TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
------**------
BÀI THUYẾT TRÌNH NHÓM 8
HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐIỀU HÀNH HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
Lớp
: QH 2014 E - TCNH3
Giảng viên hướng dẫn
: TS. Đinh Xuân Cường
Hà Nội, 11/2015
1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8
STT
Mã học viên
Họ và tên
Ngày sinh
1
14057720
Lê Bích Ngọc
06/01/1991
2
14057066
Nguyễn Thị Thúy Nhàn
06/8/1991
3
14057024
Lê Thị Minh Anh
13/12/1991
4
14057741
Trương Thị Thảo
23/12/1989
5
14057717
Nguyễn Thị Nga
02/7/1992
6
14057726
Trần Thị Bích Phương
17/03/1992
2
Ghi chú
Nhóm trưởng
LỜI NÓI ĐẦU
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế nổi bật của thế giới. Hợp
tác quốc tế đã trở thành một yếu tố quan trọng để thúc đẩy khoa học công nghệ và phát triển
kinh tế xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Kể từ khi Việt Nam ra nhập Tổ chức
Thương mại quốc tế WTO ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt Nam đã mở cửa với các Tổ
chức tài chính, ngân hàng trên toàn thế giới. Đây là xu thế tất yếu trong việc phát triển kinh tế
đất nước mà lĩnh vực ngân hàng là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Ngày càng có nhiều ngân
hàng quốc tế thành lập chi nhánh ở Việt Nam. Đây không chỉ là cơ hội để Việt Nam tranh thủ
sự hợp tác, đầu tư của các tổ chức hàng đầu thế giới mà còn là thách thức không nhỏ đối với
các ngân hàng trong nước bắt buộc các ngân hàng cần phải tăng cường hoạt động giao lưu
hợp tác học hỏi kinh nghiệm với các ngân hàng trên thế giới.
Hợp tác quốc tế, mở rộng giao lưu kinh tế là việc làm hết sức quan trọng, trong đó vấn
đề hợp tác quốc tế trong điều hành hoạt động của ngân hàng quốc tế là vấn đề đang được các
ngân hàng Việt Nam quan tâm đầu tư để dần tiến tới chuẩn quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng,
có thể sánh vai với các ngân hàng lớn mạnh khác trên thế giới.
3
1. Tổng quan về ngân hàng quốc tế
1.1 . Khái niệm ngân hàng quốc tế
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc hiểu thế nào là ngân hàng quốc tế. Có nguời hiểu là
ngân hàng có các chi nhánh hoạt động ở nước ngoài. Một định nghĩa khác lại lấy đồng tiền sử
dụng trong giao dịch làm cơ sở phân loại ngân hàng quốc tế với ngân hàng nội địa. Trong đó,
một ngân hàng vẫn chỉ được coi là ngân hàng nội địa nếu tiền gửi cho dù của khách hàng
nước ngoài gửi vào ngân hàng đó là đồng nội tệ. Định nghĩa thứ ba về ngân hàng quốc tế xuất
phát từ quốc tịch của khách hàng và của ngân hàng. Nếu quốc tịch của khách hàng và ngân
hàng khác nhau thì ngân hàng đó được coi là ngân hàng quốc tế.
Tóm lại, yếu tố thực chất quyết định một ngân hàng là quốc tế hay không bao gồm:
- Ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng quốc tế.
- Ngân hàng là một ngân hàng đa quốc gia.
Vì thế, chúng ta có thể định nghĩa rằng: “Ngân hàng quốc tế là ngân hàng thực hiện
các giao dịch đan chéo nhau giữa nhiều quốc gia hoặc ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ
xuyên biên giới của các quốc gia”.
1.2. Các dịch vụ ngân hàng quốc tế:
Dịch vụ ngân hàng quốc tế là các dịch vụ ngân hàng được cung cấp trên thị trường
quốc tế. Ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế thế giới, xu thế hội nhập,
toàn cầu hóa, các ngân hàng hoạt động trên thị trường quốc tế đã cung cấp các dịch vụ rất đa
dạng và phong phú như tín dụng, thanh toán, hỗ trợ marketing, dịch vụ tư vấn… để đáp ứng
các nhu cầu của khách hàng. Sau đây là một số dịch vụ chính mà ngân hàng quốc tế cung cấp.
STT
DANH MỤC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
1 Cung cấp ngoại tệ đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng
Tiến hành các nghiệp vụ phòng chống rủi ro hối đoái (thông qua hợp đồng kỳ hạn, hợp
2
đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai và hợp đồng trao đổi ngoại tệ)
Tiến hành bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty (Cổ phiếu, trái phiếu và
3
giấy nợ)
4
5
6
Tiến hành các nghiệp vụ phòng chống rủi ro lãi suất (thông qua hợp đồng quyền chọn,
hợp đồng tài chính tương lai, hợp đồng trần và hợp đồng trao đổi lãi suất)
Cung cấp tín dụng, thực hiện bảo lãnh tín dụng (các khoản vay trực tiếp, phát hành
giấy nợ như giấy nợ Châu Âu, ADRs v.v…)
Cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế và quản lý tiền mặt (thương phiếu chấp nhận
4
7
8
thanh toán, thư tín dụng và hối phiếu)
Phát hành các công cụ tiết kiệm (CDs, tài khoản tiết kiệm, kế hoạch hưu trí)
Giúp đỡ khách hàng nghiên cứu thị trường nước ngoài (phân tích thị trường nước
ngoài, các biện pháp bảo hiểm và tài trợ thương mại)
(Nguồn: Peter S.Rose. Quản trị ngân hàng thương mại. Nhóm tác giả trường Đại học Kinh tế Quốc
Dân biên dịch, Bảng 23-2, trang 849)
1.3. Một số đặc điểm của ngân hàng quốc tế
Trước hết về mặt xuất xứ, các ngân hàng quốc tế thường là sản phẩm của sự liên minh
giữa những nhà tư bản có thế lực nhất. Trong thời đại ngày nay, khi quốc tế hoá sản xuất
được đẩy mạnh, các công ty của những quốc gia đang phát triển, nhất là những công ty thuộc
nhóm các nước công nghiệp mới, mở rộng thị trường cạnh tranh quốc tế và với sự giúp đỡ
của nhà nước thì chúng có thể vươn ra hoạt động trên phạm vi quốc tế, thậm chí thiết lập
những chi nhánh ở ngay tại các nước tư bản phát triển. Chính vì vậy, các ngân hàng quốc tế
cũng phát triển mạng lưới hoạt động ra phạm vi toàn cầu một cách nhanh chóng.
Đặc điểm thứ hai của ngân hàng quốc tế là những ngân hàng có tầm cỡ quốc tế, hoạt
động trong môi trường kinh doanh quốc tế. Các ngân hàng này thiết lập hệ thống chi nhánh ở
nước ngoài với mục đích nâng cao tỷ suất lợi nhuận thông qua việc bành chướng quốc tế.
Đặc điểm thứ ba của các ngân hàng quốc tế là ngân hàng mẹ hay gọi là Hội sở chính và
các chi nhánh có mối liên kết đặc biệt. Ngân hàng quốc tế luôn có cơ cấu tổ chức gồm hai bộ
phận cơ bản: Ngân hàng mẹ hay Hội sở chính và các chi nhánh. Hội sở chính thường có trụ sở
đặt tại nước mà ngân hàng đó mang quốc tịch. Giữa Hội sở chính và các chi nhánh có mối quan
hệ tương trợ, trong đó Hội sở chính giữ vai trò quản lý chung, các chi nhánh là những đơn vị
hạch toán độc lập nhưng tuân thủ các điều lệ, quy định và chính sách phát triển chung của Hội
sở, tất cả hợp thành một chỉnh thể thống nhất.
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị của ngân hàng quốc tế
Từ một số đặc điểm của ngân hàng quốc tế, chúng ta nhận thấy một số yếu tố quan
trọng ảnh hưởng đến hoạt động quản trị và các quyết định quản trị của ngân hàng quốc tế.
Thứ nhất là môi trường hoạt động của Ngân hàng, của Hội sở chính và các chi nhánh.
Môi trường hoạt động của ngân hàng gồm có các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô và môi
trường ngành. Môi trường vĩ mô gồm có môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường
pháp luật, môi trường công nghệ, môi trường văn hoá xã hội. Môi trường ngành gồm có các
5
đối thủ cạnh tranh, khách hàng, các sản phẩm mới thay thế và các đối thủ tiềm ẩn. Đối với các
ngân hàng quốc tế thì bên cạnh môi trường vĩ mô và môi trường ngành của nước đặt Hội sở
chính thì còn chịu ảnh hưởng của môi trường vĩ mô và môi trường ngành của các nước có chi
nhánh hoạt động, có thể hiểu là môi trường vĩ mô và môi trường ngành quốc tế.
Thứ hai là về mặt quản lý: Nét nổi bật trong vấn đề quản lý của ngân hàng quốc tế là
vấn đề kiểm soát của ngân hàng mẹ đối với các công ty con, ngân hàng con hoặc các chi
nhánh theo phong cách riêng, bằng cách sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thực hiện việc tập trung
hoá có mức độ và kiểm soát chủ yếu theo hệ thống dọc từ trung tâm đến ngoại vi. Theo cách
quản lý đó, vai trò định hướng phát triển chiến lược về tài chính, kỹ thuật, thông tin, tín dụng
của ngân hàng mẹ rất quan trọng, ngân hàng con và các chi nhánh là những đơn vị kinh doanh
hoạt động mang tính độc lập tương đối và trở thành những đơn vị hạch toán độc lập. Do đó
buộc chúng phải năng động, xây dựng các điều kiện và môi trường thích hợp để phát huy tính
năng động.
2. Một số mô hình quản trị cơ bản của các ngân hàng quốc tế
2.1. Một số mô hình quản trị cơ bản của các ngân hàng quốc tế
Trên thế giới, mô hình quản lý ngân hàng quốc tế ở các khu vực và các nước cũng
được thiết lập với cấu trúc và hình thức có thể khác nhau nhưng mô hình quản trị chi nhánh
thông thường được phân loại theo ba yếu tố: Cơ chế đầu tư vốn, cơ chế liên kết kinh doanh và
cơ chế quản lý.
- Theo cơ chế đầu tư vốn: Ngân hàng quốc tế có thể có lựa chọn một trong các mô hình
đầu tư: mô hình đầu tư đơn cấp, mô hình đầu tư đồng cấp, mô hình đầu tư đa cấp, hoặc mô
hình đầu tư hỗn hợp (tức là phối hợp nhiều hình thức đầu tư). Trong mô hình đầu tư đơn cấp,
ngân hàng mẹ lẫn các chi nhánh đều chỉ đầu tư xuống một cấp trực tiếp, không đầu tư xuống
cấp xa hơn. Trong đầu tư đồng cấp, các chi nhánh trong cùng một cấp đầu tư qua lại. Trong
mô hình đa cấp, các chi nhánh, đặc biệt là ngân hàng mẹ, vừa đầu tư trực tiếp vào các chi
nhánh con, đồng thời cũng đầu tư trực tiếp vào các chi nhánh “cháu”, “chắt” ở dưới, không
thông qua chi nhánh trung gian nào. Cuối cùng, mô hình hỗn hợp là mô hình phối hợp nhiều
hình thức đầu tư (đơn cấp, đồng cấp, đa cấp) giữa các chi nhánh trong ngân hàng.
- Theo cơ chế liên kết kinh doanh: Ngân hàng quốc tế có thể lựa chọn mô hình quản trị
chi nhánh theo các mô hình: liên kết theo chiều dọc, liên kết theo chiều ngang và liên kết hỗn
6
hợp. Liên kết theo chiều dọc là mô hình liên kết các chi nhánh hoạt động trong cùng một chuỗi
giá trị ngành. Liên kết theo chiều ngang là sự kết hợp giữa các chi nhánh có các sản phẩm, dịch
vụ liên quan với nhau và có thể sử dụng cùng một hệ thống phân phối để gia tăng hiệu quả. Mối
liên kết này tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, tận dụng hệ thống phân phối để tiết
kiệm chi phí, phân tán rủi ro. Liên kết hỗn hợp là sự kết hợp của cả hai dạng liên kết dọc và
ngang.
- Theo cơ chế quản lý: Ngân hàng quốc tế quản lý chi nhánh theo các mô hình: quản lý
tập trung, quản lý phân tán hoặc quản lý hỗn hợp. Trong mô hình quản lý tập trung, quyền lực
được tập trung ở cơ quan đầu não, thường là tại ngân hàng mẹ. Ngân hàng mẹ quản lý tất cả
các hoạt động của các chi nhánh. Trong mô hình quản lý phân tán, ngân hàng mẹ chỉ đưa ra
định hướng và kiểm soát lại các định hướng đã đặt ra vào cuối quý hoặc cuối năm tài chính và
giao quyền tự chủ hoạt động cho các chi nhánh. Với định hướng chung của ngân hàng mẹ,
các chi nhánh được phép tự chủ trong tất cả các hoạt động kinh doanh của chi nhánh mình
như việc đưa ra các mục tiêu phát triển, các quy định, chính sách về tài chính, đầu tư, nhân
sự… Trong mô hình quản lý hỗn hợp, ngân hàng mẹ vừa giao quyền tự chủ cho các chi
nhánh, vừa thâu tóm quyền lực tại một số lĩnh vực trọng yếu trong các hoạt động kinh doanh
ngân hàng.
2.2. Ví dụ về mô hình quản trị của ngân hàng Mizuho Corporate Bank
2.2.1. Lịch sử hình thành của ngân hàng Mizuho Corporate Bank
Ngân hàng quốc tế Mizuho Corporate Bank (viết tắt là MHCB) có tên là Ngân hàng
Fuji Bank, được thành lập năm 1880 tại Nhật Bản. Năm 2000, ba ngân hàng lớn của Nhật bản
có lịch sử phát triển lâu đời và hùng mạnh của Nhật Bản sáp nhập lại hình thành Tập đoàn tài
chính Mizuho (MHFG). Ba ngân hàng lớn đó là Ngân hàng Dai-Ichi Kangyo Bank, được
thành lập năm 1971, Ngân hàng Fuji Bank Ltd, được thành lập năm 1880 và Ngân hàng Công
nghiệp Nhật Bản, được thành lập năm 1900. Việc sáp nhập hoàn tất vào năm 2002. Sau khi
vụ sáp nhập được hoàn tất, Ngân hàng Fuji Bank đổi tên thành Ngân hàng Mizuho Corporate
Bank, Ltd. MHCB có tên giao dịch thương mại là Mizuho Corporate Bank, Ltd, được thành
lập ngày 01 tháng 04 năm 2002; năm 2013 đổi tên thành Mizuho Bank. Là ngân hàng có tổng
tài sản lớn thứ 2 và tổng vốn đứng thứ 3 tại Nhật. Mizuho là một trong số 20 tập đoàn tài
7
chính lớn nhất toàn cầu bao gồm nhiều lĩnh vực như: ngân hàng; công ty chứng khoán; Quỹ
đầu tư...
2.2.2. Mô hình cấu trúc quản trị của ngân hàng Mizuho Bank
Mô hình cấu trúc quản trị của MHCB, được mô tả ở sơ đồ dưới đây:
Đại hội cổ đông
Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị
(thành viên hội đồng
ngoài công ty)
Ủy ban chính sách kinh
doanh
Hội đồng kiểm toán công ty
(KTV ngoài công ty)
Giám sát
kiểm toán
Ban điều hành
Ủy ban điều hành
Kiểm
toán
Giám đốc điều hành
Ban hoạch định chiến
lược kinh doanh, kiểm
soát tài chính và kế toán
Kiểm toán nội bộ (bao
gồm cả cố vấn bên ngoài)
Nhóm kiểm toán nội bộ
Nhằm đảm bảo các hoạt động kinh doanh của hệ thống chi nhánh trên khắp thế giới
một cách bền vững và hiệu quả, MHCB quản lý hệ thống chi nhánh của mình thông qua hệ
thống quy định kiểm soát nội bộ. Dựa trên hệ thống quy định kiểm soát nội bộ này, mỗi chi
nhánh của MHCB thiết lập và xây dựng hệ thống quy tắc kiểm soát nội bộ phù hợp với đặc
điểm hoạt động của mỗi chi nhánh, phù hợp với các quy định pháp luật tại mỗi nước MHCB
có chi nhánh trên thế giới.
2.3. Mô hình tổ chức hoạt động Ngân hàng HSBC
2.3.1. Lịch sử hình thành
8
HSBC ra đời từ một ý tưởng giản đơn - một ngân hàng địa phương phục vụ các nhu
cầu quốc tế. Vào tháng 3 năm 1865, HSBC đã bắt đầu kinh doanh tại Hồng Kông. Ngày nay,
HSBC phục vụ khoảng 51 triệu khách hàng tại 73 quốc gia và vùng lãnh thổ.
HSBC là một trong những tổ chức dịch vụ tài chính và ngân hàng lớn nhất thế giới.
Ngân hàng phục vụ khách hàng thông qua bốn Khối kinh doanh toàn cầu: Khối Dịch vụ tài
chính cá nhân và Quản lý tài sản, Khối Dịch vụ tài chính doanh nghiệp, Khối Dịch vụ ngân
hàng toàn cầu và thị trường vốn và Khối Ngân hàng tư nhân toàn cầu. Mạng lưới bao phủ 80
quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Âu, châu Á, Trung Đông và Bắc Phi, Bắc Mỹ và châu Mỹ
La-tinh.
Được niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán London, Hồng Kông, New York,
Paris và Bermuda, khoảng 216.000 cổ đông tại 127 quốc gia và vùng lãnh thổ hiện đang nắm
giữ cổ phiếu của Tập đoàn HSBC.
(Số liệu được lấy từ Báo cáo thường niên năm 2014 HSBC)
2.3.2. Mô hình tổ chức hoạt động của HSBC
Mô hình hoạt động của HSBC được dựa trên một cấu trúc quản lý ma trận bao gồm
các doanh nghiệp toàn cầu, khu vực địa lý và chức năng toàn cầu.
Dưới đây là sơ đồ liệt kê tóm tắt cơ cấu trách nhiệm quản lý của HSBC theo 4 doanh
nghiệp toàn cầu, 5 khu vực địa lý và 11 chức năng toàn cầu.
9
TẬP ĐOÀN HSBC
Doanh nghiệp toàn cầu
Khu vực địa lý
Chức năng toàn cầu
- Ngân hàng bán lẻ và dịch vụ
quản lý tài sản.
- Ngân hàng thương mại
- Ngân hàng và thị trường toàn
cầu
- Ngân hàng tư nhân toàn cầu.
- Châu Âu
- Châu Á
- Trung Đông và Bắc Phi
- Bắc Mỹ
- Châu Mỹ La-tinh
- Truyền thông
- Thư ký công ty
- Phát triển bền vững
- Tài chính
- Công nghệ và dịch vụ HSBC
- Nhân sự
- Kiểm toán nội bộ
- Pháp lý
- Tiếp thị
- Rủi ro
- Chiến lược và kế hoạch
Chịu trách nhiệm xây dựng chiến
lược kinh doanh, các mô hình
hoạt động và kế hoạch ban hành
định hướng liên quan đến doanh
nghiệp phù hợp trên toàn cầu,
chịu trách nhiệm đối với lợi
nhuận và hiệu suất mất mát để
quản lý số lượng nhân viên của
họ.
Chia sẻ trách nhiệm để thực
hiện chiến lược kinh doanh
theo quy định của các doanh
nghiệp toàn cầu. Đại diện cho
Tập đoàn tới khách hàng, nhà
quản lý, các nhóm nhân viên
và các bên liên quan khác; bố
trí vốn; quản lý rủi ro thanh
khoản và nguồn tài trợ của
pháp nhân; và chịu trách
nhiệm về lỗ, lãi hiệu quả phù
hợp với kế hoạch kinh doanh
toàn cầu.
Thiết lập và quản lý tất cả các
chính sách, quy trình và các nền
tảng cung cấp có liên quan đến
hoạt động của mình, phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm về chi phí
của họ trên toàn cầu và chịu
trách nhiệm quản lý số lượng
nhân viên của họ.
10
Cơ cấu ban quản trị và khuôn khổ hoạt động của Hội đồng quản trị Tập đoàn HSBC
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TẬP ĐOÀN HSBC
ỦY BAN RỦI RO
TẬP ĐOÀN
ỦY BAN KIỂM TOÁN
TẬP ĐOÀN
ỦY BAN THÙ
LAO TẬP ĐOÀN
ỦY BAN ĐỀ CỬ
Ủy ban Rủi ro (GRC)
có trách nhiệm tham
mưu cho HĐQT về các
vấn đề rủi ro liên quan
đến cấp cao, quản trị
rủi ro và kiểm soát nội
bộ.
GAC không chịu trách
nhiệm cho việc giám sát,
và đưa lời khuyên với
HĐQT, giải quyết vấn đề
liên quan đến quá trình
lập báo cáo tài chính và
điều khiển trên báo cáo
tài chính nội bộ.
Có trách nhiệm phê
duyệt chính sách
đãi ngộ, thiết lập
các nguyên tắc, các
thông số và quản trị
bao quát khuôn khổ
chính sách đãi ngộ
của Tập đoàn và
tiền lương của giám
đốc điều hành cấp
cao.
Xác định và đề c
ứng cử viên, chín
Hội đồng với sự
của chuyên gia tư
bên ngoài cho ph
hợp, bảo đảm đá
kế hoạch phù hợp
được đưa ra có tr
để Hội đồng quả
phản ánh sự cân
thích hợp các kỹ
và kinh nghiệm t
Hội đồng.
BAN GIÁM
ĐỐC
BAN LỖ HỔNG HỆ
THỐNG TÀI CHÍNH
BAN HÀNH VI VÀ
GIÁ TRỊ
Ban giám đốc
có trách nhiệm
quản lý và
kiểm soát các
hoạt động
thường ngày
của tập đoàn
HSBC dưới sự
chỉ đạo trực
tiếp của hội
đồng quản trị
Giám sát các vấn đề liên
quan đến phòng, chống
rửa tiền, lệnh cấm vận,
tài trợ khủng bố và gia
tăng tài chính, bao gồm
cả việc thành lập, thực
hiện, duy trì và xem xét
lại các chính sách và thủ
tục phù hợp đủ để đảm
bảo nghĩa vụ tiếp tục
cho các cơ quan thực thi
quy định và pháp luật
đều được đáp ứng.
Tư vấn cho Ban
Giám đốc về các
chính sách, thủ tục và
tiêu chuẩn để đảm
bảo rằng Tập đoàn
tiến hành kinh doanh
có trách nhiệm và
luôn luôn tôn trọng
giá trị của HSBC,
đảm bảo rằng trong
việc tiến hành kinh
doanh của mình
HSBC đối xử với
khách hàng một cách
công bằng và công
khai.
11
ỦY BAN TỪ THIỆN
VÀ GIÁM SÁT
ĐẦU TƯ CỘNG
ĐỒNG
Giám sát các hoạt
động đầu tư từ thiện
và cộng đồng của
HSBC trong việc hỗ
trợ các mục tiêu
phát triển bền vững
của công ty của Tập
đoàn.
ỦY
CH
Thay
đồng
trong
cuộc
lịch t
trong
hợp c
cầu c
thuận
bách
đồng
để tạ
kiện
cáo,
doan
Mô hình Hội đồng quản trị Tập đoàn HSBC
3. Hợp tác quốc tế trong điều hành hoạt động ngân hàng quốc tế
3.1 .Hợp tác quốc tế trong điều hành hoạt động ngân hàng quốc tế
3.1.1. Hợp tác quốc tế
a, Quan hệ quốc tế
Về cơ bản, quan hệ quốc tế là tổng thể các quan hệ giữa các quốc gia với nhau trong
cuộc đấu tranh vì lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trên phạm vi toàn thế giới.
Về cụ thể, quan hệ quốc tế biểu hiện qua các giao tiếp, giao dịch, các tương tác (tức
các hoạt động có ảnh hưởng qua lại) trên phạm vi xuyên quốc gia, thể hiện qua sự hợp tác và
đấu tranh trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội giữa các quốc gia,
nhằm thực hiện các lợi ích về kinh tế, an ninh, chính trị, văn hóa xã hội. Xã hội quốc tế càng
phát triển qua việc gia tăng số lượng chủ thể, sự thay đổi so sánh lực lượng, sự gia tăng các
vấn đề và lĩnh vực tương tác thì phương pháp xử lý quan hệ quốc tế càng đa dạng, phức tạp
trên mọi lĩnh vực.
Các khái niệm trên đòi hỏi cần nhận biết thế nào là chủ thể quan hệ quốc tế, các biểu
hiện của quan hệ quốc tế, quy mô của các mối quan hệ quốc tế và tính chất của các mối quan
hệ quốc tế. Nhận thức được các biểu hiện, quy mô, tính chất là một quá trình phức tạp, công
phu, cần chú ý cả các xu hướng chính và đặc thù, cả các nhân tố hữu hình và vô hình, cả biểu
hiện trong lịch sử, hiện tại và chiều hướng biểu hiện trong tương lai gần và xa, trong đó, cần
tập trung vào các vấn đề có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu quốc gia trong
hoạt động đối ngoại.
Quan hệ quốc tế đã phát triển qua nhiều thời kỳ lịch sử và trong mỗi thời kỳ lại có các
giai đoạn phát triển nhất định. Nhìn vào lịch sử, đã xuất hiện quan hệ quốc tế thời cổ đại;
quan hệ quốc tế kiểu phong kiến; quan hệ quốc tế trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội.
b, Hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế là việc phối hợp hoạt động giữa hai hay nhiều chủ thể quan hệ quốc tế
nhằm thực hiện các lợi ích nhất định. Hợp tác vừa có khái niệm rộng vừa có khái niệm hẹp,
có các hoạt động hợp tác dưới nhiều hình thức khác nhau. Hợp tác diễn ra trên cơ sở tự
nguyện của các bên khi nhận thấy việc thực hiện hoặc điều chỉnh chính sách của quốc gia này
tạo điều kiện thực hiện lợi ích quốc gia khác. Hợp tác còn là biện pháp tránh xung đột, đồng
thời cũng là biện pháp đấu tranh.
Hợp tác thể hiện qua hành vi, ứng xử, hoạt động có tác động qua lại giữa các quốc gia
hoặc chủ thể khác, qua việc xây dựng các thể chế, các quy tắc ứng xử, các luật lệ, thủ tục để
phối hợp chính sách ở các quy mộ khác nhau, qua các cuộc đàm phán trên mọi lĩnh vực kinh
12
tế, chính trị, an ninh, văn hóa - Xã hội, môi trường, các vấn đề toàn cầu, được biểu hiện tập
trung ở sự hội nhập quốc tế, qua các việc xây dựng, tham gia các cơ chế xử lý quốc tế trên
từng lĩnh vực hoặc mọi lĩnh vực, qua các biện pháp xử lý cụ thể các vấn đề quốc tế như tham
gia cứu nạn, tham gia chống khủng bố, tham gia một hoạt động quân sự nào đó, tập trận, gìn
giữ hòa bình, các chiến dịch quân sự chống các quốc gia khác. Có hành động hợp tác do bị
cưỡng chế cần được coi là áp đặt.
- Xung đột và hợp tác trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra đồng thời. Ngay trong một liên
mình vẫn có xung đột lợi ích. Do vậy, đấu tranh và hợp tác luôn là hai mặt của một quá trình
thực hiện quan hệ quốc tế.
- Hợp tác có thể diễn ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều quy mô, nhiều mục tiêu và hiện pháp
khác nhau. Có hợp tác là liên minh, có hợp tác mang tính chế tài, có hợp tác chỉ là các phong
trào mang tính diễn đàn, chỉ mang tính chất đồng thuận và tự nguyện, chưa đạt đến mức độ có
chế tài. Có hợp tác song phương, đa phương, hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế, hợp tác liên
chính phủ hoặc phi chính phủ.
- Công cụ chính của hợp tác là hoạt động ngoại giao, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao
phi Chính phủ, thể hiện ở nhiều cấp độ và lĩnh vực khác nhau.
- Hợp tác có khi vì lợi ích chung, xong có khi vì lợi ích của một nhóm nước và lãin thiệt
hại lợi ích của nước khác (Các nước thực dân phối hợp với nhau để bóc lột thuộc địa, các
nước lớn dàn xếp với nhau, hy sinh lợi ích các nước nhỏ, hợp tác để chia ảnh hưởng). Do vậy,
xét tính chất của hợp tác, cần xét mục đích của hợp tác, xét lợi ích trước mắt và lâu dài, và
khả năng khai thác sự hợp tác để phục vụ lợi ích quốc gia.
c, Hợp tác quốc tế của ngân hàng
Hợp tác quốc tế của các ngân hàng cần phải dựa trên hai nền tảng: hệ thống quốc gia
có khả năng giám sát kinh doanh quốc tế các ngân hàng của họ; và các cơ quan nhà nước tạo
điều kiện dễ dàng để hợp tác trong việc giám sát các hoạt động của cơ sở ở nước ngoài của
các ngân hàng của mình và của các cơ sở của các ngân hàng nước ngoài trong lãnh thổ của
mình. Hợp tác không thể được thực hiện nếu không tồn tại thỏa thuận có hiệu lực để việc trao
đổi thông tin giữa các cơ quan giám sát về hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền của riêng họ
trên một cơ sở bí mật.
Như vậy, có thể hiểu hợp tác quốc tế điều hành hoạt động ngân hàng quốc tế là sự phối
hợp hoạt động giữa hai hay nhiều ngân hàng quốc tế nhằm thực hiện các lợi ích nhất định.
13
3.2. Hợp tác quốc tế trong điều hành hoạt động ngân hàng quốc tế
3.2.1. Các vấn đề cần hợp tác trong hoạt động ngân hàng quốc tế
a, Hoạt động thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện chi trả bằng tiền, liên quan đến các dịch vụ mua bán
hàng hoá hay cung ứng dịch vụ không mang tính chất hàng hoá giữa tổ chức hoặc cá nhân của
nước này với tổ chức hay cá nhân của nước khác; hay giữa một hoặc nhiều quốc gia với một
hoặc nhiều tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan.
Do vậy, hoàn toàn khác với thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế liên quan đến việc trao
đổi tiền quốc gia nước này lấy tiền quốc gia nước khác.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán quốc tế
trong đó phương thức thanh toán là điều kiện quan trọng bậc nhất. Thanh toán quốc tế qua
ngân hàng có ba phương thức thanh toán chủ yếu là chuyển tiền, nhờ thu và thanh toán tín
dụng chứng từ. Để tiến hành được chuyển tiền quốc tế cũng như thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán quốc tế khác, việc thiết lập mối quan hệ với các ngân hàng thanh toán ở nước
ngoài là rất cần thiết.
b, Hoạt động tín dụng quốc tế
Tín dụng quốc tế là việc nhượng quyền sử dụng vốn của chủ thể nước này cho chủ thể
nước kia nhằm mục đích kinh doanh theo nguyên tắc hoàn trả, có kỳ hạn và được đền bù. Các
chủ thể tham gia tín dụng quốc tế được quy định theo luật thương mại của mỗi quốc gia.
+ Bao thanh toán tương đối (Factoring)
Hợp đồng Bao thanh toán tương đối Factoring contract) là hợp đồng giữa đơn vị bán và
đơn vị bao thanh toán (factors), theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng cho các đơn
vị bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ
giữa người bán và người mua hàng.
Bao thanh toán tương đối quốc tế (international factoring): là Bao thanh toán tương đối
liên quan tới ít nhất hai quốc gia khác nhau, dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu. Điểm khác
biệt của bao thanh toán quốc tế so với bao thanh toán nội địa là khả năng có sự tham gia của
hai đơn vị bao thanh toán ở hai nước đứng ra làm đại lý cho nhau để cũng cấp dịch vụ cho
người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu.
14
+ Bao thanh toán tuyệt đối ( Forfaiting)
Bao thanh toán tuyệt đối là thuật ngữ dùng chỉ việc mua lại các khoản nợ phải trả trong
tương lai, phát sinh từ việc giao hàng hóa hoặc dịch vụ, chủ yếu là từ hoạt động xuất khẩu
hàng hóa với điều kiện miễn truy đòi lại nhà xuất khẩu.
Bao thanh toán tuyệt đối là một cơ chế tài chính nhằm chuyển hoạt động bán hàng theo
hình thức tín dụng của nhà xuất khẩu sang giao dịch tiền mặt.
+ Cho thuê (Leasing)
Cho thuê tài chính quốc tế là một thỏa thuận hợp đồng cho phép một bên (bên đi thuê)
được sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty cho thuê (bên cho thuê) và thực hiện các
khoản chi trả định kỳ được quy định cụ thể. Bên đi thuê có thể thuê từ nhà xuất khẩu nước
ngoài, hoặc có thể thuê trực tiếp từ công ty cho thuê nước ngoài. Thực chất hoạt động cho
thuê tài chính quốc tế là hoạt động tài trợ trung, dài hạn cho người nhập khẩu thông qua việc
cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác.
c, Hoạt động Kinh doanh ngoại hối
Trong xu thế hội nhập với nền kinh tế quốc tế, các ngân hàng đang hoàn thiện mô hình tổ
chức quản lý và đa dạng hoá các nghiệp vụ theo hướng tài chính hoá. Trong bối cảnh đó, kinh
doanh ngoại tệ đang dần khẳng định vị thế của mình: góp phần tạo cơ sở và điều kiện phát
triển, bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động ngoại thương, thanh toán quốc tế diễn ra suôn sẻ; trở
thành một hoạt động không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh tổng thể của ngân
hàng hiện đại, góp phần nâng cao uy tín và vị trí của ngân hàng trong toàn ngành.
Kinh doanh ngoại tệ theo nghĩa rộng bao gồm việc mua bán ngoại tệ, đảm bảo ổn định số
dư tài khoản kinh doanh ngoại tệ tại nước ngoài và tìm cách thu lời thông qua chênh lệ tỷ giá
và lãi suất giữa các đồng tiền khác nhau. Theo nghĩa hẹp, kinh doanh ngoại tệ chỉ đơn giản là
việc mua bán số dư trên tài khoản bằng ngoại tệ.
d, Bảo lãnh quốc tế
Bảo lãnh ngân hàng là một hợp đồng giữa hai bên, một bên là ngân hàng phát hành bảo
lãnh (guarantor) và một bên là người thụ hưởng bảo lãnh (benefiary), trong đó bên bảo lãnh
cam kết sẽ hoàn trả một khoản tiền nhất định cho người thụ hưởng trong trường hợp người
được bảo lãnh (account party) không thực hiện một nghĩa vụ nào đó được quy định trong bảo
lãnh.
15
Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập và tách biệt trong quan hệ vay nợ hoặc hợp đồng
mua bán. Trong đó, bảo lãnh quốc tế là loại bảo lãnh mà người yêu cầu bảo lãnh, người được
bảo lãnh và ngân hàng đứng ra bảo lãnh ngoài phạm vi một quốc gia. Mục đích của bảo lãnh
là nhằm ngăn chặn những rủi ro có thể phát sinh trong các dịch vụ mua bán không thường
xuyên đồng thời bù đắp những thiệt hại về mặt tài chính cho người thụ hưởng một cách nhanh
chóng và chắc chắn vì thế có mục đích thực hiện ngay.
Hoạt động bảo lãnh thường được tiến hành trên cơ sở văn bản pháp lý quốc tế thông
dụng của bảo lãnh là "Các quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu của Phòng thương mại
quốc tế số 458, ban hành vào tháng 04/1992" (URDG 458). Bảo lãnh quốc tế có nhiều loại,
căn cứ vào mục đích của bảo lãnh có: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo
lãnh thanh toán, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh nhận hàng; theo phương thức phát hành
bảo lãnh : bảo lãnh trực tiếp, bảo lãnh đối ứng, bảo lãnh xác nhận...
e, Tài trợ xuất nhập khẩu
* Tín dụng tài trợ cho người xuất khẩu: Ngân hàng thương mại cho các thương nhân
xuất khẩu vay dưới hình thức như chiết khấu hối phiếu, cầm cố hàng hoá, cho vay trong quá
trình sản xuất. Người xuất khẩu có thể vay ngân hàng bằng cách chiết khấu các hối phiếu
chưa đến hạn trả tiền. Đây là loại tín dụng rất phổ biến ở các nước. Số tiền vay bằng cách
chiết khấu hối phiếu thường nhỏ hơn số tiền ghi trên hối phiếu. Số tiền chênh lệch là lợi tức
chiết khấu. Ngân hàng còn cho người xuất khẩu vay căn cứ vào quá trình chuẩn bị và thực
hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá và cung ứng dịch vụ. Tín dụng ngân hàng cấp cho người
xuất khẩu là loại tín dụng có hàng hoá làm vật đảm bảo. Vì vậy, hạn mức được vay có khi đạt
tới 80% giá trị hàng hoá và thời hạn vay là ngắn hạn.
* Tín dụng tài trợ cho người nhập khẩu: Các ngân hàng thương mại cấp tín dụng cho
người nhập khẩu dưới hình thức cho vay thấu chi, mở thư tín dụng thương mại, chấp nhận hối
phiếu... Trong các hình thức đó, chấp nhận hối phiếu và vay thấu chi là hình thức phổ biến
hơn cả. Việc chấp nhận trả tiền hối phiếu cho người nhập khẩu rõ ràng là không được tín
nhiệm bằng sự chấp nhận trả tiền bằng hối phiếu của ngân hàng. Vì vậy, người xuất khẩu
thường yêu cầu người nhập khẩu phải dùng ngân hàng thương mại là người chấp nhận những
hối phiếu mà họ ký phát và chuyển thẳng hối phiếu cho ngân hàng người nhập khẩu. Ngân
hàng phải sử dụng vốn của mình phải chịu rủi ro và tổn thất xảy ra đối với hối phiếu do vậy
16
ngân hàng phải thu thủ tục phí chấp nhận cao. Ngân hàng theo yêu cầu người nhập khẩu có
thể chấp nhận từng chuyến giao hàng riêng biệt và cũng có thể chấp nhận bao, tức là chấp
nhận một hạn ngạch nhất định. Một hình thức chấp nhận không kém phần phổ biến trong
ngoại thương là tái chấp nhận. Tái chấp nhận là một hình thức phổ biến trong đó người xuất
khẩu không chuyển hối phiếu đến ngân hàng phục vụ người nhập khẩu yêu cầu chấp nhận trả
tiền, mà chuyển đến một ngân hàng hạng nhất mà hai bên đã thoả thuận yêu cầu chấp nhận.
Như vậy, có thể thấy vai trò của việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạt động ngân
hàng là vô cùng cần thiết. Không chỉ riêng các ngân hàng quốc tế mà cả các ngân hàng
thương mại có nghiệp vụ ngân hàng quốc tế đều cần phải tích cực tham gia hội nhập và tăng
cường hợp tác cùng các ngân hàng khác trên thế giới. Điều này mang đến rất nhiều thuận lợi
và cơ hội phát triển cho cả đôi bên.
3.2.2. Các quy định kiểm soát hoạt động ngân hàng quốc tế
Hiện nay hầu hết các nước khi ra nhập vào WTO đều đang áp dụng và hướng tới áp
dụng các tiêu chuẩn theo Hiệp ước Vốn Basel II trong việc kiểm soát, giám sát hoạt động
ngân hàng.
Hiệp ước Vốn Basel do Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (Basel commitee on
Banking Supervision-BCBS) ban hàng. Ủy ban này được thành lập năm 1974 bởi nhóm các
ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel,
Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập niên 1980.
Năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn - được đề cập như là Hiệp
ước Vốn Basel (The Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ thống này cung cấp khung đo
lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ phổ biến trong các
quốc gia thành viên mà còn phổ biến ở hầu hết các nước khác có ngân hàng hoạt động quốc
tế. Đến năm 1996, Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có
khá nhiều điểm hạn chế. Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, ban đề xuất
khung đo lường mới. Đến ngày 26/6/2004, Hiệp ước Vốn Basel mới hay Basel II chính thức
được ban hành. Mục tiêu của Basel II nhằm:
• Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế,
17
• Tạo lập và duy trì sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc
tế.
• Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.
Basel II đưa ra cách tiếp cận mới mà các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ dựa trên ba
nguyên tắc cơ bản mà các ngân hàng quốc tế khi hoạt động bắt buộc phải tuân theo:
Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang trải
cho các hoạt động chịu rủi ro của toàn bộ ngân hàng, bao gồm cả Hội sở và tất cả các chi
nhánh, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Theo đó, cách tính chi
phí vốn đối với rủi ro tín dụng quy định trong Basel II có sự sửa đổi lớn so với quy định trong
Basel I và thay đổi nhỏ đối với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản mới trong rủi
ro tác nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn về các loại rủi
ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng các giám sát viên có thể đánh giá được tính đầy đủ
của những biện pháp đánh giá này. Với nguyên tắc này, Basel II nhấn mạnh các vấn đề bắt
buộc của công tác rà soát, giám sát trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các ngân hàng cần
phải xây dựng quy trình đánh giá về mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và thiết
lập các chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.
Nguyên tắc thứ ba: các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường. Với nguyên tắc này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các
ngân hàng phải công khai và minh bạch thông tin từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ
đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại
rủi ro này. Ngoài một số nguyên tắc cơ bản của Basel, trong quá trình quản trị chi nhánh mỗi
ngân hàng đa quốc gia còn xây dựng những nguyên tắc quản lý đặc thù tuỳ theo mục đích quản
trị chiến lược của ngân hàng đó.
3.3. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam
3.3.1. Một số động thái của Ngân hàng Nhà nước trong việc xúc tiến hợp tác quốc tế
lĩnh vực ngân hàng
18
Với sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhiều tổ chức tài
chính nước ngoài đã tiếp cận thị trường tài chính-tiền tệ Việt Nam để tham gia vào thị trường
này dưới nhiều hình thức khác nhau. Do việc áp dụng lộ trình nới lỏng các quy định đối với
các tổ chức tài chính nước ngoài, nhất là về việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
mở chi nhánh và các điểm giao dịch, dỡ bỏ dần hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND và
khả năng mở rộng dịch vụ ngân hàng nên hoạt động của các ngân hàng nước ngoài ngày càng
sôi động.
Kể từ khi Việt Nam mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng đến nay, các ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam luôn là một bộ phận quan trọng trong hệ thống Ngân hàng Việt
Nam. Các ngân hàng nước ngoài có mặt tại thị trường Việt Nam ngay từ đầu những năm
1990, sau khi hệ thống ngân hàng Việt Nam được phân thành hai cấp, với hai loại hình: Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Tuy nhiên, Luật Các tổ chức tín dụng
sửa đổi năm 2004 đã cho phép thêm một hình thức hiện diện thương mại mới, đó là ngân
hàng 100% vốn nước ngoài. Với sự xuất hiện thêm loại hình ngân hàng mới này đã làm tăng
tính hấp dẫn và phong phú cho thị trường tài chính Việt Nam.
Khoản 9, Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 về Nhiệm vụ,
quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước quy định: Ngân hàng Nhà nước có quyền “Cấp, sửa đổi,
bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, giấy phép thành lập
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng
nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt
động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng; cấp,
thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp thuận
việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng theo quy định của
pháp luật.”
Khoản 1, điều 52 về Đối tượng thanh tra ngân hàng; Ngân hàng Nhà nước thanh tra các
đối tượng sau đây: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện
của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Trong
19
trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh
tra hoặc phối hợp thanh tra công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng”
Ngoài ra, Điều 61 - Phối hợp thanh tra, giám sát ngân hàng giữa Ngân hàng Nhà nước
với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài của Luật này cũng
quy định:
1. Ngân hàng Nhà nước trao đổi thông tin và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền thanh
tra, giám sát ngân hàng của nước ngoài trong việc thanh tra, giám sát đối tượng thanh tra,
giám sát ngân hàng nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và đối tượng thanh tra,
giám sát ngân hàng của Việt Nam hoạt động ở nước ngoài.
2. Ngân hàng Nhà nước thỏa thuận với cơ quan có thẩm quyền thanh tra, giám sát ngân
hàng của nước ngoài về hình thức, nội dung, cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp thanh tra,
giám sát phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh đó, Điều 7, 8 Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 cũng quy định:
Cụ thể, Điều 7- Quyền tự chủ hoạt động:
1. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự chủ trong hoạt động
kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không tổ chức, cá nhân
nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.
2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền từ chối yêu cầu cấp tín
dụng, cung ứng các dịch vụ khác nếu thấy không đủ điều kiện, không có hiệu quả, không phù
hợp với quy định của pháp luật.
Khoản 1, Điều 89: Quản trị, điều hành của chi nhánh ngân hàng nước ngoài: “Ngân
hàng nước ngoài quyết định cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành của chi nhánh ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam phù hợp với pháp luật của nước nơi ngân hàng nước ngoài đặt trụ sở
chính và quy định của Luật này về cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành, kiểm soát nội bộ, kiểm
toán nội bộ và phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi thực hiện”
20
3.3.2. Ví dụ về hợp tác quốc tế giữa ngân hàng Viettinbank Việt Nam và Ngân hàng
Bank of Tokyo - Mitsubishi UFJ
Hoạt động Thanh toán quốc tế và Tài trợ thương mại (TTQT và TTTM) của
VietinBank đã tăng trưởng mạnh mẽ trong 5 tháng đầu năm 2015. Cùng với nỗ lực của
VietinBank là hoạt động hợp tác chặt chẽ với Bank of Tokyo - Mitsubishi UFJ (BTMU) để
triển khai các loại hình sản phẩm, dịch vụ (SPDV). Sự hợp tác này ngày càng mang lại những
giá trị lợi ích cho khách hàng của VietinBank.
TTQT và TTTM là lĩnh vực hoạt động được Ban Lãnh đạo VietinBank hết sức coi
trọng. Trong bối cảnh cạnh tranh diễn ra quyết liệt giữa các ngân hàng trong nước và nước
ngoài, VietinBank đã tìm tòi hướng đi; tái cơ cấu hoạt động nhằm tiết giảm chi phí, cung cấp
các SPDV một cách chuyên nghiệp với chất lượng cao… Tất cả những điều đó đều hướng
đến mục tiêu mang lại lợi ích cho khách hàng.
Phân tích và định dạng mỗi khách hàng đều có những yêu cầu riêng biệt về từng loại
hình SPDV TTQT và TTTM, Sở Giao dịch (SGD) VietinBank đã chọn lọc các ngành hàng
đặc thù, các khách hàng thuộc thành phần kinh tế khác nhau (đặc biệt là Khối Khách hàng
FDI) để xây dựng gói SPDV phù hợp cho từng đối tượng. Hoạt động này cho phép SGD cung
cấp đa dạng, phong phú các loại hình SPDV để tối đa hóa khả năng đáp ứng nhu cầu của
khách hàng. Thỏa mãn nhu cầu của các phân khúc khách hàng chuyên biệt là bước đột phá
trong hoạt động TTQT và TTTM của VietinBank.
Một trong những sản phẩm đặc trưng và có sức cạnh tranh trên thị trường hiện nay là
sản phẩm Thư tín dụng trả chậm, thanh toán trả ngay (UPAS LC). Đây là sản phẩm hợp tác
giữa VietinBank và BTMU. Sản phẩm được triển khai từ năm 2013 với lãi suất đa dạng và ưu
đãi áp dụng cho các đối tượng khách hàng phát hành Thư tín dụng nhập khẩu tại VietinBank.
Đồng thời, BTMU đang cùng SGD VietinBank xây dựng các giải pháp linh hoạt để đáp ứng
nhu cầu đa dạng của khách hàng, trong đó có sản phẩm UPAS LC cho phép khách hàng nhập
khẩu trả nợ trước hạn. Với sự hợp tác đó, tính đến 31/5/2015, SGD đã thực hiện được 47 giao
dịch với tổng giá trị đạt 33.043 triệu USD.
Không chỉ hợp tác thành công sản phẩm UPAS LC để khai thác lợi thế của BTMU về
nguồn vốn lãi suất thấp và tăng khả năng cạnh tranh của VietinBank trong việc phục vụ khách
hàng TTQT và TTTM, VietinBank và BTMU còn hợp tác tích cực về sản phẩm Tái tài trợ thư
21
tín dụng, doanh số thực hiện trong 5 tháng đầu năm 2015 là 50 triệu USD. Nhờ có nguồn vốn
ngoại tệ hợp lý từ BTMU, VietinBank có thể đáp ứng được nhu cầu tài trợ vốn ngoại tệ đa
dạng của khách hàng cho hoạt động TTQT và TTTM.
Bên cạnh đó, để nâng tầm năng lực hợp tác với BTMU, VietinBank cũng đang thiết kế
các giải pháp, sản phẩm mới để phục vụ cho các phân khúc khách hàng một cách tối ưu. Có
thể kể ra đây các sản phẩm được “sinh ra” từ sự hợp tác giữa VietinBank với BTMU:
Sản phẩm Hợp tác xác nhận LC (LC double confirmation): Với sản phẩm này,
VietinBank xác nhận Thư tín dụng (LC) do ngân hàng trong nước phát hành và thông báo đến
BTMU để xác nhận LC cho người hưởng. Cấu trúc sản phẩm này sẽ góp phần tăng thu nhập
cho VietinBank, tăng uy tín của VietinBank với các ngân hàng cổ phần trong nước; đồng thời
tăng khối lượng giao dịch hợp tác về TTQT và TTTM giữa VietinBank và BTMU.
Sản phẩm Hợp tác cung cấp dịch vụ thông báo/xử lý LC xuất khẩu cho các khách
hàng xuất khẩu có đối tác ở Nhật Bản: VietinBank và BTMU đang hợp tác đưa ra chương
trình ưu đãi thu hút dành cho khách hàng xuất khẩu là người hưởng của LC do BTMU phát
hành đi thị trường Việt Nam qua VietinBank. Đồng thời nghiên cứu cấu trúc hợp tác để tận
dụng lợi thế về nguồn vốn lãi suất thấp của BTMU, từ đó tài trợ cho khách hàng xuất khẩu
với mức lãi suất cạnh tranh so với các ngân hàng cạnh tranh trong nước.
Ngoài ra, VietinBank và BTMU đang đẩy mạnh hợp tác đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu
về TTQT và TTTM. Theo đó, ngày 13 - 14/4/2015 vừa qua, SGD VietinBank đã phối hợp với
BTMU tổ chức thành công khóa đào tạo về các sản phẩm TTTM mới và công tác tiếp thị/bán
sản phẩm TTTM. Đây là khóa đào tạo dành cho cán bộ quan hệ khách hàng doanh nghiệp tại
TSC, cán bộ TTTM tại SGD và chi nhánh trên địa bàn Hà Nội, TP. HCM và các khu vực lân
cận.
Trong thời gian tới, VietinBank và BTMU sẽ phối hợp tổ chức các chương trình đào
tạo về TTTM và TTQT ở mức độ mở rộng. Từ đó trang bị kiến thức cho cán bộ VietinBank
có vị trí và hoạt động nghiệp vụ liên quan đến lĩnh vực này trong toàn hệ thống. Với nỗ lực
của VietinBank và sự hợp tác tích cực từ BTMU, hoạt động TTQT và TTTM đang đi đúng
hướng và khẳng định năng lực cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu của khách hàng ở cả thị trường
trong và ngoài nước.
22
Ngày 27/12/2012, Hợp đồng đầu tư chiến lược và Hợp đồng hợp tác toàn diện giữa
VietinBank và BTMU chính thức được ký kết. BTMU trở thành nhà đầu tư chiến lược, sở
hữu 20% cổ phần của VietinBank. Ông Takami Onodera - Tổng Giám đốc điều hành, Tổng
Giám đốc khu vực Châu Á và Châu Đại Dương BTMU đã nhấn mạnh: Trở thành cổ đông
chiến lược nước ngoài tại VietinBank, BTMU cam kết hỗ trợ VietinBank củng cố năng lực tài
chính, tăng an toàn cho hoạt động. Hai bên sẽ khai thác nhiều nguồn lực để nâng cao năng lực
quản trị điều hành, quản trị rủi ro, phát triển SPDV, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đào
tạo phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh hơn nữa việc cung cấp các dịch vụ tài chính tại Việt
Nam và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng.
23