài liệu
Tháng 4 , 5 là tháng mà các học sinh lớp 12 thi học kỳ 2 và chuẩn bị cho
ký thi tốt nghiệp nên việc thu thập khá phức tạp và khó khăn trong thời điểm đó
cộng thêm nhiều nhà trường do thủ tục quá phức tạp nên quá trình làm việc với
các thầy cơ giáo và học sinh cịn gặp nhiều khó khăn
Mùa hè điều kiện nắng nóng kết quả thu thập nhiều khi có phần chưa chính
xác, cũng có thể do tâm lý nhiều học sinh
Đường sá đi lại xa xôi , từ nhà đến trường học của các học sinh THPT khá
xa nên cũng là một điều bất tiện trong q trình làm việc
Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng hầu hết đã được giải quyết
2. Thuận lợi
Có được sự giúp đỡ từ ban giám hiệu các nhà trường THPT , các em học
sinh và giáo viên của 2 trường THPT
Có được sự giúp đỡ từ giáo viên hướng dẫn , các bạn bè giúp đỡ trong quá
trình thực hiện chuyên đề thực tập
Có được sự giúp đỡ từ phía gia đình tạo điều kiện cho q trình làm việc



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
...................................................................................................................................
.......................................


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Định hướng nghề nghiệp đối với mỗi cá nhân có ý nghĩa khơng chỉ với bản
thân cá nhân ấy mà cịn có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng nguồn nhân lực
của đất nước. Bởi định hướng nghề nghiệp chính xác sẽ giúp cá nhân phát huy tối
đa năng lực của bản thân, hứng thú với cơng việc. Nhờ đó, hiệu quả công việc
của họ được nâng cao. Đồng thời định hướng nghề nghiệp đúng đắn sẽ giúp cá
nhân đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho xã hội.
Định hướng nghề nghiệp của mỗi cá nhân có thể được bắt đầu từ rất sớm,
trong đó lứa tuổi học sinh THPT là một giai đoạn quan trọng . Vì học sinh THPT
là một lực lượng tiềm năng của nguồn nhân lực. Định hướng đúng trong lựa chọn
ngành nghề của học sinh THPT không chỉ tạohứng thú cho học sinh ham học mà
đơi khi cịn quyết định cả sự thành đạt của các em. Thực tế hiện nay, việc định
hướng nghề nghiệp của học sinh THPT ở nước ta vẫn chưa được quan tâm đúng
mức. Theo kết quả khảo sát của báo Người lao động, có hơn 60% học sinh thừa
nhận rằng mình khơng được hướng nghiệp khi chọn ngành nghề đăng ký dự thi
ĐH.

Chính vì chưa được được định hướng rõ ràng ngay từ khi cịn học trong
trường phổ thơng nên nhiều học sinh đã chọn ngành, chọn nghề chưa phù hợp với
bản thân. Kết quả là sau 4 – 5 năm học ở trường ĐH nhưng khi ra trường có một
lượng lớn sinh viên thất nghiệp hoặc làm không đúng ngành. Trong khi đó những
học sinh học một số nghề kỹ thuật (thời gian đào tạo 2 – 3 năm) lại dễ dàng xin
được việc. Theo thống kê của Bộ giáo và dục đào tạo, tháng 8 năm 2006 có
khoảng 37% sinh viên tốt nghiệp nhưng khơng tìm được việc làm . Bên cạnh đó,
một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có hơn 50% sinh viên tốt nghiệp phải đào tạo
lại khi được tuyển dụng [12]. Việc thiếu định hướng nghề cho học sinh THPT đã


gây ra một lãng phí lớn khơng chỉ cho bản thân, gia đình của học sinh mà cịn cho
cả xã hội.
Thực tế hiện nay, đa phần học sinh tốt nghiệp THPT đều có mong muốn
học lên ĐH, CĐ. Theo thống kê gần đây, hàng năm, nước ta có hơn một triệu học
sinh THPT dự thi tốt nghiệp. Trong số đó có tới 90% học sinh tốt nghiệp THPT
thi vào các trường ĐH, CĐ. Nhưng hệ thống các trường ĐH, CĐ chỉ tiếp nhận
khoảng 20% – 30% số học sinh . Có rất nhiều học sinh cho rằng: “Vào đại học
như là một sự bảo hành cho tương lai. Trượt đại học coi như cuộc đời mất
phương hướng. Đó là nỗi buồn của bản thân và của cả gia đình”. [4]. Chính điều
đó đã dẫn tới áp lực nặng nề cho học sinh trong các kỳ thi tuyển sinh vào ĐH,
CĐ. Do vậy, việc định hướng nghề cho học sinh THPT là vấn đề cần được quan
tâm hơn nữa.
Trong quá trình lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT, có nhiều yếu tố
tác động tới các em. Vậy những yếu tố đó là gì? Các em đã chọn nghề của mình
như thế nào? Dựa vào đâu để các em học sinh THPT chọn nghề cho mình? Đề tài
“Các yếu tố tác động đến việc định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT –
Qua khảo sát tại Hà Nội” sẽ góp phần giải đáp những câu hỏi trên.
Với đề tài này chúng tơi nhằm mục đích " Xác định những yếu tố tác động
đến định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT hiện nay và sự chuẩn bị của họ

đề đạt được dự định này " Đối tượng khảo sát sẽ là những học sinh đang học lớp
cuối cùng của THPT ( lớp 12 ). Sỡ dĩ chúng tôi chọn học sinh lớp 12 làm đối
tượng của cuộc khảo sát này lý do là ở thời điểm này các em mới có đủ những
điều kiện đầy đủ nhất đề dự định về nghề nghiệp của mình trong tương lai.
2. ĐỐI TƯỢNG , KHÁCH THỂ , PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu:
Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT


2.2 Khách thể nghiên cứu:
- Học sinh trường :1.Trường THPT Nguyền Văn Cừ
2.Trường THPT Cao Bá Quát
2.3 Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Thành phố Hà Nội
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Tháng 3/2011-5/2011
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
3.1 Ý nghĩa khoa học:
Đề tài :” Các yếu tố tác động đến việc định hướng cho học sinh THPT “
mong muốn tìm ra những yếu tố chi phối tác động đến việc lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh THPT .Từ đó khái qt và tìm hiểu xu hướng của giới trẻ trong việc
lựa chọn nghề nghiệp của họ. Bên cạnh đó , đề tài cịn mong muốn tìm hiểu nhận
thức của học sinh về nghề nghiệp mà mình lựa chọn và mong muốn có trong
tương lai .nguyên nhân dẫn đến nhận thức thích hợp
Trong đề tài này chúng tơi có sử dụng một số lý thuyết xã hội học như lý
thuyết cấu trúc chức năng của Parson , lý thuyết tương tác biểu trưng của (G.
Mead ) . Qua điều tra thực tế chúng tôi muốn kiểm nghiệm bổ sung những kiên
thức xã hội học đã có.Đồng thời chúng tơi cũng muốn tìm ra những nét quy luật
mới , góp phần phong phú thêm cho hệ thống lý luận xã hội

3.2 Ý nghĩa thực tiễn:

Thông qua kết quả nghiên cứu đề tài sẽ phân tích được những thuận lợi,
những vấn đề bất cập,nhưng vấn đề còn tồn tại , còn chưa đúng trong xu hướng
lựa chọn của các học sinh THPT cũng như những yếu tố tác động đến các em


trong việc lựa chọn nghề nghiệp của mình trong tương lai. Trên cơ sở đó, đề tài
sẽ đưa ra các khuyến nghị nhằm đưa ra một giải pháp hợp lí để hướng cho các em
có một định hướng đúng trong việc lựa chọn của mình để phù hợp với từng cá
nhân, khả năng của mỗi người và từ đó đưa các em tìm được một nghề nghiệp
thích hợp, giải quyết cơng tác hướng nghiệp cho các em
4. MỤC ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
* Mục đích nghiên cứu:
1. Nghiên cứu định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT
2. Giúp học sinh có định hướng đúng đắn trong q trình lựa chọn nghề
nghiệp trong tương lai
3. Tìm ra xu hướng chính của các em học sinh THPT nói riêng và giới trẻ
nói chung trong việc lựa chọn nghề nghiệp của họ
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu về định hướng
nghề nghiệp cho học sinh THPT
2. Phân tích thực trạng vấn đề lựa chọn nghề nghiệp hiện nay của học sinh
THPT.
3. Tiến hành khảo sát định tính định lượng trong việc học sinh THPT lựa
chọn nghề nghề nghiệp của mình
4. Đưa ra những kiến nghị giúp các em có định hướng đúng và lựa chọn
nghề nghiệp phù hợp với mỗi cá nhân
5. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
5.1. Phương pháp luận chung



Chính sách của Đảng và nhà nước về cơng tác hướng nghiệp cho học sinh
THPT :
Chỉ thị 126/CP về công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT và sử dụng
học sinh các cấp THCS và THPT ra trường bao gồm các quy định : Mục đích của
cơng tác hướng nghiệp , nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp , biện pháp thực
hiện, biện pháp thực hiện và giao nhiệm vụ cho các bộ , ngành , địa phương ,
phối hợp với ngành giáo dục thực hiện
Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX khẳng định “ Coi trọng
công tác hướng nghiệp và phân luồng cho học sinh TH, chuẩn bị cho thanh niên ,
thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cầu kinh
tế trong cả nước và địa phương
Luật Giáo dục cũng khẳng định rằng “ Giáo dục THPT nhằm cung ứng
những kiến thức thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để học sinh tiếp tục
học lên Cao Đẳng , Đại học , THCN , Học nghề hoặc đi vào cuộc sống “
Năm 2001 , Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra chỉ thị số 14/2001/CT- TTg về
việc đối mới chương trình giáo dục “ Đổi mới chương trình giáo dục THPT .để
thực hiện nghị quyết số 40/ 2000/GH 10 của Quốc Hội khóa X.Trong chỉ thị nêu
rõ Trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc , sự phát triển
nhanh và mạnh mẽ của khoa học cơng nghệ nói chung và khoa học giáo dục nói
riêng cần phải đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thơng . Trong chương
trình có đề ra 4 mục tiêu :
1. Nâng cao chất lượng giáo dục
2. Đổi mới phương pháp dạy và học , và khả năng tự học của học sinh
THPT
3. Tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông các nước trong khu vực và trên thế
giới


4. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức phân luồng sau THCS và THPT
chuẩn bị cho học sinh học tiếp ở bậc sau TH và tham gia lao động ngoài xã hội

….
Chỉ thị cũng đề ra nguyên tắc cần phải đảm bảo chương trình đổi mới sách
giáo khoa phổ thơng trong đó có ngun tác ” Chọn lọc đưa vào chương trình
những thành tựu khoa học cơng nghệ kĩ thuật phù hợp với khả năng tiếp thu của
học sinh , hết sức coi trọng thực tiễn , học đi đôi với hành ,nhà trường gắn với xã
hội “
5.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu cho phép tác giả tiếp cận tình hình
nghiên cứu một cách nhanh nhất. Dựa trên những nghiên cứu đi trước, tác giả sử
dụng nguồn thông tin đã được nghiên cứu để làm sáng tỏ cho vấn đề mình
nghiên cứu. Mặt khác, những thông tin thu được không chỉ cung cấp một bức
tranh chung về thực trạng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh THPT, mà cịn giúp
tác giả tìm ra những nét mới, những khía cạnh cần khai thác sâu trong các tiêu chí
lựa chọn nghề nghiệp của các em
Đề tài nghiên cứu về các lựa chọn định hướng nghề nghiệp cho đối tượng
học sinh THPT là vấn đề được các bạn học sinh quan tâm cũng như của giới
truyền thông. Đây là điều kiện thuận lợi cho tác giả trong việc tìm nguồn tài liệu
cung cấp cho việc nghiên cứu của mình. Tác giả đã sử dụng một số dạng tài liệu
sau:


Những cơng trình nghiên cứu khoa học, luận án tốt nghiệp.


Tài liệu nghiên cứu và xuất bản của các nhà khoa học trong nước.



Các tạp chí: Xã hội học,



5.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm:
Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu của đề tài, tác giả tiến hành phỏng vấn sâu
các em học sinh ở độ tuổi THPT , và trọng tâm vào các em học sinh lớp 12 là
những em sắp bước vào kì thi tốt nghiệp , Đại học sắp bước chân vào ngưỡng cửa
của tương lai, sự lựa chọn nghề nghiệp phù hợp là một điều cần thiết. Tác giả tiến
hành thảo luận nhóm với số lượng học sinh là 24 học sinh Bao gồm :.12 Nam và
12 Nữ thuộc các trường (Có thể chia ra mỗi trường 1 lần thảo luận nhóm , mỗi
lần 12 học sinh: 6 nam và 6 nữ )
Trường THPT Nguyễn Văn Cừ
Trường THPT Cao Bá Quát
Quá trình xử lý được thực hiện bởi chương trình xử lý Nvivo 7.0
5.2.3. Phương pháp phỏng vấn bảng hỏi
Bảng hỏi được tiến hành logic nhằm đưa ra nhữngthu nhận thơng tin chính
xác nhất về định hướng nghề nghiệp của các em
Tiến hành khảo sát phỏng vấn 250 phiếu hỏi chia làm 2 nơi :
150 cho trường THPT Nguyễn Văn Cừ
150 cho trường THPT Cao Bá Quát
Thu về 249 phiều để xử lý số liệu bằng SPSS 13.0


6. CÁC GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Giả thuyết một: Những học sinh nông thôn đã học lên những năm cuối
cấp của THPT chủ yếu là chọn các nghề nghiệp có trình độ chuyên môn cao nên
hầu hết là các em sẽ lựa chọn thi đại học và cao đẳng . Việc chọn các nghề
nghiệp khác để làm việc chỉ được hình thành sau khi định hướng nghề nghiệp có
từ trong trường THPT không thực hiện được
Giả thuyết hai: Học sinh lớp THPT rất coi trọng định hướng nghề nghiệp
trong tương lai nhưng vì cịn thiếu thơng tin trong định hướng nghề nghiệp nên

khơng ít học sinh cịn lúng túng trong việc chọn nghề..
Giả thuyết ba : Đa số các học sinh lấy tiêu chí thu nhập cao là yếu tố quan
trọng nhất để lựa chọn định hướng nghề nghiệp cho mình
Giả thuyết bốn : Việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh không chỉ xuất
phát từ ý kiến chủ quan của bản thân người học sinh mà có sự can thiệp mạnh mẽ
từ gia đình (Chủ yếu là cha mẹ học sinh )
6.2 CÁC BIẾN SỐ
6.2.1Biến số độc lập:
Đặc điểm cá nhân:

Giới tính
Địa điểm trường học
Học lực

Đặc điểm gia đình:

Trình độ học vấn cha mẹ
Nghề nghiệp cha mẹ
Mức sống gia đình.

6.2.2 Biến số phụ thuộc:
Định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT:
Lựa chọn ngành nghề:
Trình độ đào tạo nghề:
Phương thức đào tạo nghề


7. KHUNG LÝ THUYẾT
HỌC SINH
Giới tính


CHA MẸ HỌC SINH

Học lực

Học vấn

Nghề nghiệp

Giá trị nghề nghiệp

Mức sống gia đình
Nhận thức giá trị nghề
nghiệp

Nhận thức giá trị
nghề nghiệp

Thực trạng định hướng nghề nghiệp của học sinh THPT

Định hướng nghề nghiệp
của
học sinh THPT

Lựa chọn nghề
khối nghề

Phương thức đào tạo

Trình độ đào tạo



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Định hướng nghề nghiệp là quá trình mà mỗi cá nhân xác định, lựa chọn
cho mình một nghề nghiệp phù hợp nhất. Việc định hướng nghề nghiệp đúng
trong lựa chọn ngành nghề không chỉ là việc tạo hứng thú cho người học mà đơi
khi cịn quyết định cả sự thành đạt của một đời người. Đặc biệt đối với học sinh
THPT – định hướng nghề nghiệp ở lứa tuổi này sẽ là bước khởi đầu quan trọng
không chỉ của các em mà còn của cả nguồn nhân lực.
Các nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp trong những năm gần đây đều
chỉ ra rằng phần lớn học sinh cịn thiếu thơng tin về nghề sẽ học sau khi tốt
nghiệp THPT. Khoảng 2/3 số học sinh THPT còn băn khoăn chưa biết chọn
ngành nào. Trong số đó có 11,9% số em chưa thể có một quyết định nào về địa
chỉ sẽ học sau này. Tình trạng này có giảm đi ở học sinh lớp 12 nhưng khơng
đáng kể: Vẫn cịn gần 2/3 học sinh lớp 12 băn khoăn chưa có quyết định sẽ học ở
trường hoặc khoa nào. Những băn khoăn mà học sinh THPT khi chọn ngành
nghề là không biết ngành đã chọn có phù hợp với các em khơng? Sau khi ra
trường các em có xin được việc làm đúng nghề đã học khơng? [4, tr.108]
Trình độ đào tạo mà phần lớn học sinh hướng tới sau khi tốt nghiệp THPT
là trình độ ĐH. Xu hướng thi vào các trường ĐH, CĐ của học sinh THPT có ở cả
học sinh học tại nông thôn( 91,6%) và thành thị (96,5%). Định hướng đào tạo
nghề như vậy đã làm tăng thêm tình trạng mất cân đối trong cơ cấu nguồn nhân
lực ở nước ta. Theo điều tra của diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005 về chất lượng
nguồn nhân lực thì Việt Nam được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát.
Tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân lực ở nước ta khá nghiêm trọng: cứ 1
vạn dân Việt Nam thì có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100,



của Trung Quốc là 140. Mặc dù thu nhập quốc dân tính theo đầu người của Trung
Quốc khoảng gấp đơi nước ta.[4, tr.106], [1,tr.31]
Nguyện vọng thi vào đại học là nguyện vọng chính đáng của học sinh, nhất
là trong thời đại chúng ta đang hội nhập kinh tế quốc tế, đang cần ngày một nhiều
lao động có trình độ chun môn cao. Tuy nhiên, nguyện vọng vào đại học sẽ là
khả thi nếu học sinh biết lựa sức học của mình để chọn nghề nghiệp và trường
học cho phù hợp. Trong khi nước ta đang có sự mất cân đối về nguồn nhân lực
thì vẫn cịn rất nhiều học sinh quyết tâm thi vào ĐH (56,1%). Tức là nếu năm thứ
nhất các em thi khơng đỗ thì các em sẽ học thêm để chờ năm sau thi lại. Có
29,1% học sinh THPT có dự định thi ĐH nếu khơng đỗ thì sẽ nộp hồ sơ xin vào
cao đẳng. Chỉ 8.1% số học sinh được điều tra có dự định học ở các trường trung
cấp hoặc dạy nghề. [5, tr.11]
Việc lựa chọn nghề nghiệp khơng chỉ đề cập tới khía cạnh họ “sẽ là ai?”
mà cịn đề cập tới khía cạnh “sẽ là người như thế nào?”. Một sự lựa chọn nghề
nghiệp đúng đắn có thể coi là một trong những yếu tố quyết định sự thành đạt
trong cuộc đời mỗi người. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự không thỏa mãn của
người lao động trong quá trình làm việc, sự biến đổi trong nghề nghiệp là những
hậu quả sai lầm của việc không được định hướng nghề nghiệp. Trong thực tế, có
một số học sinh dựa vào sự hấp dẫn bề ngồi của một số nghề (nghệ sỹ, phi
cơng), hoặc do ảnh hưởng của những người xung quanh (giáo viên, bạn bè, người
thân), hay xuất phát từ lý do rất ngẫu nhiên như thích học cùng với người bạn
thân cũ, gần nhà…[7,tr.21].
Nhìn chung thanh niên, đặc biệt là học sinh THPT vẫn cịn thiếu thơng tin
đầy đủ và thường xun về sự phát triển, biến đổi cũng như nhu cầu thực tế về
nghề nghiệp trong xã hội. Các em cũng biết rất ít về yêu cầu của từng nghề cụ
thể. Việc định hướng nghề của học sinh THPT chủ yếu mang tính ngẫu nhiên.


Học sinh chọn nghề theo cảm tính và phong trào, ít có sự cân nhắc về học lực của
bản thân.

Đi tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị trong việc
chọn nghề của học sinh, một nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn gây ảnh
hưởng đến sự định hướng giá trị của học sinh THPT. Kết quả cho thấy, nhiều em
học sinh chưa biết cách đánh giá đúng năng lực của bản thân để lựa chọn nghề
nghiệp phù hợp với năng lực của mình. Đa số các em (89,4%) cảm thấy thiếu tri
thức về nghề, chưa hiểu rõ nhu cầu của xã hội đối với nghề cũng là một trong
những khó khăn trong định hướng giá trị nghề nghiệp của học sinh.[8, tr.14]
Nghiên cứu này còn cho thấy gia đình là một nhân tố quan trọng trong định
hướng giá trị nghề nghiệp của học sinh. Tuy nhiên việc định hướng giá trị nghề
nghiệp của cha mẹ cho con cái còn nhiều bất cập. Một số gia đình thường thờ ơ,
khơng quan tâm tới việc giáo dục vấn đề này cho con cái. Ở một số gia đình
khác, cha mẹ giáo dục định hướng giá trị cho con em theo kiểu áp đặt, cứng nhắc,
bắt con chấp nhận, tn theo những sở thích, quan niệm của mình mà khơng dựa
trên năng lực, sở thích của chính con trẻ. Có 59,3% số học sinh được phỏng vấn
đã thừa nhận sự áp đặt của cha mẹ trong lĩnh vực này.
Vì gia đình là mơi trường xã hội hóa đầu tiên và gần gũi nhất đối với mỗi
con người. Chính bởi lẽ đó yếu tố gia đình tác động khơng nhỏ đến việc lựa chọn
nghề nghiệp của học sinh ngay cả khi các em có những dự định về nghề nghiệp
trong tương lai của mình. Đối với học sinh ở nơng thơn, có tới 91.1% trả lời là
tham khảo ý kiến bố mẹ khi chọn nghề. Ý kiến của bố mẹ được các em coi trọng
hơn cả trong số những ý kiến của nhà trường, bạn bè.[1, tr.31]. Như vậy nghiên
cứu này đã cho thấy, việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh nông thôn không
chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan của bản thân học sinh mà còn có sự can thiệp
mạnh mẽ của gia đình (chủ yếu là cha mẹ học sinh).


Khi tiến hành nghiên cứu về định hướng nghề nghiệp ở lứa tuổi học sinh THPT ở
nông thôn và thành thị, tác giả Nguyễn Công Khanh và Nguyễn Văn Lê đã chỉ ra
trình độ học vấn, nghề nghiệp cha mẹ, mức sống gia đình có ảnh hưởng tới lựa
chọn nghề nghiệp của học sinh. Đối với trình độ học vấn của cha mẹ học sinh:

Những học sinh có cha mẹ mà học vấn ở bậc phổ thông cơ sở trở lên thì sự tham
khảo ý kiến của học sinh với cha mẹ có trọng lượng hơn so với bố mẹ chỉ có học
vấn ở cấp tiểu học. Nghề nghiệp của bố mẹ cũng có sự tương quan với hiểu biết
của học sinh. Trong khi đó, tương quan giữa nghề nghiệp của bố mẹ và thái độ
nghề nghiệp của học sinh lại khơng có sự khác biệt nhiều. [5, tr.18].
Các nghiên cứu cịn cho thấy, có sự khác biệt trong định hướng nghề nghiệp của
học sinh nam và học sinh nữ. Nhóm học sinh nữ có dự định nghề nghiệp, thơng
tin, hiểu biết về việc làm, năng lực làm quyết định nghề nghiệp cao hơn đáng kể
so với nhóm học sinh nam. Do đặc điểm tâm lý giới nên có sự khác biệt trong xu
hướng lựa chọn ngành nghề của học sinh nam và học sinh nữ.[5, tr.18], [7,tr.25]
[9,tr.81]. Bên cạnh đó, tác giả cịn chỉ ra nhóm học sinh nơng thơn có dự định
nghề nghiệp và khám phá nghề nghiệp cao hơn nhóm học sinh thành phố. Ngược
lại nhóm học sinh thành phố lại có điểm trung bình cao hơn đáng kể so với học
sinh nông thôn ở việc thu thập thơng tin về việc làm.
Khi đi tìm hiểu động cơ chọn nghề của học sinh THPT, một nghiên cứu được
công bố từ năm 1995 đã chỉ ra những động cơ chọn nghề của các em gồm: Theo
sở thích, theo khả năng cá nhân, chọn nghề để tiếp tục học lên…. Bên cạnh đó,
tác giả cũng đã đưa cách tiếp cận giới vào phân tích động cơ chọn nghề của học
sinh THPT.[10]
Cũng cùng với quan điểm trên, tác giả Phạm Thị Ngọc Hà với luận văn về
định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 qua khảo sát tại thành phố Đà Nẵng
cho thấy nữ có nguyện vọng học nghề ở bậc đại học cao hơn nam (67,3% so với
55,7%). Nghiên cứu này đi sâu tìm hiểu định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp


12 ở thành phố Đà Nẵng. Tác giả chỉ ra các yếu tố tác động tới định hướng nghề
nghiệp của học sinh THPT gồm: yếu tố cá nhân, nhà trường, gia đình, bạn bè và
truyền thơng đại chúng. Kết quả nghiên cứu cịn cho thấy, gia đình đã tác động
tới định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 qua nhiều cách thức đồng thời
cũng đem lại nhiều hiệu quả khác nhau. Tuy nhiên, sự tác động từ phía gia đình

chỉ mang tính chất tham khảo đối với học sinh THPT khi lựa chọn nghề nghiệp
trong tương lai. [11]
Các nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy: nhóm ngành được
thanh niên thành phố lựa chọn nhiều nhất là phục vụ quản lý, kỹ sư kỹ thuật, tài
chính, ngân hàng; nhóm ngành ít được lựa chọn khoa học đời sống, khoa học xã
hội, cảnh sát, bộ đội.[14.tr.138]. Nam học sinh nơng thơn lại có xu hướng thi vào
các trường kỹ thuật, nữ tập trung thi vào sư phạm, kinh tế.[3, tr.40]. Những cơ sở
chủ yếu để học sinh chọn trường học tiếp là sự hứng thú, đam mê một nghề nào
đó của bản thân. Tuy nhiên một số yếu tố khác do chính bản thân nghề nghiệp đó
trong xã hội mang lại như: khả năng tìm việc làm sau khi ra trường, thu nhập từ
nghề đó mang lại… Nhìn chung việc chọn trường của học sinh THPT chưa quan
tâm tới chất lượng đào tạo của trường.
Tóm lại, định hướng nghề nghiệp là một trong những vấn đề được nhiều
nhà khoa học quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Những nghiên cứu trước
đây thường chủ yếu tập trung đi tìm hiểu thực trạng việc làm của thanh niên, xu
hướng lựa chọn ngành học, hay những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc chọn
nghề của học sinh THPT. Những yếu tố tác động tới định hướng nghề nghiệp chỉ
là một phần nhỏ trong các nghiên cứu ấy. Trong quá trình tìm và phân tích tài
liệu, tác giả nhận thấy rằng có nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố bản thân học sinh và
yếu tố gia đình học sinh là những yếu tố tác động chính tới việc định hướng nghề
nghiệp của thanh niên, học sinh. Có nghiên cứu lại cho thấy hơn một nửa học
sinh bị cha mẹ áp đặt trong việc định hướng nghề nghiệp. Có nghiên cứu lại cho


rằng học sinh quyết định là chính. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả quyết định
tìm hiểu sâu hơn về “Một số yếu tố tác động tới định hướng nghề nghiệp của
học sinh THPT ngoại thành Hà Nội – Qua khảo sát ở 2 trường THPT Ngoại
thành Hà Nội”. Trong các yếu tố tác động đó, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu sự tác
động của yếu tố thuộc về bản thân và gia đình học sinh.
2. CÁC LÝ THUYẾT SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI

2. 1. Lý thuyết cấu trúc chức năng của T.Parsons
Theo Parsons , xã hội là một chỉnh thể , hệ thống bao gồm nhiều tiểu hệ
thống có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong hệ thống xã hội , hệ thống hành vi
được coi là nền tảng , cơ sở mà nhờ đó con người có khả năng thích ứng với mơi
trường xung quanh
Để giữ sự thống nhất của hệ thống xã hội và đảm cho sự tồn tại của hệ
thống, Parsons cho rằng cần phải nhất thiết cú điều kiện và yêu cầu sau:
Hệ thống phải kết nối được với môi trường một cách hiệu quả và hệ thống
đó phải duy trỡ được sự liên kết bên trong;
Thích nghi - thể hiện sự huy động nguồn lực từ môi trường và phân bố bên
trong hệ thống
Theo đuổi mục tiêu – đây là yêu cầu thiết lập thứ tự các mục tiêu của hệ
thống và huy động nguồn lực của hệ thống để đạt mục tiêu;
Liên kết - sự điều phối và duy trì mối liên kết qua lại của các bộ phận;
Duy trì khn mẫu.
Mỗi hệ thống xã hội có cách thức riêng để đáp ứng các yêu cầu chức năng
trên, điều này được Parsons gọi là những đặc trưng có tính khn mẫu.
Vận dụng lý thuyết này chúng tơi muốn tìm hiểu hành vi lựa chọn nghề
nghiệp của học sinh THPT trên những yếu tố tác động khác nhau : Gia đình , nhà
trường , bạn bè, các yếu tố từ chính bản thân cá nhân của mỗi học sinh ……


2. 2. Lý thuyết tương tác biểu trưng của R.Mead
Con người trở nên người hơn qua việc họ tương tác với nhau. Các nhà
tương tác luận biểu trưng cho rằng con người sở đắc những phẩm tính người rất
riêng, và có thể có hành vi mang tính người rất riêng, chỉ qua việc họ liên đới với
những người khác.
Con người là những hữu thể có ý thức, biết tự-phản tư, và ln chủ động
định hướng hành vi của mình. Những năng lực quan trọng nhất mà con người
phát triển qua việc họ dính líu với xã hội, hay sự tương tác xã hội, là “tâm thức”

và “bản ngã”. Như Mead quan sát thấy, khi phát triển năng lực xem mình như là
những đối tượng và phản ứng lại với mình cũng như là những đối tượng, các cá
đang học cách tương tác với bản thân mình, hay học cách tư duy. Họ cho rằng
con người ta rèn luyện một yếu tố tự chủ quan trọng trong những hành động của
mình. Đồng thời, các nhà tương tác luận hiểu rằng một loạt các nhân tố xã hội
như: ngơn ngữ, văn hóa, chủng tộc, tính sắc tộc, tầng lớp xã hội, và giới cưỡng ép
các lý giải và các hành vi của con người ta. Vì thế, các nhà tương tác luận có thể
được xem là những nhà duy nhiên cẩn trọng hay các nhà quyết định luận ơn hịa;
họ tiền-thiết định rằng các hành động của con người chịu ảnh hưởng chứ không
phải là bị quy định bởi những sự kiện trước đó hay bởi những lực xã hội hay
những lực sinh học.
Vận dụng lý thuyết này, chúng tôi xem xét hành vi lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh THPT như biểu hiện của hành động xã hội có ý thức. Từ đó, dẫn tới
nhận thức về vấn đề nghề nghiệp - việc làm của học sinh THPT.
3. CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI :
3.1 Hướng nghiệp :
Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và phát
triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân, đồng thời


thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp (thị trường lao
động) ở cấp độ địa phương và quốc gia.
Trong đó lựa chọn nghề nghiệp chỉ là một giai đoạn đầu trong tiến trình
hướng nghiệp của mỗi người. Hướng nghiệp là một quá trình liên tục tác động từ
khi người học còn ngồi học ở bậc phổ thơng, qua q trình trao dồi chun mơn
nghề nghiệp và tìm được nơi lao động phù hợp.
3.2 Tự hướng nghiệp
Tự hướng nghiệp là tự mình định hướng nghề nghiệp, tự mình xác định
đúng ngành nghề thích hợp với bản thân và phù hợp với xã hội. Từ đó, bạn tự
chọn hướng trau giồi tính cách và năng lực sao cho hiệu quả, để khi được trúng

tuyển, cả khi học nghề và lập nghiệp sau này được vững chắc. Lúc đó, bạn khơng
phải ân hận vì đã đi nhầm đường, còn vững tin ở tương lai.
3.3 Tư vấn hướng nghiệp
Tư vấn hướng nghiệp là tư vấn về sự hỗ trợ khách quan và cả cách nỗ lực
chủ quan trong q trình hướng nghiệp. Nó có lợi cho người đang cần tư vấn
hướng nghiệp và cũng lợi cho cả người cần dẫn dắt người khác hướng nghiệp
(như phụ huynh, thầy cô, bạn bè…)
3.4 Trung học phổ thông
Trường phổ thông trung học hay cịn được gọi là trường trung học phổ
thơng là một loại hình đào tạo chính quy ở Việt Nam, dành cho lứa tuổi từ 15 tới
18 không kể một số trường hợp đặc biệt. Nó gồm các khối học lớp 10, lớp 11, lớp
12. Sau khi tốt nghiệp hệ giáo dục này, học sinh được nhận bằng tốt nghiệp phổ
thơng trung học có một tên gọi khác cho loại bằng này là "Bằng Tú Tài".
Trường phổ thông được lập tại các địa phương trên cả nước. Người đứng
đầu một ngôi trường được gọi là "Hiệu Trưởng". Trường được sự quản lý trực
tiếp của Phòng Giáo Dục huyện, quận và dưới quyền chỉ đạo của Sở Giáo Dục,



×