PHỤ LỤC
BÀI LÀM
A.
MỞ BÀI
Hiện nay, cùng với quá trình xã hội hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cũng
đang dần có sự chuyển đổi và phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội. Trong những năm
gần đây, vấn đề bình đẳng giới luôn được Đảng - Nhà nước quan tâm và coi đó là mục tiêu
mang tính chiến lược nhằm đảm bảo quyền con người nói chung và quyền bình đẳng giữa các
thành viên trong gia đình nói riêng. Đặc biệt là sự bình đẳng giữa vợ và chồng trong lĩnh vực
hôn nhân và gia đình. Quyền bình đẳng giữa vợ chồng, đặc biệt là quyền bình đẳng đối với tài
sản chung hợp nhất giữa vợ chồng đã được đề cập khá cụ thể và chi tiết trong các quy định của
pháp luật. Vậy, cụ thể nội dung của quyền này như thế nào? Nó được thực hiện trên thực tế có
tốt không? Chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung sau nhé!
B.
NỘI DUNG
I.
Một số vấn đề lý luận về quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản
chung hợp nhất.
1.
Khái niện quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất.
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “bình” có nghĩa là: đều nhau; “đẳng” nghĩa là: thứ bậc. “ Bình
đẳng” có thể hiểu là ngang hàng nhau về địa vị, về quyền lợi.
“ Quyền” là một từ ngữ có rất nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng nôm na chúng ta có thể
hiểu đó là: “Cái mà luật pháp, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng,
thi hành... và, khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại” 1.
Vậy “ quyền bình đẳng” có thể hiểu là: “quyền ngang hàng nhau về địa vị, cũng như quyền
lợi”.
Điều 163 BLDS năm 2005 quy định rất rõ tài sản bao gồm: “ vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản”. Tại Khoản 1 Điều 217 BLDS quy định sở hữu chung hợp nhất là: “ sở hữu
chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với
tài sản chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở
hữu chung hợp nhất không phân chia”.
Vậy, quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất chúng ta có thể hiểu đó
là: “quyền bình đẳng của vợ chồng thể hiện trong việc vợ chồng cùng nhau bàn bạc và quyết
1
Theo từ điển Tiếng Việt.
2
định về các vấn đề có liên quan tới tài sản bản thân của vợ chồng và của mỗi thành viên trong
gia đình, liên quan đến đời sống chung của gia đình”.
Ý nghĩa quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất.
2.
Sau sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Việc vợ chồng có
quyền bình đẳng với nhau trong quan hệ gia đình nói chung và đối với tài sản chung hợp nhất
nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống gia đình.
Vợ chồng có quyền bình đẳng đối với tài sản chung hợp nhất thể hiện sự tiến bộ, tính ưu
Việt của pháp luật Việt Nam đối với những cặp vợ chồng trong xã hội. Việc quy định như vậy
sẽ giúp họ hiểu và làm theo các quy định của Pháp luật, giữa vợ và chồng luôn có sự bàn bạc,
thống nhất và quyết đinh về các vấn đền có liên quan tới sản chung hợp nhất của vợ chồng...
Điều đó sẽ giúp họ tránh được những mâu thuẫn, bất đồng trong đời sống... để cùng nhau làm
ăn, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.
II.
Nội dung quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.
Việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài
1.
sản.
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định rất chi tiết về Tài sản chung của vợ
chồng. Theo quy định này, tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
Thứ nhất: Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là: tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp,
tiền trúng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu
theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 như: Xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật
không xác định được ai là chủ sở hữu ( Điều 239); Xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chôn
giấu, bị chìm đắm được tìm thấy ( Điều 240); xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước
( Điều 244)...
Thứ hai: Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài
sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết
hôn hoặc những tài sản mà vợ chồng được thừa kế riêng hay được tặng riêng trong thời kỳ hôn
nhân nhưng vợ chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung hoặc theo quy định của pháp
3
luật quy định là tài sản chung. Theo quy định tài Điều 219 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và
Điều 27 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 thì tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở
hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu
không được xác định đối với tài sản chung. Xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân là
cùng chung ý chí, cùng chung công sức trong việc tạo nên khối tài sản nhằm xây dựng gia
đình, bảo đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội như: tạo điều kiện nuôi dạy
con... do vậy, pháp luật pháp luật quy định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng chỉ căn cứ
vào nguồn gốc, thời điểm phát sinh tài sản mà không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi
người vào việc tạo dựng và phát triển khối tài sản. Do điều kiện sức khỏe, đặc điểm công việc
và công việc nghề nghiệp nên sự đóng góp công sức của vợ chồng vào việc xây dựng khối tài
sản chung không ngang bằng nhau, tuy nhiên quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn
ngang bằn nhau.
Thứ ba: Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng
chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Quyền sử dụng đất là là một loại tài sản mang
những nét đặc thù tiêng. Nó là tài sản có giá trị rất lớn hoặc có thể đem lại thu nhập lớn cho vợ
chồng. Do vậy, để tránh những vướng mắc khi giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất,
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã khẳng định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng “ có
được” sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng “ có
được” trước khi kết hôn hoặc được thừa kế riêng đương nhiên là tài sản riêng của vợ chồng,
trừ khi vợ chồng có thỏa thuận là tài sản chung.
Đối với những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu như nhà ở, quyền sử
dụng đất và các tài sản có giá trị lớn khác ... thì trong giấy chứng nhận quyền sợ hữu phải ghi
tên của cả vợ và chồng.
Như vậy, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra bằng công
sức của mỗi người từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt và những tài sản khác do
vợ chồng thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Cơ sở pháp lý để xác định những tài sản phải
đăng ký quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng chính là giấy chứng nhận quyền sở hữu tài
sản có ghi tên của cả vợ và chồng.
4
2.
Vợ, chồng có nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
tài sản chung.
Khoản 2 Điều 219 BLDS quy định: “ Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản
chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung”. Như vậy, theo quy định này thì trong quá trình phát triển, duy trì
khối tài sản chung thì vợ chồng cùng nhau tạo lập bằng công sức của mỗi người. Và trong quá
trình tạo lập để hình thành nên khối tài sản chung đó thì vợ chồng có quyền ngang nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Ngoài ra, việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài
sản chung của vợ chồng thì họ cũng phải có quyền và nghĩa vụ ngang nhau và nó được quy
định rất rõ tại Khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “ vợ, chồng có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung”.
3.
Vợ chồng có quyền bình đẳng đối với khối tài sản chung trong việc xác lập, thực
hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung.
Trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung dù
lớn hay nhỏ thì vợ chồng cũng có quyền bình đẳng ngang nhau, trong việc dùng tài sản chung
để đầu tư kinh doanh thì vợ chồng phải được bàn bạc, thảo luận. Tại Khoản 3 Điều 28 Luật
Hôn nhân và gia đình 2000 quy định rất rõ điều này: “ Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của
gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả
thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1
Điều 29 của Luật này”.
Như vậy, theo quy định trên đối với những giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá
trị không lớn hoặc để phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hằng ngày của gia đình thì chỉ cần một
bên vợ hoặc chồng thực hiện hoặc đương nhiên được coi là có sự đồng ý của bên kia. Trong
trường hợp vì lý do nào đó mà chỉ có một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch dân sự có
liên quan đến tài sản chung của vợ chồng để nhằm nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hằng ngày của
gia đình thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới ( Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình 2000).
Việc quy định như trên nhằm khẳng định quyền tự chủ của vợ, chồng trong việc thực hiện
các giao dịch dân sự nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu hằng ngày của gia đình, đồng thời cũng
5
khẳng định trách nhiệm của bên kia đối với các hành vi dân sự hợp pháp do vợ hoặc chồng
mình thực hiện vì lợi ích chính đáng của gia đình.
4.
Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý và sử dụng tài sản
chung.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 thì: “Tài sản chung của
vợ chồng được chỉ dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của
vợ chồng”. Trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung không cần căn cứ vào công sức
đóng góp của vợ, chồng. Trong những trường hợp như vợ hoặc chồng làm nội trợ, chăm sóc
con... mà họ không trực tiếp lao động ra tài sản thì quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung
vẫn ngang bằng với người kia.
Trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung, pháp luật quy định vợ chồng phải
có sự bàn bạc, thỏa thuận. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 219 BLDS năm 2005 và khoản 1
Điều 24 Luật hôn nhân và gia đình thì trong trường hợp vợ, chồng ủy quyền cho nhau, người
được ủy quyền có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung trong phạm vi được
ủy quyền. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản có cả chữ ký của vợ và chồng. Việc
pháp luật quy định vợ chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng đối với tài sản chung hợp nhất là
rất hợp lý. Bởi lẽ, pháp luật đã bảo vệ khối tài sản chung cho vợ chồng, tránh những trường
hợp một trong hai vợ chồng có hành vi phá tán tài sản chung, hủy hoại tài sản chung hoặc tự
mình thực hiện những giao dịch dân sự làm tổn thất khối tài sản chung, ảnh hưởng tới quyền
lợi của gia đình. Đồng thời, quy định này còn khẳng định quyền bình đẳng về mọi mặt của vợ
chồng trong quan hệ gia đình.
5.
Vợ chồng có quyền chia tài sản chung.
Xuất phát từ thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời nhằm bảo vệ lợi ích chính
đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, luật hôn nhân và gia đình cũng quy định các trường hợp
chia tài sản chung của vợ chồng. Bao gồm những trường hợp sau:
-
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
-
Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng chết;
6
-
Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn;
Đối với trường hợp thứ nhất: Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “ khi hôn nhân tồn tại, trong
trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do
chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung
phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết”.
Như vậy, theo quy định này thì trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh. Nếu một
trong hai bên vợ hoặc chồng muốn đầu tư kinh doanh thì có thể chia tài sản chung của vợ
chồng, tạo điều kiện cho vợ, chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh. Ngoài ra, giúp
họ tránh được những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh đến tài sản của gia
đình.
Trong trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản
riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì vợ chồng có thể chia tài sản chung
để giúp người có nghĩa vụ thực thiện nghĩa vụ của mình.
Đối với trường hợp thứ hai: Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng chết. Điều 680
BLDS quy định: “1. Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn
tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. 2. Trong trường
hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa
kế di sản. 3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù
sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản”. Như vậy, theo quy định trên thì
khi một bên vợ, hoặc chồng chết thì sau đó dù một bên còn sống có kết hôn với người khác thì
họ vẫn được thừa kế tài sản của người chết để lại. Tức là vợ, hoặc chồng đã chết mà để lại.
Quy định này rất phù hợp, bởi vì nó bảo đảm cho người còn sống có thể tiếp tục duy trì đời
sống hằng ngày ổn một cách ổn định mà không phải lo rằng mình không còn chút tài sản nào
để chi cho những chi phí sinh hoạt hằng ngày.
Đối với trường hợp thứ ba: Chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng ly hôn. Trường
hợp này được quy định rất chi tiết trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo đó khi vợ
7
chồng ly hôn thì họ phải tuân thủ các nguyên tắc chia tài sản như: - việc chia tài sản khi ly hôn
thì do các bên thỏa thuận; nếu họ không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết; - Tài
sản chung của vợ, chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi
bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài
sản này; - Tài sản chung của vợ, chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị... ( Điều 95
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
III.
Thực trạng việc thực hiện quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài
sản chung hợp nhất.
Trong những năm qua, việc thực hiện quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản
chung hợp nhất được triển khai trên thực tế có nhiều chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết
quả tốt đẹp, đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng, đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên vợ
và chồng. Tuy nhiên trên thực tế cũng đã gặp không ít khó khăn, bất cập như:
Thứ nhất: Vướng mắc khi xác định và phân chia tài sản chung của vợ chồng. Các
tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn rất đa dạng, phong phú và
có nhiều diễn biến hết sức phức tạp. Có nhiều trường hợp tranh chấp thực tế không phụ
thuộc vào giá trị của tài sản nhiều hay ít nhưng các đương sự tranh giành nhau quyết liệt,
bất chấp cả đạo lý, bất chấp cả thời gian chung sống của quá khứ là vợ chồng của nhau....
Khi giải quyết các tranh chấp về tài sản trong các vụ án ly hôn, có rất nhiều Tòa án,
nhất là các Tòa án ở địa phương còn xác định tài sản chung của vợ chồng còn bị sai.
Nhiều bản án đã bị hủy vì xác định chưa chính xác, không hợp lý, chưa đảm bảo thực sự
công bằng cho vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất… Ví dụ như gần đây chánh án
TAND Tối cao đã kháng nghị giám đốc thẩm yêu cầu hủy hai bản án sơ, phúc thẩm để
giải quyết lại việc phân chia tài sản trong vụ ly hôn của vợ chồng chị NTBT tại thị xã
Rạch Giá (Kiên Giang)2.
Tài sản tranh chấp của vợ chồng chị là một mảnh đất diện tích hơn 360 m 2. Năm 1998,
cha mẹ chị T. lập di chúc cho chị phần đất này. Sau đó vợ chồng chị xây hai căn nhà cùng
một số công trình phụ trên đất. Năm 2002, cha mẹ chị T. đã thay thế bản di chúc bằng việc
lập hợp đồng ghi rõ là cha chị T. chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị. Một năm sau,
2
Tạp chí pháp luật ngày 03/04/2012. Ly hôn: Tòa khó xác định tài sản chung, riêng.
8
UBND thị xã Rạch Giá cấp giấy đỏ đứng tên vợ chồng chị T. Khi giải quyết vụ ly hôn và
chia tài sản của vợ chồng chị T. Tòa hai cấp: sơ thểm và phúc thẩm đều xác định mảnh đất
là tài sản riêng của chị T.
Như vậy, việc xác định như trên của hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm là không phù hợp,
chưa đánh giá toàn diện các tình tiết khách quan của vụ án. Bởi lẽ có cơ sở xác định cha mẹ
chị T. cho đất riêng con gái. Nhưng sau đó chị T. đã thể hiện ý chí sáp nhập thửa đất này vào
khối tài sản chung của vợ chồng qua việc đồng ý cho chồng cùng đứng tên trên giấy đỏ. Do
đó, thửa đất là tài sản chung. Ngoài ra, vì nguồn gốc đất là của cha mẹ chị T. cho nên công
sức đóng góp của chị là nhiều hơn. Khi giải quyết lại, các cấp tòa cần chia cho chị phần
nhiều hơn chồng để đảm bảo công bằng..
Thứ hai: Khi giải quyết các tranh chấp về quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài
sản chung hợp nhất có không ít các trường hợp khi điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ
( ngoài những chứng cứ do đương sự xuất trình)... Tòa án cấp sơ thẩm đã không điều tra,
thu thập chứng cứ kỹ lưỡng, phân chia không công bằng... nên đã không ít những bản
án có những phán quyết thiếu chính xác, trái với thực tế. Ví dụ như vụ tại TP Tam Kỳ
(Quảng Nam) vừa bị chánh án TAND Tối cao kháng nghị yêu cầu hủy án.
Vợ chồng ông ĐTN ra tòa ly hôn và tranh chấp một lô đất đang đứng tên ông N.
Người vợ khai chồng mua đất lúc nào bà không biết, chỉ khi trong nhà thiếu đi một khoản
tiền, bà mới hay là chồng đã lấy đi mua đất. Do đó mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng.
Ngược lại, ông N. khai nguồn tiền mua đất là của mẹ ông. Mẹ ông N. thì khai năm 2003, bà
đưa 90 triệu đồng nhờ con trai mua giùm lô đất trên.
Xử sơ thẩm, TAND TP Tam Kỳ không công nhận lô đất là tài sản chung của vợ
chồng ông N. Xử phúc thẩm, TAND tỉnh Quảng Nam đã sửa án sơ thẩm, công nhận lô đất
này là tài sản chung.
Như vậy, trong vụ việc trên lời khai của các đương sự rất khác nhau về nguồn tiền
mua đất nhưng không bên nào xuất trình được đầy đủ chứng cứ chứng minh. Lẽ ra, các cấp
tòa cần phải thu thập thêm chứng cứ để làm rõ thời điểm mua đất, mua của ai, quá trình sử
dụng, đăng ký, kê khai. Về nguồn tiền mua, các cấp tòa cũng cần phải xác minh công việc,
9
nguồn thu nhập của các bên cũng như độ chính xác trong lời khai của mẹ ông N. Do không
thu thập chứng cứ để làm rõ, mỗi cấp tòa có một quyết định khác nhau nhưng đều chưa đủ
căn cứ và thiếu tính thuyết phục. Làm cho các đương sự không đảm bảo được quyền lợi của
mình.
Thứ ba: Luật Hôn nhân và Gia đình đưa ra nguyên tắc về chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn còn chưa rõ ràng. Thực tế nhiều vấn đề chưa được hướng dẫn thống
nhất. Có những trường hợp phần đất là do cha mẹ bên vợ hoặc bên chồng cho riêng, sau đó
xây nhà hợp thức hóa đứng tên hai vợ chồng hoặc đất được cơ quan cấp riêng cho chồng
hoặc vợ, sau đó kết hôn xây nhà hợp thức hóa đứng tên chung. Có tòa xác định đất là tài sản
riêng, nhà là tài sản chung. Tuy nhiên có tòa thì cả đất và nhà đều là tài sản chung. Ngoài ra
còn có những trường hợp bán căn nhà trước đó lấy tiền cùng nhau tạo lập nhà mới. Việc xác
định căn nhà mới là tài sản chung, riêng hay công sức đóng góp thế nào cũng khiến các tòa
lúng túng. Có tòa thì cho rằng tài sản chung, có tòa thì lại là tài sản chung có một phần riêng,
có tòa buộc đương sự phải chứng minh phần đóng góp…
IV.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của pháp
luật hiện hành về quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp
nhất ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất: Việc phân chia tài sản vợ chồng khi ly hôn là một vấn đề phức tạp mà
ngành tòa án đang phải đối mặt. Trong một số vụ án, thẩm phán đã xác định đúng khối tài
sản chung của vợ chồng nhưng khi phân chia thì lại gặp sai sót. Có trường hợp sai sót
trong việc chia hiện vật, có trường hợp sai sót trong việc đánh giá công sức đóng góp của
mỗi bên. Vì thế khi giải quyết, các thẩm phán cần phải xem xét, đánh giá một cách toàn
diện, tính đến hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp trong việc
tạo lập, duy trì và phát triển tài sản…
Thứ hai: Vì các quy định của pháp luật hiện nay còn chưa quy định rõ ràng về việc
chia tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ
gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Vì vậy,
trong thời gian tới, pháp luật cần phải có những quy định rõ ràng hơn về việc chia tài sản khi
vợ chồng ly hôn. Cụ thể như: Khi chia tài sản chung, Toà án nên căn cứ vào lý do,
10
mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài
sản chung căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn qui định tại Điều 95 của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000; nếu tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất thì áp dụng các
qui định tại các điều 97, 98 và 99 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Thứ ba: Cần nâng cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc thực hiện quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất. Pháp luật
cần quy định cụ thể về trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền, đồng thời cũng
đưa ra các quy định để xử lý, kỷ luật những cá nhân, cơ quan làm sai, làm không đúng
trách nhiệm trong việc đảm bảo thực hiện quyền bình đẳng đối với tài sản chung hợp nhất
của các cặp vợ chồng ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra công tác tuyên truyền pháp luật nói chung và pháp luật về hôn nhân và
gia đình nói riêng về việc thực hiện quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung
hợp nhất là rất quan trọng. Có thể nâng cao nhận thức của cộng đồng qua nhiều phương
tiện thông tin đại chúng, sách, báo... phù hợp với từng vùng miền và từng dân tộc.
C.
KẾT BÀI
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn áp
dụng chúng ta có thể thấy quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất là
quyền rất cơ bản, có nhiều ý nghĩa quan trọng đối với các cặp vợ chồng ở nước ta hiện nay.
Đồng thời, thể hiện sự tiến bộ của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng chế độ hôn nhân
và gia đình ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Đảng – Nhà nước cần có những giải
pháp tích cực hơn nữa về văn hóa, phổ biến, giáo dục pháp luật sâu rộng cho người dân, nhất
là các cặp vợ chồng về quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung hợp nhất để
quyền này được thực hiện trên thực tế đạt nhiều hiệu quả cao hơn.
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND
– 2011.
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
3. Nghị định của Chính phủ số 70/2001/ NĐ – CP ngày 03 tháng 10 năm 2001 Quy
định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình.
4. Bình luận khoa học hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia –
2000.
5. Tài liệu tham khảo khác: WWW. Google.com.vn.
12