Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích các cơ sở và ý nghĩa của việc đặt ra các nguyên tắc đánh thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.96 KB, 13 trang )

Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

Phân tích các cơ sở và ý nghĩa của việc đặt ra các nguyên tắc
đánh thuế - Hãy làm rõ mức độ thể chế hóa các nguyên tắc
đánh thuế đó trong pháp luật thuế ở nước ta hiện nay.
A. MỞ BÀI
Thuế ra đời là ra đời là một yếu tố khách quan gắn liền với nhà nước,
nhằm duy trì hoạt động bộ máy nhà nước; Thuế là nguồn đóng góp chủ yếu
cho ngân sách nhà nước. Nguyên tắc đánh thuế của nhà nước là hệ thống
quan điểm chỉ đạo chi phối sâu sắc việc đề ra hoặc xóa bỏ hệ thống thuế, nó
ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế; liên
quan trực tiếp đến quyền lợi của người nộp thuế và nhà nước.

B. NỘI DUNG
I. Khái niệm thuế và các nguyên tắc đánh thuế
1, Khái niệm thuế
“Thuế là khoản thu nộp mang tính chất bắt buộc mà các tổ chức và cá
nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định theo quy
định của pháp luật”1
2, Các nguyên tắc đánh thuế.
Nguyên tắc đánh thuế của nhà nước là hệ thống quan điểm chỉ đạo chi
phối sâu sắc về việc đề ra hoặc xóa bỏ hệ thống thuế của một quốc gia, có
ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế.
Thuế liên quan đến quyền lợi trực tiếp của người nộp thuế và nhà nước.
Nếu không xác định hoặc xác định không đúng nguyên tắc đánh thuế, nhà
nước sẽ không nhận được sự ủng hộ của dân chúng, thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau như chống thuế hoặc trốn thuế. Những nguyên tắc
đánh thuế cần được xác định khoa học, khách quan và được thể hiện rõ

1 Giáo trình luật thuế Việt Nam trường đại học luật Hà Nội


Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 1


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

rang trong hệ thống pháp luật thuế quốc gia. Vì vậy, cần phải tuân thủ một
số nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất: đánh thuế phải đảm bảo công bằng.
Mọi đối tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi người có
điều kiện liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như nhau.
Trường hợp có sự khác nhau về điều kiện, tính công bằng vẫn được đảm
bảo.
Hệ thống pháp luật thuế ở nước ta luôn hướng tới và đảm bảo sự
công bằng. Các đối tượng có điều kiện như nhau phải nộp những loại thuế
giống nhau. Mặt khác, những đối tượng được khuyến khích, ưu đãi khi có
đủ điều kiện họ cũng được hưởng đối xử ưu đãi tương ứng.
Thứ hai: Đánh thuế phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và
người nộp thuế.
Thuế phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng không được
để cho người nộp thuế lâm vào tình trạng khốn cùng. Đây là yêu cầu quan
trọng để đảm bảo tính “trung lập” của thuế. Nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa
nhà nước và người nộp thuế có ý nghĩa pháp lí quan trọng khi xác định
những nội dung cụ thể của đạo luật thuế; xác định cơ cấu hệ thống pháp
luật thuế.
Thứ ba: đánh thuế phải đảm bảo dễ hiểu, đạt hiệu quả.
Các loại thuế phải đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu cho mọi đối tượng và có
tính ổn định đồng thời. Hệ thống thuế phải được tổ chức sao cho chi phí
quản lí thu thuế không cao hơn mức mà mục tiêu đề ra cho phép. Những

quy định pháp luật phải đảm bảo tính dễ hiểu cho mọi đối tượng và cần
phải được thực hiện trong một khoảng thời gian dài ổn định.
Thứ tư: Đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng
tính thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần.
Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu hệ thống pháp luật thuế một quốc gia
phải “bóc tách” những phần của đối tượng tính thuế nằm trong diện chịu
Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 2


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

loại thuế đó ở giai đoạn trước. Ở Việt Nam, từ năm 1990 trở lại đây, thực
hiện đường lối đổi mới, hệ thống pháp luật thuế được ban hành và thực
hiện thống nhất cho các đối tượng nộp thuế. Nhà nước Việt Nam xác định
những nguyên tắc pháp lí cơ bản nêu trên như những yêu cầu xuyên suốt
trong việc ban hành pháp luật, tổ chức và quản lí thu thuế.
Thực hiện các nguyên tắc nêu trên, đã có nhiều luật thuế được ban hành
mới nhưng cũng có nhưng quy định hoặc loại thuế phải thay thế do không
đảm bảo những nguyên tắc đánh thuế.
II. Cơ sở và ý nghĩa của việc đặt ra các nguyên tắc đánh thuế
1. Cơ sở đặt ra các nguyên tắc đánh thuế.
Nguyên tắc đánh thuế của nhà nước là hệ thống các quan điểm chỉ
đạo chi phối sâu sắc việc đề ra hoặc xoá hệ thống thuế của một quốc gia, có
ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế, liên
quan tới quyền lợi trực tiếp của người nộp thuế và nhà nước. Người nộp
thuế ( dù thuế trực thu hay thuế gián thu) đều phải trích một phần tài sản để
chuyển cho nhà nước mà không thể khước từ hay trì hoãn. Ngược lại nhà
nước cũng mong chờ nguòn thu từ thuế để đảm bảo nguồn vật chất để duy

trì chức năng, hoặt động của mình; rõ ràng việc thu, nộp thuế ảnh hưởng trực
tiếp tới hai chủ thể. Yêu cầu đặt ra là việc thu nộp thuế phải đạt tới mục tiêu
sao cho lợi ích của hai bên đều đạt được hoặc có thể chấp nhận được. Vì lẽ
đó những tư tưởng xuyên suốt quá trình ban hành VBPL thuế, quá trình thu ,
nộp thuế cần phải được qui định rõ ràng pháp luật phải thể hiện được tư tưỏng
này. Do vậy cần phải đặt ra các nguyên tắc đánh thuế để nhà nước nhận
được sự ủng hộ của dân chúng và để dân chúng có trách nhiệm trong việc
hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của mình
- Xuất phát từ đặc điểm của thuế để xác định các nguyên tắc đánh thuế
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra
khái niệm phục vụ riêng cho mục đích nghiên cứu, nhưng thuế bao giờ
cũng mang những đặc trưng nhất định. Thuế có lịch sử gắn với sự ra đời
Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 3


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

của mỗi nhà nước, là khoản thu có tính lâu đời nhất trên thế giới, do vậy có
thể thấy được sự đồng nhất giữa các quốc gia trong việc xác định các đặc
điểm quan trọng nhất của thuế và các tư tưởng chủ đạo khi xây dựng hệ
thống pháp luật thuế.
Việc xác định các đặc điểm của thuế có thể giúp ta nhận ra thuế trong
các hình thức thu nhập tài chính và trên phương diện pháp luật, đặc điểm
của thuế hình thành nên các nguyên tắc đánh thuế mà từ đó hệ thống pháp
luật thuế được xây dựng hoàn thiện. Các đặc điểm của thuế có ảnh hưởng
trực tiến đến việc hình thành các nguyên tắc đánh thuế là
+ Thuế là khoản thu bắt buộc cho Ngân sách nhà nước
Đặc điểm này đã đề cập đến tính bắt buộc của thuế trong nguồn thu ngân

sách, không giống với lệ phí, phí hay các nguồn thu khác. Thuế là nghĩa vụ
tài chính mà người nộp thuế phải thực hiện với nhà nước. Đối với cơ quan
thu thuế cũng không được có hành vi phân biệt đối xử với người nộp thuế.
Đặc tính bắt buộc này chi phối đến toàn bộ hệ thống pháp luật thuế. Đồng
thời ảnh hưởng đến các nguyên tắc đánh thuế công bằng, cân bằng lợi ích
của nhà nước và người nộp thuế, nguyên tắc thuế đánh dễ hiểu, đạt hiệu
quả. Vì tính bắt buộc nên người nộp thuế không được từ chối nghĩa vụ này,
nhưng cần đánh thuế hợp lí để người nộp thuế không lâm vào cảnh kiệt quệ
vì thuế, không chịu nghĩa vụ nặng hơn quyền lợi được hưởng từ nhà nước.
+ Thuế là khoản thu không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp
Khác với phí hay lệ phí, người nộp thuế không nhận được những quyền lợi
trực tiếp từ việc nộp thuế. Bởi vì các khoản thu này được sử dụng cho các
mục đích công, không tương ứng với mức độ sử dụng như phí và lệ phí.
Chính vì thế nguyên tắc đánh thuế công bằng đặt ra giữa các chủ thể nộp
thuế “mọi đối tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi người
có điều kiện liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như
nhau”2
2 Trang 18 - Giáo trình luật thuế Việt Nam trường đại học luật Hà Nội

Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 4


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

- Tinh thần chung của các sắc thuế trên thế giới
Theo tinh thần chung của các sắc thuế trên thế giới thì các sắc thuế cần thỏa
mãn các điều kiện sau đây
Trung lập: sự ra đời của thuế không làm cho hoạt động sản xuất bị

bóp méo, không làm cho phúc lợi xã hội của nền kinh tế giảm đi.
Đơn giản: việc thiết kế sắc thuế và tiến hành thu thuế cần đơn giản về
thủ tục và nội dung để tránh gây những tốn kém không đáng có.
Công bằng: đây là yêu cầu thiết yếu đặt ra, nhằm hướng đến mọi đối
tượng nộp thuế có những điều kiện khác nhau thì mức thuế suất là khác
nhau, dựa vào các điều kiện luật định để xác định.
2. Ý nghĩa việc đặt ra các nguyên tắc đánh thuế
- Trở thành các tư tưởng chủ đạo trong quá trình quản lí nhà nước
với các quan hệ xã hội phát sinh thuộc lĩnh vực thuế. Thuế tác động đến các
đối tượng rộng trong xã hội, phát sinh trong hầu hết các quan hệ. Do đối
tượng tác động rộng, nên nếu không có những nguyên tắc chung thì hoạt
động thu thuế, nộp thuế trở nên phức tạp, khó quản lí và trở thành gánh
nặng cho nhà nước. Ngày nay, tài chính nói chung và thuế nói riêng đã tách
ra khỏi quản lí hành chính nhà nước, nên những nguyên tắc của thuế cũng
cần được xác định và thực hiện độc lập.
- Thống nhất về quản lí nhà nước với thuế. Bởi các nguyên tắc này được
thể chế hóa thành các đạo luật về thuế, có thể nhận thấy những nội dung
nguyên tắc này khi tìm hiểu nội dung của các luật thuế như Thuế thu nhập
cá nhân 2007, Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005…
- Nhà nước có thể đặt ra các luật thuế hợp lí nhằm tạo nguồn thu ngân sách.
Các lĩnh vực hiện nay được thu thuế rất rộng, đồng thời thuế suất cũng
không tương đương. Tuy nhiên điều này lại là hợp lí nhằm điều chỉnh sản
xuất và các quan hệ xã hội theo hướng phát triển của nhà nước.

Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 5


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2


- Có ý nghĩa pháp lí quan trọng khi xác định những nội dung cụ thể của đạo
luật thuế, xác định cơ cấu pháp luật thuế. Chẳng hạn việc xác định thuế
suất, biểu thuế cần phải được cân nhắc rất kĩ lưỡng để đảm bảo yêu cầu
trên.
+ Đánh thuế phải đảm bảo dễ hiểu, đạt hiệu quả: nguyên tắc này có tầm
quan trọng khi ban hành một VBPL về thuế, VB giải thích, hướng dẫn cho
các đối tượng có liên quan. Những qui định pháp luật phải đảm bảo tính dễ
hiểu cho mọi đối tượng và cần phải được thực hiện trong một thời gian dài
ổn định. Mặt khác, việc ban hành một loại thuế cũng cần phải tính tới mối
tương quan giữa tổng thu dự tính đạt đựơc và chi phí phải trả cho việc thu
và quản lí thuế.
+ Đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế
phải chịu một loại thuế nhiều lần: thể hiện sự khoa học, minh bạch trong
việc thu nộp thuế. Nguyên tắc này nhằm ngăn chặn chính phủ và chính
quyền địa phương tự ý đặt ra các khoản thu đối với người dân và bảo vệ
dân chúng trước những nguy cơ lạm thu của cơ quan hành pháp.
- Dần hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế theo hướng khoa học, hợp lí và
gắn với thực tiễn nhiều hơn.
Đúng vậy, việc đặt ra các nguyên tắc đánh thuế có ý nghĩa rất quan
trọng nó là căn cứ đánh giá sự hợp lí của một sắc thuế.
III. Mức độ thể chế hóa các nguyên tắc đánh thuế trong pháp luật thuế
ở nước ta hiện nay.
1, Mức độ thể chế hóa các nguyên tắc đánh thuế trong pháp luật thuế.
Thể chế hóa các nguyên tắc đánh thuế được hiểu là việc đưa những
nguyên tắc đánh thuế vào hệ thống pháp luật thuế Việt Nam. Việc thể chế
hóa các nguyên tắc đánh thuế trong pháp luật thuế của nước ta là điều vô
cùng cần thiết, vì nguyên tắc đánh thuế là hệ thống các quan điểm chỉ đạo

Lớp N06 – TL4 – nhóm 02


Page 6


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

chi phối sâu sắc việc đề ra hoặc xóa bỏ hệ thống thuế của một quốc gia, có
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế.
Qua tìm hiểu có thể thấy các nguyên tắc này đã được vận dụng cơ bản
trong các đạo luật thuế, tạo thành một hệ thống pháp luật khá toàn diện của
quốc gia.
- Nguyên tắc đánh thuế phải đảm bảo công bằng.
Ở Việt Nam, hệ thống pháp luật thuế luôn hướng tới và đảm bảo sự
công bằng. Đảm bảo công bằng trong việc đánh thuế dựa trên khả năng trả
thuế của đối tượng nộp thuế, không mang tính tận thu và có xét đến điều
kiện, hoàn cảnh sống của từng người. Những đối tượng ở những điều kiện
khác nhau, làm những công việc khác nhau, có thu nhập từ những nguồn
khác nhau những là thu nhập cá nhân sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân và
họ được đối xử về thuế tương ứng với các khoản thu nhập đó. Luật thuế thu
nhập cá nhân 2007 đã quy định những thu nhập chịu thuế và thu nhập tính
thuế tại mục 1 Chương 2 Luật này. Nếu có cùng mức thu nhập nhưng do
điều kiện hoàn cảnh khác nhau để đảm bảo tính công bằng, điều 5 Luật
thuế thu nhập cá nhân còn quy định về các trường hợp giảm thuế khi đối
tượng nộp thuế gặp phải khó khăn, thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh hiểm
nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng
với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp. Điều 19 quy
định về giảm trừ gia cảnh: là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước
khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương,tiền công của đối
tượng nộp thuế là cá nhân cư trú.
- Nguyên tắc đánh thuế phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và

người nộp thuế.
Nội dung của nguyên tắc này là phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách
nhà nước nhưng không được để cho người nộp thuế lâm vào tình trạng
khốn cùng.

Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 7


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

Thực hiện nguyên tắc này, đối với từng loại thuế, nhà nước có một biểu
thuế phù hợp để nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, đảm
bảo định hướng phát triển cho các ngành sản xuất, lại vừa ổn định đời sống
nhân dân.
Theo quy định tại điều 3 Luật thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy
định tại điều 5, quy định về các đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng. Việc
quy định phạm vi và đối tượng chịu thuế một cách cụ thể, bao trùm như
vậy là nhằm đảm bảo nguyên tắc công bằng và cần bằng lợi ích giữa Nhà
nước với người nộp thuế, cụ thể là đảm bảo lợi ích của Nhà nước trong việc
thu thuế, tránh bỏ sót những khoản thu chính đáng.
Điều 5 Luật này, quy định về các đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng.
Điều luật này cũng nhằm thể chế hóa nguyên tắc đảm bảo công bằng và
nguyên tắc cần bằng lợi ích giữa Nhà nước và của người nộp thuế, cụ thể là
nhằm đảm bảo cho người nộp thuế không bị khốn cùng vì thuế.
- Nguyên tắc thuế đảm bảo dễ hiểu, đạt hiệu quả
Nguyên tắc này đòi hỏi việc áp dụng luật thuế phải đơn giản, dễ hiểu, minh
bạch, và giảm chi phí cho mọi chủ thể có liên quan. Nhằm thực hiện
nguyên tắc này trên thực tế pháp luật nước ta đã ban hành các biểu mẫu

thuế, thuế suất đơn giản, chi tiết để người dân có thể hiểu, tự kê khai lại để
tiết kiệm được thời gian và thực hiện. Ngoài ra việc pháp luật hiện hành ở
nước ta quy định việc nộp thuế được thực hiện dưới các hình thức khác
nhau, như có thể nộp tại kho bạc Nhà nước, có thể do cơ quan thuế trực tiếp
thu hoặc nộp qua ngân hàng cũng là cách tốt để người nộp thuế có thể thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình một cách chủ động và thuận tiện.
- Nguyên tắc đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối
tượng tính thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần.
Nguyên tắc này nhằm đảm cho thuế không đánh trùng lên thuế với
một đối tượng, không phải là trường hợp đánh nhiều loại thuế lên một đối
tượng mà là một loại thuế đánh hai lần. Điều này thể hiện rõ nhất trong
Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 8


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

pháp luật thuế giá trị gia tăng. Khi một hàng hóa đã bị đánh thuế rồi sẽ
được khấu trừ và không tính vào lần đánh thuế tiếp theo.Hoặc đối với thuế
thu nhập cá nhân, vấn đề thu thuế thu nhập cá nhân đối với khoản thu mà
công dân Việt Nam có được trên lãnh thổ nước ngoài, cần dựa vào các điều
ước quốc tế giữa Việt Nam và quốc gia hữu quan để hạn chế tình trạng thuế
thu nhập cá nhân phải nộp ở cả Việt Nam và nước ngoài.
2, Những hạn chế trong thể chế hóa các nguyên tắc đánh thuế
Mặc dù các nguyên tắc đánh thuế trên cũng đã được nhà nước chú ý
và triển khai trên thực tiễn bằng việc vận dụng các nguyên tắc trên trong
việc thể chế hóa các nguyên tắc đánh thuế. Tuy nhiên thì hiệu quả đạt được
không cao. Việc thể chế hóa các nguyên tắc này vẫn còn mang tính chung
chung, không rõ ràng và nếu có thì nó cũng chưa thực hiện triệt để nguyên

tắc lúc đầu đề ra.
Thứ nhất, nguyên tắc thuế đảm bảo tính công bằng cũng chưa được
thực hiện một cách triệt để. Nhiều quy định trong luật thuế thu nhập cá
nhân thiếu công bằng. Ví dụ như theo quy định tại Thông tư 62 ban hành
ngày 27-3-2009 của Bộ Tài chính, khoản thu nhập không tính vào thu nhập
chịu thuế của người nước ngoài là "tiền học phí cho con của người nước
ngoài học tại VN theo bậc học phổ thông do đơn vị sử dụng lao động chi
trả hộ căn cứ vào hợp đồng lao động và chứng từ nộp tiền học”. Có nghĩa là
người nước ngoài được phép trừ tiền học phí của con trước khi xác định thu
nhập chịu thuế, còn người VN thì không.
Thứ hai, nguồn thu từ thuế chưa đảm bảo cân bằng về lợi ích của nhà
nước và người nộp thuế.
- Về lợi ích của nhà nước: thuế vẫn chưa thể hiện được vai trò chủ
đạo trong nguồn thu ngân sách. Thuế suất ở Việt Nam so với các quốc gia
trong khu vực về thuế giá trị gia tăng hay thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
vẫn là quá thấp. Thuế giá trị giá trị gia tăng ở Việt Nam là 10%, trong khi ở
Đức lên đến 23% và còn tiếp tục tăng cao. Thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 9


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

đánh vào các đối tượng ở mọi công đoạn, nhưng tỉ suất không cao và không
đóng góp được nhiều cho ngân sách.
- Về lợi ích của người nộp thuế: Thuế được nộp cho ngân sách nhà
nước, thì người nộp thuế muốn nhận được quyền lợi tương xứng với số
thuế mà mình đã nộp. Nhưng trên thực tế, những gì mà người nộp thuế
nhận lại được từ nhà nước thông qua phúc lợi xã hội là còn quá ít. Tiền thuế

được sử dụng cho các mục đích đầu tư phát triển nhưng lại không được
quản lí tốt dẫn đến thất thoát ngân sách. Cho dù năm nào Dự toán ngân
sách cũng đặt mục tiêu là tập trung đầu tư cho phát triển con người nhưng
hiệu quả lại chưa thật sự cao.
Thứ ba, nguyên tắc thuế dễ hiểu và hiệu quả chưa thật sự được thực
hiện đúng. Bởi ngay trong bản thân Luật thuế thu nhập cá nhân, các quy
định về giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế gặp phải nhiều bất cập trong
thực tiễn, nhiều người lao động đủ điều kiện nộp thuế không biết mình phải
chịu thuế bao nhiêu, cho các khoản thu nhập nào. Đến năm 2011, Chính
phủ ban hành Nghị định số 101/2011 ban hành bổ sung nhằm tháo gỡ các
khó khăn của doanh nghiệp, cá nhân, theo đó, điều 4 quy định về miễn
giảm thuế thu nhập cá nhân. Trong khoảng thời gian 4 tháng thực hiện điều
kiện miễn giảm thuế thu nhập cá nhân theo Nghị định 101/2010, từ
1/1/2012 lại trở lại điều chỉnh bằng Luật thuế thu nhập cá nhân gây nên
nhiều tranh cãi về sự không ổn định của các chính sách pháp luật.
Thứ tư, đối với nguyên tắc tránh đánh hai lần thuế trên một đối
tượng cũng chưa được thực hiện nghiêm chỉnh. Ví dụ như tính giá cơ sở
xăng dầu theo quy định tại Thông tư 234/2009/TT-BTC ngày 9/12/2009
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 84/2009/NĐ-CP không
đơn giản chỉ cộng dồn theo phương pháp số học đơn thuần. Vì thế mới có
chuyện kinh doanh xăng dầu tưởng lãi lại hóa lỗ. Thực tế trong giá xăng
dầu hiện nay thuế đang chồng lên thuế.

Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 10


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2


IV. Phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế dựa trên các
nguyên tắc đánh thuế.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài, đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật về thuế ở Việt Nam trong thời gian tới,
cụ thể là tập trung vào việc nghiên cứu, hoàn thiện các vấn đề cốt yếu sau
đây:
- Một là, rà soát hệ thống thuế và đảm bảo không xảy ra tình trạng thuế
đánh trùng lên thuế.
Ví dụ, về việc đánh thuế túi nilông và thuế bảo vệ môi trường ở trên
cho thấy hiện tượng thuế đánh trùng lên thuế vẫn còn tồn tại ở Việt Nam.
Nhà nước nên có một chính sách cụ thể cho từng lĩnh vực, khi cần đề xuất
một sắc thuế mới cần kiểm tra kĩ lưỡng về vấn đề này đã được quy định
trong một văn bản quy phạm pháp luật nào khác hay không. Do đó cần hoạt
động thật hiệu quả của cơ quan lập pháp.
- Hai là, nhằm xây dựng tốt nguyên tắc thuế đảm bảo lợi ích của nhà nước
và người nộp thuế, cần có biện pháp điều chỉnh để xác định mức thuế phù
hợp đối với người chịu thuế.
Ví dụ, Về giảm trừ gia cảnh, luật hiện hành quy định: “Việc xác
định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên
tắc mỗi người chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế”.
Tuy nhiên, những đối tượng được tính là người phụ thuộc rất rộng. Khái
niệm "nuôi dưỡng" cũng rất chung chung và có thể hiểu theo nhiều mức độ
khác nhau. Cần có những quy định hướng dẫn rất cụ thể, rõ ràng để khắc
phục tình trạng dồn số người phải nuôi dưỡng cho đối tượng nộp thuế để
được giảm trừ. Về thời gian được giảm trừ, việc xác định tình trạng nuôi
dưỡng người phụ thuộc có thể đúng vào thời điểm kê khai, đăng ký của
người nộp thuế, tuy vậy, trong năm tính thuế sẽ có không ít trường hợp có
biến động bất thường. Do đó, cần có những quy định rõ ràng về vấn đề này.

Lớp N06 – TL4 – nhóm 02


Page 11


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

- Ba là, giảm mức thu thuế đối với các đối tượng nộp thuế, thông qua
từng bước giảm số lượng và mức thuế suất, qua đó đảm bảo tính hiệu quả
của hệ thống chính sách pháp luật về thuế, góp phần thúc đẩy phát triển
sản xuất.
Ví dụ, như đối với thuế GTGT: xét về thuế suất, quy định hiện hành
gồm 2 mức (5% và 10%, ngoài ra mức 0% được áp dụng cho mặt hàng,
dịch vụ xuất khẩu). Trước mắt, để tránh ảnh hưởng xấu đến sự ổn định giá
cả hàng hoá, dịch vụ, từ nay đến 2020 vẫn nên tiếp tục duy trì 3 mức thuế
suất, nhưng cần điều chỉnh theo hướng giảm. Tuy nhiên, về lâu dài, ngoài
thuế suất 0%, cần nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện Luật thuế GTGT, áp
dụng một mức suất thuế duy nhất để thay thế thuế suất hiện hành nhằm bảo
đảm sự liên hoàn của hệ thống thuế; đơn giản hoá chính sách thuế đảm bảo
dễ hiểu, dễ thực hiện, tránh vận dụng tuỳ tiện. Để xây dựng mức thuế suất
mới có căn cứ khoa học, phù hợp thực tiễn, cần phải thông qua điều tra,
khảo sát cụ thể về khả năng đóng góp cũng như sự ảnh hưởng đến số thu
cho ngân sách nhà nước.
- Bốn là, đơn giản hoá và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế.
Thông qua cải cách các quy trình, thủ tục về kê khai, nộp thuế và quản lý
thuế, đảm bảo tính đơn giản, minh bạch, công khai, tạo điều kiện thuận lợi
cho đối tượng nộp và cơ quan quản lý thu thuế.
Ví dụ, như đối với thuế TTĐB, đây là loại thuế có độ rủi ro cao, dễ
bị thất thu vì thuế suất cao. Do đó, cần phải có biện pháp quản lý "đặc
biệt" đối với loại thuế này. Cần quản lý chặt chẽ tại cơ sở sản xuất từ khâu
nhập, xuất nguyên liệu hàng hoá đối nghiệp phải nộp thuế với mức lớn,

thuế suất cao.

C. KẾT LUẬN
Trong hệ thống pháp luật thuế ở nước ta hiện nay đã vận dụng một
cách khá là toàn diện về các nguyên tắc đánh thuế đã phân tích ở trên, đây
Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 12


Luật tài chính – Bài tập nhóm tháng 2

là cơ sở cho viêc đặt ra các nguyên tắc đánh thuế; có ý nghĩa đảm bảo sự
công bằng, bình đẳng cho việc thu thuế góp phần tăng thu cho ngân sách
nhà nước.

Lớp N06 – TL4 – nhóm 02

Page 13



×