Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về huy động tiền gửi của tổ chức tín dụng hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.11 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Vốn kinh doanh của các tổ chức tín dụng chủ yếu là từ nguồn vốn huy
động. Vì vậy, nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong
các nghiệp vụ kinh doanh của tổ chức tín dụng. Huy động tiền gửi của tổ chức
tín dụng cũng là một trong những hoạt động như vậy. Nghiên cứu vấn đề “Đánh
giá tình hình thực hiện pháp luật về huy động tiền gửi của tổ chức tín dụng hiện
hành” sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sâu hơn về vấn đề này.
NỘI DUNG
I. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
1. Khái niệm nhận tiền gửi.
Khoản 13 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định
“Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng
chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo
nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa
thuận”
Như vậy, trên phương diện pháp lý thì “quan hệ tiền gửi” là quan hệ kinh
tế phát sinh giữa một bên là tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là tổ chức được
phép nhận tiền gửi. Xét về bản chất, quan hệ tiền gửi là một quan hệ hợp đồng
vay nợ, bởi vì :
- Quan hệ này được thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tự do thoả
thuận giữa các chủ thể.
- Có sự chuyển giao một lượng tiền nhất định từ người gửi tiền sang tổ
chức nhận tiền gửi để tổ chức này quản lý, sử dụng. Sau đó, tổ chức nhận tiền
gửi có nghĩa vụ phải hoàn trả cho người gửi tiền cả gốc và lãi (nếu có) khi đến
hạn hoặc khi người gửi tiền có yêu cầu.
- Quan hệ gửi tiền phát sinh trên cơ sở có sự tín nhiệm giữa các bên.
Tuy quan hệ gửi tiền là quan hệ vay nợ nhưng nó có những đặc điểm
riêng giúp ta phân biệt với các quan hệ vay nợ thông thường khác. Đó là:
Thứ nhất, về chủ thể: Quan hệ gửi tiền bao gồm hai loại chủ thể là người
gửi tiền và tổ chức tín dụng.


Người gửi tiền là tổ chức, cá nhân trong xã hội có nhu cầu gửi tiền và có
tiền để gửi. Họ đóng vai trò là người cho vay trong quan hệ này.
Tổ chức nhận tiền gửi là các TCTD và các tổ chức khác có hoạt động
ngân hàng, được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ nhận tiền
gửi của công chúng (sự cho phép của Ngân hàng Nhà nước được thể hiện bằng
việc ghi nhận nghiệp vụ này trong giấy phép hoạt động). Trong quan hệ gửi tiền,
tổ chức nhận tiền gửi đóng vai trò là bên đi vay. Tuy nhiên, đây là hoạt động đi
vay mang tính kinh doanh chuyên nghiệp được chủ thể này thực hiện thường
xuyên.
Thứ hai, về hình thức của quan hệ: Hình thức của quan hệ gửi tiền được
xác lập theo một cách thức riêng (giấy đề nghị gửi tiền) mang tính nghiệp vụ
chuyên biệt, được lập theo mẫu in có sẵn của TCTD nhận tiền gửi nhằm bảo
1


đảm tính tiện lợi, nhanh chóng, đơn giản mà vẫn chứa đựng đầy đủ những nội
dung cần thiết của một hợp đồng vay nợ.
Thứ ba, về mục đích: Trong quan hệ gửi tiền mỗi bên đều hướng tới
những mục đích riêng, thậm chí trong mỗi loại tiền gửi khác nhau người gửi tiền
lại hướng đến các mục đích khác nhau.
* Đối với tổ chức nhận tiền gửi: Mục đích của việc nhận tiền gửi là nhằm
huy động vốn để sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình thông qua việc
cấp tín dụng hoặc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho khách hàng. Chính từ
hoạt động này các tổ chức nhận tiền gửi được gọi là các “trung gian tài chính”,
đóng vai trò là cầu nối giữa cung - cầu vốn, hoạt động kinh doanh theo phương
thức “đi vay để cho vay”.
* Đối với người gửi tiền: Việc tham gia quan hệ gửi tiền nhằm mục đích
vừa để đảm bảo an toàn cho tiền vốn (tiền gửi vào sẽ được tổ chức nhận tiền gửi
trông giữ, bảo quản hộ) vừa để đồng vốn sinh lời khi chưa có nhu cầu sử dụng
hoặc để hưởng những tiện ích do tổ chức nhận tiền gửi cung ứng như dịch vụ

thanh toán, chuyển tiền... Người gửi tiền có thể hướng tới một, hai hoặc cả ba
mục đích trên. Tuy nhiên, mục đích của họ được thể hiện rõ nhất thông qua hình
thức gửi tiền hay loại tiền gửi mà họ lựa chọn. Ví dụ: Một người gửi tiền không
kỳ hạn tại ngân hàng dưới hình thức thẻ tín dụng thì mục đích mà họ hướng tới
là sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng; nếu họ gửi dưới hình thức tiền gửi
tiết kiệm có kỳ hạn thì mục đích của họ là hưởng lãi suất...
Trong các hình thức huy động vốn của TCTD, hình thức huy động vốn
bằng nhận tiền gửi là hình thức chủ yếu, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn
huy động của mỗi TCTD. Việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi là một hình
thức huy động vốn đặc trưng riêng có của các TCTD và các tổ chức khác được
Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng, bởi vì:
Thứ nhất, đây là một nghiệp vụ ngân hàng đặc trưng, chỉ những TCTD và
tổ chức được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động ngân hàng mới được tiến
hành. Các loại hình doanh nghiệp khác không được phép huy động vốn bằng
hình thức nhận tiền gửi trong khi họ vẫn có thể phát hành giấy tờ có giá hay vay
vốn từ các TCTD.
Thứ hai, việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi có thể tiến hành một cách
thường xuyên, liên tục với mọi khách hàng, không bị giới hạn về số lượng hay
địa giới hành chính... Trong khi đó các hình thức huy động vốn khác của các
TCTD chỉ được thực hiện khi đáp ứng đủ những điều kiện nhất định và được
tiến hành một cách không thường xuyên như huy động vốn thông qua việc phát
hành giấy tờ có giá hoặc vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước.
Thứ ba, thủ tục của việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi giữa TCTD và
khách hàng được thực hiện nhanh chóng, đơn giản, không nhất thiết phải thông
qua quá trình thương lượng hay kiểm tra, thẩm định, đánh giá. Bất kỳ ai có nhu
cầu đều có thể tới TCTD mà mình lựa chọn để gửi tiền, lựa chọn hình thức gửi
tiền phù hợp với mục đích của mình.
Thứ tư, huy động vốn bằng nhận tiền gửi là cơ sở để các TCTD cung ứng
các dịch vụ khác cho khách hàng như dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ
2



ngân quỹ... Đây cũng là một yếu tố thu hút thêm nhiều khách hàng, làm tăng
nguồn vốn huy động cho các TCTD.
Thứ năm, việc huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD được thực
hiện dựa trên cơ sở là uy tín, khả năng tài chính của TCTD, có sự quản lý, giám
sát của Nhà nước mà không cần thực hiện các biện pháp bảo đảm như cầm cố,
thế chấp hay bảo lãnh bằng tài sản... như trong các quan hệ vay nợ khác. Người
gửi tiền sẽ lựa chọn TCTD mà mình tin tưởng nhất để gửi tiền dưới bất kỳ hình
thức nào.
2. Các loại tiền gửi.
Khi tham gia quan hệ gửi tiền, người gửi tiền luôn hướng tời một mục
đích nhất định. Nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng đó của khách hàng , các
TCTD đưa ra nhiều loại tiền gửi khác nhau để người gửi tiền lựa chọn hình thức
gửi thích hợp nhất tuỳ thuộc vào mục đích, tính chất và khả năng nguồn vốn của
họ. Dựa theo từng tiêu chí cụ thể người ta có thể phân chia thành nhiều loại tiền
gửi khác nhau. Cụ thể là:
- Căn cứ theo nghiệp vụ quản lý kinh doanh ngân hàng, tiền gửi được chia
thành:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi được khách hàng gửi vào các
TCTD để thực hiện các khoản chi trả, thanh toán. Tiền gửi không kỳ hạn là
khoản tiền đang chờ thanh toán, không phải là tiền mà khách hàng để dành nên
khách hàng có thể rút ra hoặc sử dụng để thanh toán bất kỳ lúc nào theo yêu cầu.
Thông thường khách hàng gửi loại tiền gửi này sẽ không được trả lãi hoặc trả
mức lãi suất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn được quản lý ở các TCTD trên tài
khoản tiền gửi thanh toán hoặc tài khoản vãng lai. Đối với tiền gửi không kỳ
hạn, khách hàng được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả như séc, uỷ
nhiệm chi và các lệnh chi khác...
+ Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào TCTD trên
cơ sở có sự thoả thuận với TCTD về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc người gửi

tiền chỉ được rút tiền khi đến hạn thoả thuận. Tuy nhiên, trên thực tế để thu hút
khách hàng gửi loại tiền gửi này, các TCTD có thể cho phép khách hàng đuợc
rút tiền trước thời hạn (nếu số tiền rút ra lớn thì phải có sự thông báo trước cho
TCTD một vài ngày) trong trường hợp này người gửi tiền chỉ được hưởng mức
lãi suất thấp. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang tính ổn định, nên
các TCTD thường chú trọng áp dụng các biện pháp kích thích để huy động loại
tiền gửi này bằng việc đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau để đáp ứng nhu cầu
của khách hàng. Đối với mỗi loại kỳ hạn, TCTD áp dụng một mức lãi suất tương
ứng trên nguyên tắc kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao.
+ Tiền gửi tiết kiệm: là loại tiền gửi chỉ dành cho cá nhân, nó là khoản
tiền để dành của các cá nhân chứ không phải để thanh toán, nó được ký gửi vào
các TCTD nhằm quản lý cất giữ hộ hoặc để hưởng lãi theo định kỳ.
Pháp luật hiện hành quy định “Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá
nhân được gửi vào tài khoản tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được

3


hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và được bảo hiểm
theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”.(1)
Tiền gửi tiết kiệm có hai loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi
tiền có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần thông báo trước vào bất kỳ một
ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán) ở chỗ:
Tài khoản tiền gửi tiết kiệm không được sử dụng để phát hành séc và thực hiện
giao dịch thanh toán bằng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt để chi trả
cho người khác, trừ trường hợp tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam

của người cư trú được sử dụng để chuyển khoản thanh toán tiền vay của chính
chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó, hoặc chuyển
sang tài khoản khác do chính chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở
hữu tiền gửi tiết kiệm là chủ tài khoản tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm đó.

Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền
chỉ có thể rút tiền mặt sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thoả thuận với tổ
chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tương tự như tiền gửi
có kỳ hạn chỉ khác ở chỗ tiền gửi tiết kiệm có kỳ kỳ hạn thì người gửi tiền chỉ là
cá nhân.
- Căn cứ vào người gửi tiền, có các loại tiền gửi sau:
+ Tiền gửi của tổ chức
+ Tiền gửi của cá nhân.
- Ngoài ra dựa vào dấu hiệu quốc tịch hoặc nơi cư trú, người ta phân chia
tiền gửi thành:
+ Tiền gửi của các tổ chức và cá nhân trong nước
+Tiền gửi của các tổ chức và cá nhân nước ngoài.
- Căn cứ vào đồng tiền mà khách hàng gửi, có thể phân chia thành:
+ Tiền gửi bằng đồng Việt Nam
+ Tiền gửi bằng ngoại tệ.
Việc phân chia thành các loại tiền gửi khác nhau có ý nghĩa hết sức to
lớn:
- Đối với tổ chức nhận tiền gửi
Việc phân chia thành nhiều loại tiền gửi khác nhau, mỗi loại có một ưu
thế riêng giúp cho các tổ chức nhận tiền gửi thu hút được nhiều khách hàng tới
gửi tiền. Bởi lẽ, mục đích của người gửi tiền rất đa dạng, việc đưa ra nhiều loại
tiền gửi sẽ đáp ứng được các nhu cầu đó. Đồng thời tạo điều kiện cho TCTD sử
dụng nguồn vốn huy động bằng nhận tiền gửi có hiệu quả, vừa phù hợp với mục
đích, kế hoạch kinh doanh vừa đảm bảo khả năng thanh toán, dù trả cho khách
hàng khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút tiền. Chẳng hạn, TCTD khi huy

động vốn bằng nhận tiền gửi không kỳ hạn thì không thể sử dụng toàn bộ số vốn
này để cho vay trung và dài hạn mà chỉ sử dụng theo một tỷ lệ nhất định do
(

4


Ngân hàng Nhà nước quy định, hoặc căn cứ vào loại tiền gửi để xác định mức
dự trữ bắt buộc, duy trì khả năng thanh toán...
- Đối với người gửi tiền
Việc đa dạng hoá các loại tiền gửi với những đặc trưng riêng của mỗi loại
tiền gửi sẽ giúp cho người gửi tiền có thể lựa chọn hình thức gửi tiền thích hợp
tuỳ thuộc vào mục đích gửi tiền của mình. Ví dụ: Tiền gửi không kỳ hạn có thể
rút bất cứ lúc nào, tạo cho người gửi tiền sử dụng số tiền gửi một cách linh hoạt
hơn nhưng lại không được hưởng lãi hoặc lãi suất rất thấp. Do đó khi tham gia
quan hệ tiền gửi dưới hình thức này khách hàng thường tới sử dụng những dịch
vụ mà tổ chức nhận tiền gửi cung cấp, đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền linh hoạt
của mình. Tiền gửi có kỳ hạn thì phải tuân thủ theo kỳ hạn gửi tiền nhưng lại có
mức lãi suất cao hơn....
- Đối với nhà nước
Do tính chất của từng loại tiền gửi khác nhau, mức độ rủi ro về bảo đảm
khả năng thanh toán là khác nhau, đòi hỏi Nhà nước phải có cơ chế quản lý một
cách thích hợp nhằm kiểm soát có hiệu quả hoạt động ngân hàng, hạn chế được
các rủi ro trong hoạt động ngân hàng; bảo đảm quyền lợi của các bên trong quan
hệ tiền gửi cũng như sự an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng; bảo đảm sự ổn
định tiền tệ quốc gia và ổn định phát triển kinh tế. Do đó, việc phân chia thành
các loại tiền gửi khác nhau giúp cho Nhà nước có chính sách quản lý thích hợp
đối với hoạt động huy động vốn vủa các TCTD.
II. Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn bằng
nhận tiền gửi của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam.

1. Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của
các Tổ chức tín dụng.
Nhận tiền gửi là nghiệp vụ huy động vốn đặc thù của các TCTD tạo tiền
đề kinh tế để các TCTD thực hiện hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng. Hiện nay, pháp luật có khá nhiều quy định liên quan đến hoạt động huy
động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD mà chúng ta có thể tìm thấy trong
hàng loạt các văn bản pháp luật về ngân hàng như:
- Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam năm 2010.
- Nghị định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16/07/2009 về tổ chức và hoạt động
của ngân hàng thương mại; Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 được
sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 và Nghị định
số 95/2008/NĐ-CP ngày 25/08/2008 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính; Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tổ
chức hoạt động của công ty tài chính; Nghị định số 81/2008/NĐ-CP ngày
29/7/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày
4/10/2002 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính; Nghị
định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/08/2001 về tổ chức và hoạt động của quỹ tín
dụng nhân dân; Nghị định số 69/2005/NĐ-CP ngày 26/05/2005 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/08/2001 về tổ chức và
hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân; Nghị định của Chính phủ số 22/2006/NĐ5


CP về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng
nước ngoài tại Việt Nam....
- Quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/09/2004 của thống đốc Ngân
hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế tiền gửi tiết kiệm; Quyết định số
47/2006/QĐ-NHNN ngày 25/09/2006 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐNHNN ngày 13/09/2004...

Nhìn chung các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành quy định về
hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các TCTD là tương đối đầy đủ
và chặt chẽ, cụ thể hoá được các nội dung như: Các loại tiền gửi mà TCTD được
phép huy động; giới hạn quyền được nhận các loại tiền gửi đối với từng loại
hình TCTD; quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tiền gửi; quy
định trách nhiệm của TCTD khi huy động vốn bằng nhận tiền gửi; quy định về
quản lý Nhà nước đối với hoạt động huy động vốn bằng nhận tiền gửi; cùng các
nội dung có liên quan khác...Về cơ bản Nhà nước đã thiết lập được một hành
lang pháp lý tương đối đầy đủ và thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho
TCTD tiến hành các hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật, tạo ra
môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các TCTD trong tiến trình hội nhập. Đồng
thời pháp luật cũng hướng tới quyền lợi của mọi người dân, đáp ứng tốt hơn nhu
cầu gửi tiền và sử dụng các dịch vụ ngân hàng, lựa chọn hình thức gửi tiền phù
hợp với mục đích và yêu cầu của họ, tạo niềm tin cho người gửi tiền; tạo ra cơ
sở pháp lý cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối
với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu kể trên, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động huy động vốn của các TCTD vẫn còn tồn tại một số hạn chế
sau:
Thứ nhất, các quy phạm pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi
của các TCTD còn nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trong khi
đó, mỗi văn bản pháp luật này được ban hành nhằm điều chỉnh một mảng hoặc
một lĩnh vực riêng nào đó nhưng ít nhiều có liên quan đến huy động vốn bằng
nhận tiền gửi. Vì thế, những quy định về tiền gửi không được quan tâm một
cách đúng mức, còn sơ sài, không có tính hệ thống, thiếu ổn định, thậm chí còn
có sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật khác nhau. Chẳng hạn, một số quy
định trong văn bản pháp luật điều chỉnh dịch vụ thanh toán; văn bản pháp luật
quy định về tổ chức và hoạt động của từng loại TCTD... Điều này dẫn đến pháp
luật khó thực thi đối với TCTD và đối với người gửi tiền, gây ra sự khó khăn
trong công tác quản lý của các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát

hoạt động này, từ đó làm suy yếu vai trò điều chỉnh của pháp luật.
Thứ hai, mặc dù Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 đã được ban
hành nhưng vẫn chưa có các Nghị định hướng dẫn thi hành mà vẫn áp
dụng một số Nghị định cũ nên có nhiều quy định mâu thuẫn như: Điểm a
Khoản 1 Điều 16 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP quy định công ty cho thuê tài
chính được huy động vốn từ: “được nhận tiền gửi có kỳ hạn một năm trở
6


lên của các tổ chức, cá nhân theo các quy định của Ngân hàng nhà nước”,
trong khi Khoản 1 Điều 112 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định
công ty cho thuê tài chính chỉ được nhận tiền gửi của các tổ chức.
Thứ ba, pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi còn một số quy
định không cụ thể hoặc chưa được giải thích rõ ràng, đầy đủ. Chẳng hạn, về hình
thức gửi tiền được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau như:
Khoản 13 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Quy chế về tiền gửi tiết
kiệm ban hành kèm theo Quyết định 1160/QĐ-NHNN ngày 13/09/2000 và một
số văn bản khác nữa. Theo quy định trong các văn bản này thì có ba hình thức
nhận tiền gửi là: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm;
ngoài ra còn có các loại tiền gửi khác do Ngân hàng Nhà nước quy định. Tuy
nhiên, pháp luật không có sự phận biệt một cách rõ ràng giữa các hình thức nhận
tiền gửi khiến cho khách hàng khó có thể hình dung hết sự khác nhau giữa các
loại tiền gửi, do đó gây khó khăn cho họ trong việc lựa chọn hình thức gửi tiền
phủ hợp với mục đích của mình.
2. Thực tiễn thi hành pháp luật về huy động vốn của các tổ chức tín
dụng
2.1. Những thành tựu đạt được trong hoạt động huy động vốn của các Tổ
chức tín dụng ở một số địa phương.
Với một hành lang pháp lý tương đối thông thoáng, thêm vào đó là mức
thu nhập của người dân ngày một nâng cao, các TCTD trên địa bàn cả nước đã

huy động được một lượng vốn tương đối lớn để cung ứng cho nền kinh tế. Điều
đó được thể hiện rõ qua kết quả huy động vốn của các TCTD ở hầu hết các địa
phương trong cả nước mà tiêu biểu nhất là các TCTD trên địa bàn Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, đây là hai trung tâm kinh tế lớn nhất, có số
lượng TCTD hoạt động trên cùng một địa bàn nhiều nhất trong cả nước.
• Kết quả huy động vốn của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội
Hà Nội là nơi đặt trụ sở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng
trung ương) và của các ngân hàng lớn nhất của Việt Nam như: Ngân hàng Công
Thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng
phát triển Việt Nam. Hầu hết các TCTD Việt Nam đã thiết lập cơ sở giao dịch
dưới các hình thức trụ sở chính, sở giao dịch, chi nhánh tại Hà Nội. Tính đến hết
tháng 12 năm 2006, trên địa bàn Hà Nội có 151 cơ sở giao dịch (thống kê cấp
chi nhánh) của các TCTD thuộc các loại hình và thành phần kinh tế khác nhau
thực hiện kinh doanh tiền tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng. Hiện nay mạng lưới
các TCTD đang tiếp tục được mở rộng cả về số lượng và quy mô hoạt động.
Tốc độ tăng trưởng tổng nguồn vốn huy động bình quân của các TCTD
trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2001- 2005 đạt trên 23%/ năm. Đây là yếu tố quan
trọng đáp ứng nhu cầu kinh tế - xã hội và phát triển hoạt động ngân hàng trên
địa bàn. Tính đến cuối năm 2006, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD Hà
Nội đạt 231.799 tỷ đồng, tăng 32% so với cuối năm 2005, mức tăng trưởng có
nhất về vốn huy động trong 5 năm gần đây, chiếm khoảng 30% vốn huy động
của cả nước. Tốc độ dư nợ bình quân trong giai đoạn 2001- 2005 đạt trên
7


22%/năm. Tính đến cuối năm 2006, tổng dư nợ cho vay của các TCTD Hà Nội
đạt 116.244 tỷ đồng, tăng 26,4% so với năm 2005. Hoạt động của ngành ngân
hàng tại Hà Nội đạt được kết quả tích cực, bảo đảm an toàn và hiệu quả, góp
phần hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và mục tiêu,

nhiệm vụ của ngành Ngân hàng [25, tr 35, 36]
Đây là kết quả của những biện pháp nỗ lực khơi tăng nguồn tiền gửi của
các ngân hàng thương mại như: đưa ra lãi suất hấp dẫn, kỳ hạn linh hoạt, đẩy
mạnh hoạt động marketing, áp dụng các hình thức khuyến mại bằng tiền và hiện
vật cho khách hàng; thường xuyên thay dổi các hình thức huy động tiền gửi như
kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, chứng chỉ tiền gửi
ghi danh, phát triển mạng lưới, áp dụng giao khoán chỉ tiêu huy động vốn, tích
cực tiếp cận khách hàng lớn là các tổng công ty, các định chế tài chính khác...
[23, tr 49]
• Kết quả huy động vốn của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng các ngân hàng thương mại, quốc
doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty cổ
phần... đông nhất trong cả nước. Nhiều công ty chứng khoán dự kiến cũng sẽ
được thành lập trong năm nay. Địa bàn này luôn có tổng nguồn vốn huy dộng,
tổng dư nợ cho vay và đầu tư, khối lượng trao đổi ngoại tệ chiếm từ 35% - 40%
tổng quy mô các chỉ tiêu này của cả nước. Khối lượng vốn và khối lượng ngoại
tệ chu chuyển qua hệ thống ngân hàng và công ty tài chính, các hoạt động huy
động vốn và cho vay khá sôi động. Đây là tiền đề cho sự phát triển kinh tế vững
chắc có tốc độ nhanh. [23, tr 52]
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, tính đến hết năm 2006, tổng nguồn
vốn huy động của các tổ chức tín dụng đạt 285.503 tỷ đồng, tăng 51,2% so với
cuối năm 2005, tăng gấp hơn 1,5 lần so với mức dự kiến từ đầu năm, cũng đạt
mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay. Tính đến thời điểm tương tự, tổng dư
nợ cho vay của các TCTD đạt 229.749 tỷ đồng, tăng 30,7% so với cuối năm
2005. [24, tr 19]
2.2. Một số tồn tại, hạn chế mà các Tổ chức tín dụng Việt Nam gặp phải
trong quá trình huy động vốn
Có thể nói, pháp luật về huy động vốn đã tạo ra một “ khung pháp lý” để
từ đó các TCTD thực hiện hoạt động này một cách có hiệu quả. Tuy đã đạt được

một số thành tựu quan trọng nhưng trên thực tế khi tiến hành hoạt động huy
động vốn, các TCTD vẫn gặp không ít những hạn chế, khó khăn cần phải khắc
phục. Cụ thể:
Một là: Hình thức huy động và kỳ hạn huy động vốn vẫn còn đơn điệu,
nghèo nàn, mang tính truyền thống. Về cơ bản các TCTD vẫn sử dụng các hình
thức huy động vốn truyền thống thông qua nhận tiền gửi hoặc phát hành giấy tờ
có giá là chủ yếu. Trong khi đó những hình thức mới, linh hoạt và phù hợp với
xu thế hội nhập ngày nay lại chưa được áp dụng một cách đồng loạt như: tiết
kiệm xây dựng nhà ở, hình thức gửi tiền tiết kiệm ở một nơi rút ra ở nhiều nơi,
8


tiếu kiệm dự thưởng... Thêm vào đó kỳ hạn huy động vốn kém phong phú, chưa
thực sự năng động nên chưa thực sự hấp dẫn người gửi tiền.
Hai là: Cấu trúc nguồn vốn chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn. Tỷ
trọng nguồn vốn trung, dài hạn thực tế thấp hơn dư nợ trung dài hạn nên các
TCTD còn dè dặt trong việc cho vay đối với các dự án lớn, có nguy cơ rủi ro cao
như: các dự án đầu tư cho bất động sản, dự án xây dựng các công trình giao
thông vận tải... Các hình thức huy động vốn dài hạn khác như phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu ngân hàng vẫn chưa thực sự hấp dẫn khách hàng do vậy ít được
các TCTD áp dụng.
Ba là: Hoạt động huy động vốn của TCTD phải cạnh tranh gay gắt với
nhiều kênh huy động vốn khác trong kinh tế như: thị trường chứng khoán, tiết
kiệm bưu điện, quỹ đầu tư... làm giảm nguồn vốn có thể huy động được. Mặt
khác, ngay giữa các TCTD cũng có sự cạnh tranh gay gắt với nhau trong huy
động vốn dấn đến tình trạng đẩy lãi suất tiền gửi lên quá cao trong khi không
thiếu vốn ngắn hạn. Điều này làm giảm hiệu quả kinh doanh của các TCTD.
Bốn là: Huy động vốn đôi khi chưa gắn với sử dụng vốn một cách có hiệu
quả. Thể hiện qua việc cho vay đối với các dự án thiếu tính khả thi trong thời
gian trước đây như: Các dự án đầu tư bất động sản, tập trung là dự án xây dựng

nhà ở, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu nhà ở dạng chia đất, phân lô; dự án các
đơn vị thi công công trình giao thông; dự án nuôi tôm của các hộ dân miền
Trung, Tây Nam Bộ... khiến cho việc thu hồi vốn rất khó khăn. Trong khi đó
hàng tháng các TCTD vẫn phải trả lãi đầy đủ cho các khoản vốn huy động
nhưng vốn đầu tư không thu được lãi vẫn còn chiếm tỷ trọng đáng kể làm cho
các TCTD gặp không ít khó khăn.
Năm là: Trình độ công nghệ thấp, chưa có nhiều dịch vụ hiện đại, hệ
thống thanh toán còn nhiều hạn chế. Hiện nay dịch vụ chủ yếu do các ngân hàng
cung cấp cho khách hàng vẫn là những dịch vụ truyền thống. Những dịch vụ
ngân hàng hiện đại mới chỉ được thử nghiệm cho một số đối tượng khách hàng,
chưa được phổ biến rộng rãi. Mặt khác trong hoạt động thanh toán việc thanh
toán liên ngân hàng vẫn còn hạn chế, chế độ thanh toán không dùng tiền mặt còn
đề ra nhiều thủ tục phiền hà do đó không thu hút được khách hàng.
Sáu là: Trình độ năng lực đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực ngân hàng còn
nhiều hạn chế so với yêu cầu phát triển hệ thống ngân hàng hiện đại. Trong điều
kiện ngành ngân hàng đang có những bước phát triển hết sức nhanh chóng nhờ
ứng dụng của công nghệ thông tin, song một bộ phận không nhỏ cán bộ và lãnh
đạo, điều hành trong TCTD còn nhiều hạn chế về kỹ năng quản trị kinh doanh
ngân hàng hiện đại, hiểu biết về dịch vụ ngân hàng mới, marketing, đánh giá,
phân tích tín dụng, quản lý rủi ro...
Bảy là: Công tác tuyên truyền, quảng bá thông tin, các hoạt động tiếp thị,
tư vấn cho khách hàng còn chưa được quan tâm đúng mức. Do đó khách hàng
chưa thực sự hiểu hết những tiện ích do ngân hàng mang lại. Mặt khác, thời gian
giao dịch với khách hàng vẫn còn giới hạn trong “giờ hành chính” dẫn đến mất
đi nhiều cơ hội cho hoạt động huy động vốn. Mạng lưới các TCTD chưa rộng
9


khắp đến những vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn nên chưa khai thác tối đa
nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư.

2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên và một số giải pháp khắc phục
• Nhân tố tích cực
Nhân tố tích cực là những nguyên nhân đem lại những thành quả mà các
TCTD đã đạt được trong lĩnh vực huy động vốn. Chúng bao gồm các yếu tố
khách quan và yếu tố chủ quan có tác động tích cực đến quá trình huy động vốn
của các TCTD. Có thể kể đến:
Thứ nhất là, hệ thống pháp luật về huy động vốn tương đối thông thoáng,
tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện hoạt động này khá hiệu quả.
Thứ hai là, người dân có thu nhập ngày càng cải thiện. Nhiều gia đình,
nhiều người có điều kiện tích luỹ, nguồn tiết kiệm bằng tiền lớn hơn. Thực tế
này không chỉ thấy qua kênh tiền gửi ngân hàng, mà còn thấy một lượng vốn
không nhỏ của người dân đầu tư mua chứng khoán, mua cổ phiếu trên thị trường
tập trung OTC, mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, mua
bảo hiểm nhân thọ... Nhưng kênh ngân hàng vẫn là nơi thu hút vốn trong dân
lớn nhất.
Thứ ba là, trong các kênh để dành và tiết kiệm: mua vàng, cất trữ ngoại tệ
trong nhà và gửi Đồng Việt Nam tại ngân hàng thì kênh đầu tư vào tiền gửi ngân
hàng là sự lựa chọn tối ưu và minh bạch hơn cả. Bởi đầu tư vào vàng quá nhiều
rủi ro, biến động giá thất thường. Mua ngoại tệ cất trữ trong nhà rõ ràng không
sinh lời cao vì tỷ giá USD/VNĐ ít biến động. Mặt khác, nếu như trước đây thị
trường bất động sản là lĩnh vực thu hút tiền gửi lớn trong dân cư, thì hiện nay số
người đầu cơ nhà, đất chờ tăng giá kiếm lời giảm rõ rệt, số vốn tích luỹ này
được chuyển qua kênh tiền gửi ngân hàng.
Thứ tư là, sau hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, gần mười tám năm đổi
mới hoạt động ngân hàng, hệ thống ngân hàng Việt Nam có sự thay đổi mạnh
mẽ cả về quy mô, chất lượng và phong cách phục vụ. Người dân thực sự có lòng
tin khi gửi tiền vào ngân hàng, thay cho để dành dưới nhiều hình thức khác nhau
tại nhà hay trong dân cư.
Thứ năm là, dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích phát triển mạnh mẽ
đặc biệt là dịch vụ thẻ, dịch vụ tài khoản cá nhân. Đến nay số lượng thẻ do các

ngân hàng ở Việt Nam phát hành đã lên tới con số khoảng 3,5 triệu thẻ các
loại, trên 4,0 triệu tài khoản cá nhân, gấp hơn 2 lần cuối năm 2005. [25, tr
29] Các loại hình tiền gửi đa dạng như: tiết kiệm gửi góp, tiền gửi bậc thang,
tiền gửi với lãi suất luỹ tiến, tiền gửi ngắn hạn... Tạo sự thuận tiện lựa chọn cho
khách hàng do đó thu hút đông đảo khách hàng.
Thứ sáu là, lãi suất tiền gửi hấp dẫn và được điều chỉnh linh hoạt theo
diễn biến của thị trường. Đặc biệt, lãi suất tiền gửi USD của các ngân hàng
thương mại nước ta thường xuyên được điều chỉnh tăng theo xu hướng tăng lên
của lãi suất USD trên thị trường quốc tế, với mức tăng khoảng 1,0%/ năm
trong năm 2006. Lãi suất nội tệ trong năm 2006 đến nay cũng tăng khá với
mức tăng khoảng 1,0 - 1,2%/ năm. Trong bối cảnh chỉ số tăng giá trên thị
10


trường xã hội tăng khá, tới 6,6% trong năm 2006, thì việc điều chỉnh lãi
suất nói trên đã tạo sự hấp dẫn khách hàng. [25, tr 30]
• Nhân tố tiêu cực
Nhân tố tiêu cực chính là những nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn trong
công tác huy động vốn của các TCTD, bao gồm một số nguyên nhân chủ yếu
như:
- Hệ thống pháp luật tuy đã có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế
nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu đồng bộ, không thống nhất, thậm chí có một số
quy định còn chồng chéo mâu thuẫn nhau gây khó khăn cho các TCTD khi tiến
hành hoạt động huy động vốn.
- Luật doanh nghiệp mới cùng với các cơ chế tháo gỡ khó khăn cho các
doanh nghiệp đã tạo đà cho sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp mới, kích
thích luồng vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Không những vậy, nhiều người còn tìm
kiếm các phương án khác nhau để vay vốn ngân hàng đầu tư vào mua cổ phiếu
trong các doanh nghiệp.
- Sự cạnh tranh gay gắt của các kênh huy động vốn khác như: Kho bạc

nhà nước; tiết kiệm bưu điện; chứng khoán; bảo hiểm nhân thọ... cũng là một
thách thức không nhỏ đối với hoạt động huy động vốn của các TCTD.
- Môi trường kinh tế, môi trường đầu tư chưa ổn định, chưa có một cơ
chế để kiềm chế lạm phát, giá cả hàng hoá ngày một tăng làm cho đồng tiền mất
giá, người dân thiếu tin tưởng vào ngân hàng.
Ngoài ra còn phải kể đến một số nguyên nhân chủ quan từ chính các
TCTD như: chưa quan tâm một cách thoả đáng đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ;
hoạt động quản trị và điều hành huy động vốn, kinh doanh vốn chưa theo hướng
ngân hàng kinh doanh hiện đại. Sự phối hợp giữa bộ phận quản lý, các phòng
nghiệp vụ còn chưa đồng bộ, nhịp nhàng gây phiền hà, mất thời gian cho khách
hàng. Hệ thống thông tin chưa thực sự có hiệu quả, bao gồm cả thu thập và xử lý
thông tin về huy động vốn, về cân đối và kinh doanh vốn...
Những nguyên nhân cơ bản trên đây đã dẫn đến những khó khăn trong
hoạt động huy động vốn của các TCTD Việt Nam.
KẾT LUẬN
Hiện nay, huy động tiền gửi của tổ chức tín dụng đã có nhiều văn bản
pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên tình hình thực hiện pháp luật về huy động tiền
gửi của tổ chức tín dụng hiện hành vẫn còn nhiều vướng mắc. Chính vì vậy,
trong thời gian tới cần hoàn thiện hơn nữa pháp luật hiện hành để tình hình thực
hiện pháp luật về huy động tiền gửi của tổ chức tín dụng dễ dàng đi vào cuộc
sống ngày càng sôi động.

11


12


13




×