Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm trong vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.17 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU:
I.

KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN

II.

SỰ:
1. Khái niệm:
2. Đặc điểm:
3. Ý nghĩa:
QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC TIẾN HÀNH PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN

III.

SỰ:
1. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa và thủ tục bắt đầu phiên tòa:
2. Thủ tục hỏi:
3. Thủ tục tranh luận:
4. Nghị án và tuyên án:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC TIẾN HÀNH PHIÊN TÒA PHÚC THẨM
DÂN SỰ:
1. Thực tiễn áp dụng những quy định về thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân

IV.

sự:
2. Một số kiến nghị hoàn thiện:
KẾT LUẬN:


LỜI MỞ ĐẦU:
Việc thực hiên các qui định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) về xét xử phúc thẩm trong
những năm qua cho thấy các quy định về thủ tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự có ý
1


nghĩa quan trọng và cần thiết, tuy nhiên trên thực tế những quy định này còn thiếu sót, chưa
chặt chẽ nên dẫn đến việc áp dụng thực hiện thiếu tính đồng nhất, gây ra những vi phạm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích các bên. Vì vậy cho đến bây giờ vấn đề này luôn dành được nhiều
sự quan tâm nghiên cứu, sửa đổi bổ sung cho hoàn thiên từ đó mà yêu cầu thực tiễn đặt ra cần
có những quy định đầy đủ hơn, có những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn để có sự thống nhất
trong áp dụng, đạt được hiệu quả trong tố tung, đảm bảo quyền lợi ích của đương sự, phù hợp
với chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Vì thế, em đã chọn đề tài “Thủ
tục tiến hành phiên tòa phúc thẩm trong vụ án dân sự”.

I.
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SỰ
1. Khái niệm:
Nội dung của PTPTVADS đã được rất nhiều văn bản pháp luật đề cập đến, song khái
niệm PTPTVADS lại chưa được định nghĩa trong văn bản pháp luật nào. Để làm rõ
khái niệm PTPTVADS thì trước hết cần hiểu khái niệm phúc thẩm là gì?
Phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại VADS đã được Tòa án cấp
dưới giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
cáo, kháng nghị nhằm xác lập tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đó
theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định.
Vậy, PTTTVADS là gì?
2


Về mặt thuật ngữ, theo từ điển Tiếng Việt thì phiên tòa “ là lần họp mặt để xét xử của

Tòa án”. Theo cách giải thích này thì PTPTVADS là phiên họp của Tòa án cấp trên xét
xử lại một vụ án mà Tòa án cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án.
Dưới góc độ pháp lí “ phiên tòa” đã được giải thích trong từ điển Luật học, “phiên tòa”
được hiểu là “hình thức hoạt động xét xử của Tòa án”. Dưới góc độ này thì PTPTVADS
là hoạt động xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, khánh nghj của Tòa án.
Trong khoa học pháp lí, theo quan điểm của tác giả Hoàng Thị Bích Hải thì
“PTPTDS là phiên họp của Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại VADS đã được Tòa án
cấp dưới giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng cáo, khánh nghị nhằm xác lập tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết
định đó”.
Như vậy, Phiên tòa phúc thẩm dân sự là phiên họp củ tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án
dân sự đã được tòa án cấp dưới giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị với sự tham gia của những người tố tụng nhằm xác định
tính hợp pháp và có căn cứ của bản án quyết định đó theo những nguyên tắc và thủ tục luật
định.
2. Đặc điểm:
Phiên tòa trong tố tụng dân đều có những đặc điểm chung là nhằm xét xử vụ án một cách
có căn cứ và hợp pháp, tuy nhiên mỗi phiên tòa trong tố tụng dân sự đều có những đặc điểm
khác nhau. Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự cũng có những đặc điểm riêng phân biệt với
phiên tòa sơ thẩm, khác với giám đốc thẩm, tái thẩm:
-Thứ nhất, cơ sở tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự là dựa trên kháng cáo, kháng nghị đối
với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
- Thứ hai, phiên tòa phúc thẩm dân sự là phiên họp của tòa án để xét xử lần thứ hai một vụ án
dân sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.

3


- Thứ ba, phiên tòa phúc thẩm dân sự được tiến hành công khai với sự có mặt của những

người tham gia tố tụng có liên quan đến giai quyết kháng cáo, kháng nghị
- Thứ tư, thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án dân sự do tòa án cấp trên trực tiếp của tòa án đã
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự đó tiến hành.
-Thứ năm, nội dung của phiên tòa phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của
bản án quyết định sơ thẩm trên cơ sở đánh giá chứng cứ đã thu thập được ở cấp sơ thẩm và
những chứng cứ mới thu thập được trong quá trình phúc thẩm để xác định tính có căn cứ, tính
hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm. đây là điểm khác biệt của phiên tòa phúc thẩm với
phiên tòa sơ thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Thứ sáu, xét xử phúc thẩm dựa trên kháng cáo, kháng nghị nên phạm vi xét xử là những
phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị hoặc những phần bản án quyết định
có liên quan đến khang cáo, kháng nghị.
3. Ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm:
-Thứ nhất, về mặt pháp lí: Thông qua việc xét xử tại phiên tòa phúc thẩm, tòa án có thể xem
xét, sửa chữa những sai lầm, vi phạm của tòa án cấp dưới để đảm bảo bản án đã tuyên là có
hợp pháp, có căn cứ. tại phiên tòa phúc thẩm bản án quyết định bị kháng cáo, kháng nghị căn
cứ tài liệu được xem xét đánh giá dựa trên các quy định pháp luật vì thế tòa án cấp trên có thể
có thể kiểm tra, đánh giá được chất lượng hoạt động của tòa án câp dưới, phát hiện và khắc
phục kịp thời những sai sót, vi phạm pháp luật của tòa án cấp dưới. qua đó có thêt rút kinh
nghiệm, hướng dẫn công tác xét xử, bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt
động xét xử tại tòa án. Đồng thời, tòa án cấp phúc thẩm còn kịp thời phát hiện những lỗ hổng
của quy định pháp luật về nội dung và hình thức, từ đó đề xuất những biện pháp sửa đổi, bổ
sung nhằm nâng cao chất lượng xét xử.
- Thứ hai, về mặt xã hội:

4


Phiên tòa phúc thẩm nhằm khắc phục những sai sót của tòa sơ thẩm trong việc giải quyết vụ
án làm cho các quyền và lợi ích chính đáng của đương sự được đảm bảo một cách đúng đắn,
đầy đủ.

-Thứ ba, về mặt chính trị: với việc xét xử lại vụ án phiên tòa phúc thẩm góp phần khắc phục
những thiếu sót của bản án quyết định sơ thẩm hoặc là lần nữa khăng định tính đúng đắn của
bản án, quyết định sơ thẩm dựa trên những quy định của pháp luật. đảm bảo xét xử đúng pháp
luật không những giúp đương sự ý thức được những xử sự của họ đã thực hiện là phù hợp với
quy đinh pháp luật hay không mà còn đảm bảo, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện sự
quan tâm của nhà nước đối với quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể, đảm bảo nhà nước ta
là nhà nước của dân, do dân, vì dân, góp phần nâng cao địa vị chính trị của nhà nước.
II.

QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC TIẾN HÀNH PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN SƯ:

Nguyên tắc tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự về cơ bản là các nguyên tắc của tố tụng
dân sự như nguyên tắc đảm bảo tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán và hội
thẩm nhân dân, nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc tòa án xét xử tập thể…được áp dụng
triệt để tại phiên tòa phúc thẩm dân sự cũng như đối với phiên tòa sơ thẩm.
1. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa phúc thẩm dân sự và thủ tục bắt đầu phiên tòa:
Theo quy định điều 267 BLTTDS và theo hướng dẫn phần III. 3 nghị quyết
05/2006/HĐTP thì việc chuẩn bị phiên tòa phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên tòa thì được
thực hiện theo các điều 212, 213, 214,215 và 216 của BLTTDS. Do đó, khi khai mạc phiên
tòa phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm, HĐXX phải thi hành đúng các quy định
tại các điều luật nêu trên của BLTTDS

và sự hướng dẫn tại phần III.5 nghị quyết

02/2006/NQ-HĐTP.
a. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa phúc thẩm:
Theo những qui định và hướng dẫn trên thì việc thực hiện các công việc trong bước chuẩn
bị khai mạc là nhiệm vụ của Thư kí tòa án. Đây là thủ tục bắt buộc đảm bảo cho phiên tòa
diễn ra có sự tham gia đầy đủ của những người tham gia tố tụng, kiểm tra xem có trường hợp
5



nào phải hoãn phiên tòa không? Đồng thời còn nhằm xác lập trật tự của phiên tòa trước khi
khai mạc.
Theo qui định tại Điều 212 BLTTDS, việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa do Thư kí thực
hiện. Khi chuẩn bị khai mạc phiên tòa, Thư kí tiến hành các công việc sau:
- Phổ biến nội quy phiên tòa cho mọi người biết;
- kiểm tra xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu
tập, giấy báo của tòa án;
- Ổn định trật tự phòng xử án, yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi HĐXX vào
phòng xử án.
b. Thủ tục bắt đầu phiên tòa:
Thủ tục bắt đầu phiên tòa tại PTPTVADS bao gồm những việc:
- Khai mạc phiên tòa: là thủ tục bắt buộc phải thực hiện trước khi HĐXX tiến hành xét xử.
theo quy định điều 213 và hướng dẫn tại phần III.5 NQ 02/2006, khai mạc phiên tòa gồm
những bước sau:
+ Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. khi khai
mạc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy.
Khác với phiên tòa sơ thẩ, xuất phát từ tính chất và phạm vi xét xử phúc thẩm, ở thủ tục
khai mạc phiên tòa phúc thẩm, chủ tọa phiên tòa phải tuyên bố tòa án xét lại vụ án nào, theo
kháng cáo, kháng nghị của ai đối với bản án của tòa án nào.
Đối với trường hợp HĐXX quyết định hoãn phiên tòa, chủ tọa phiên tòa không đọc lại
quyết định đưa vụ án ra xét xử.
+ Thư kí tòa án báo cáo với HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia
phiên tòa

6


+ Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa trên cơ sở

báo cáo của thư kí tòa và kiểm tra căn cước của các đương sự.
+ Chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền và nghĩa vụ các đương sự và những người tham gia tố
tụng khác.
+ Chủ tọa phiên tòa giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch. Sau đó, chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không.
- Sau khi khai mạc phiên tòa, trong trường hợp có người yêu cầu thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì HĐXX phải xem xét, nghe ý kiến của họ trước
khi chấp nhận hoặc không chấp nhận, trường hợp không chấp nhận thì HĐXX phải nêu rõ lý
do.
Quyết định thay đổi người tố tụng, người giam định, người phiên dịch phải đươc HĐXX
thảo luận, thông qua theo đa số tại phòng nghị án và phải lập thành văn bản. trong trường hợp
phải thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch mà không có người
thay thế ngay thì HĐXX ra quyết định hoãn phiên tòa( Đ214). Theo phần II.4 NQ 01/2005
việc tiến hành giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa như sau:
+ Tại phiên tòa người yêu cầu thay đổi phải trình bày lý do, căn cứ của việc xin thay đổi đó
và được ghi đầy đủ vào biên bản phiên tòa.
Trường hợp quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng thì trong quyết định phải ghi rõ
việc hoãn phiên tòa và đề nghị người có thẩm quyền cử người khác thay thế.
+ Quyết định thay đổi hoặc không thay đổi người tiến hành tố tụng phải được HĐXX công
bố công khai tại phiên tòa.
- Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt.
- Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng.

7


+ Trước khi người làm chứng được hỏi về những vấn đề mà họ biết có liên quan đến vụ án,
chủ tọa phiên tòa có thể quyết định những biện pháp cần thiết để người làm chứng không nghe
được những lời khai của nhau, hoặc tiếp xúc với người có liên quan.

+ Trong trường hợp lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau thì
chủ tọa có thể quyết định cách li trước khi hỏi.
Như vậy, với các quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa của BLTTDS rất cụ thể và chi tiết.
với quy định của BLTTDS về thủ tục bắt đầu phiên tòa thì vai trò của thẩm phán- chủ tọa
phiên tòa là rất lớn. tất cả các hoạt động của thẩm phán tại thủ tục này nhằm đảm bảo cho việc
quản lý vụ án của tòa án được chặt chẽ, đảm bảo cho việc xét xử đúng đối tượng, đúng thủ tục
tố tụng và những người tham gia tố tụng được biết rõ các quyền và nghĩa vụ của mình tại
phiên tòa phúc thẩm dân sự.
2. Thủ tục hỏi:
So với các pháp lệnh trước đây thì BLTTDS có nhiều thay đổi hợp lý, khoa học với các
quy định chặt chẽ hơn. Ngay cả như tên gọi cũng đổi từ “thủ tục xét hỏi thành thủ tục hỏi tại
phiên tòa, cách gọi này phản ánh đúng bản chất của thủ tục giải quyết vụ án dân sự khác với
các vụ án hình sự, trình tự thủ tục hỏi cũng khác trước nhiều. trước đây tòa án chủ động hỏi tất
cả các vấn đề nội dung thậm chí theo kế hoạch đã định trước, không có phần để tự các đương
sự trình bày..điều này gây khó khăn cho công tác xét xử, khắc phục những hạn chế của các
pháp lệnh trước đây, BLTTDS có những quy định cụ thể hơn từ điều 268 đến điều 272 và từ
điều 222 đến điều 231 BLTTDS.
- Theo khoản 1 điều 268 BLTTDS, sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm,
một thành viên của HĐXX phúc thẩm công bố nội dung của vụ án, quyết định của bản án sơ
thẩm và nội dung kháng cáo kháng nghị.
- Tiếp theo khoản 2 điều 268, 269, 270 BLTTDS chủ tọa phiên tòa tiến hành hỏi các đương
sự và giải quyết các vấn đề như sau:

8


+ Hỏi nguyên đơn có rút đơn kiện hay không. Nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì
HĐXX hỏi bị đơn có đồng ý không. Nếu bị đơn không đồng ý thì HĐXX không chấp nhận
việc rút đơn của nguyên đơn và phiên tòa phúc thẩm vẫn tiến hành bình thường. nếu bị đơn
đồng ý thì HĐXX chấp nhận việc rút đơn và ra quyết định hủy bỏ bản án sơ thẩm và đình chỉ

giải quyết vụ án. Trong trường hợp này các đương sự vẫn phải chịu án phí thẩm theo quyết
định của bản án sơ thẩm và chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Việc quy định hỏi ý kiến của bị đơn trước khi xét xử phúc thẩm trong trường hợp nguyên
đơn rút đơn kiện là cần thiết bởi mọi vấn đề phát sinh, thay đổi chấm dứt trong quá trình tố
tụng thực chất là dựa trên yêu cầu của các đương sự, cùng với đó việc hỏi này đảm bảo quyền
lợi, sụ bình đẳng trong tố tụng
+ Hỏi người kháng cáo, kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị hay
không. Nếu có thì HĐXX phải xem xét xem có vượt quá nội dung kháng cáo kháng nghị ban
đầu không. Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị được hướng dẫn cụ thể chi tiết tại
phần I.10.1 nghi quyết 05/2006/HĐTP. Về việc rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì HĐXX
quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần có kháng cáo, kháng nghị đã rút(điều 256).
Trong trường hợp người kháng cáo, VKS kháng nghị rút một phần thì HĐXX ra quyết định
đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần đã rút khi có đủ điều kiện quy định tại phần I.10.a
nghị quyết 05/2006/HĐTP.
+ Về hình thức thay đổi bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị thì phần I.10.3.b của nghị
quyết 05/2006/HĐTP có hướng dẫn “ việc thay đôi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại
phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa.
+ Hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án không. Nếu họ
thỏa thuận được và việc thỏa thuận là không trái đạo đức, không trái pháp luật thì HĐXX phúc
thẩm ra các bản án phúc thẩm sửa lại bản án sơ thẩm và công nhận sự thỏa thuận. quy định
này nhằm bảo vệ quyền tự định đoạt của đương sự, phù hợp với lý luận về TTDS.
- Theo quy định tại điều 271 BLTTDS: sau khi chủ tọa phiên tòa đã hỏi mà nguyên đơn
không rút đơn khơi kiện, người kháng cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo, VKS vẫn giữ kháng
9


nghị mà các đương sự không thỏa thuận được với nhau thì HĐXX phúc thẩm bắt đầu xét xử
bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự.
- Sau khi nghe các đương sự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình, HĐXX tiến hành hỏi,
công bố tài liệu và xem xét vật chứng.

Theo điều 272 BLTTDS, thủ tục hỏi và công bố tài liệu và xem xét vật chứng tại phiên tòa
phúc thẩm được thực hiện giống như tại phiên tòa sơ thẩm, tuy nhiên ở phiên tòa phúc thẩm,
HĐXX phúc thẩm chỉ hỏi những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại điều
263 BLTTDS.
3. Thủ tục tranh luận:
Theo mô hình tố tụng xét hỏi thì sau thủ tục hỏi sẽ là thủ tục tranh luận. Tranh luận tại
phiên tòa là hoạt động trung tâm của phiên tòa, bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi
ích hợp pháp của mình trước tòa án. BLTTDS mở rộng quyền tranh luận của đương sự, đề cao
vai trò chủ động của đương sự trong việc tranh luận tại phiên tòa. Điều đó thể hiện tầm quan
trọng của hoạt động tranh luận trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án và phù hợp với
xu hướng đổi mới hoạt động tư pháp ở nước ta là mở rộng quyền tranh luận của đương sự.
theo điều 273 BLTTDS thì tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm được thự hiện như tranh luận tại
phiên tòa sơ thẩm, thứ tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện theo quy định tại điều 271
của bộ luật này và chỉ được tranh luận và chỉ được tranh luận về các vấn đề thuộc phạm vi xét
xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên tòa phúc thẩm. như vậy, ngoài việc vận dụng quy định
điều 273 BLTTDS còn phải vận dụng các quy định từ điều 232 đến điều 235 BLTTDS.
- Căn cứ tranh luận:
Pháp lệnh trước kia không quy định căn cứ khi tranh luận, còn điều 233 BLTTDS quy
định việc tranh luận của các bên đương sự phải dựa trên các căn cứ sau:
+ khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án, người
tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được

10


+khi tham gia tranh luận các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác không
được dựa vào suy đoán cảm tính để tranh luận.
- Nội dung tranh luận cần tập trung hai nội dung quan trọng:
+ Phân tích đánh giá chứng cứ, tranh luận bảo vệ lý lẽ của mình, đưa ra các chứng cứ để
bác bỏ lý lẽ bên kia và chi rõ việc áp dụng quy phạm pháp luật nào để giải quyết vụ án.

+ Trong khi phát biểu tranh luận các bên đề xuất quan điểm của mình về hướng giải quyết
trên cơ sở các tài liệu chứng cứ đã thu thập được và đã được các bên thảo luận, xem xét, xác
minh, thừa nhận tại phiên tòa.
- Phạm vi tranh luận :Tại PTPTVADS, phạm vi tranh luận chỉ giới hạn ở những vấn đề
thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm, nghĩa là những vấn đề có khánh cáo, kháng nghị hoặc liên
quan đến vấn đề giải quyết kháng cáo, kháng nghị.
- Trình tự tranh luận:
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo trình bày nội dung
kháng cáo và căn cứ của kháng cáo, người kháng cáo có quyền bổ sung. Trường hợp tất các
các đương sự cùng kháng cáo thì việc trình bày theo thứ tự người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự kháng cáo là nguyên đơn và nguyên đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự kháng cáo là bị đơn và bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự kháng cáo là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan
+ Nếu chỉ có VKS kháng nghị thì kiểm sát viên trình bày nội dung kháng nghị và các căn
cứ kháng nghị, trong trường hợp vừa có căn cứ kháng cáo và vừa có kháng nghị thì nguyên
đơn trình bày trước sau đó đến kiểm sát viên.
Trong trường hợp đương sự không có người bảo vê quyền và lợi ích hợp pháp cho mình
thì họ tự trình bày về nội dung kháng cáo và căn cứ kháng cáo.

11


Sau khi người tham gia tố tụng dân sự phát biểu tranh luận và đối đáp xong, trong trường
hợp có VKS tham gia phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đề nghị kiểm sát viên phát biểu ý kiến của
VKS về hướng giải quyết vụ án
- Vai trò của thẩm phán chủ tọa phiên tòa đối với tranh luận của các bên là rất lớn, chủ
tọa phiên tòa là người điều khiển quá trình tranh luận nhằm đảm bảo tính khách quan, toàn
diện và đúng trọng tâm.
4. Nghị án:

Nghị án là việc HĐXX xem xét quyết đinh giải quyết vụ án dựa trên cơ sở kết quả của
việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Theo BLTTDS việc nghị án được thực hiện theo tinh thần
đổi mới hoạt động tư pháp đã được đề ra theo nghị quyết số 08/NQ-TW năm 2002: việc phán
quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét
đầy đủ các chứng cứ,, ý kiến… của nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi ích hợp
pháp để ra bản án đúng pháp luật, có sức thuyết phục. theo điều 274 BLTTDS thì việc nghị án,
trở lại việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được tiến
hành như thủ tục sơ thẩm. so với các quy định tố tụng trước đây về thủ tục nghị án, điều 236
BLTTDS quy định khá đầy đủ và chi tiết về nguyên tăc, trình tự, căn cứ và nội dung nghị án.
- Về nguyên tắc và trình tự nghị án, k2 điều 236 quy định chỉ có các thành viên HĐXX
mới có quyền nghị án, giải quyết các vấn đề bằng biểu quyết theo đa số, hội thẩm nhân dân
biểu quyết trước, thẩm phán biểu quyết sau cùng…người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày
ý kiến bằng văn bản. như vậy, việc nghị án là bí mật.
- Căn cứ nghị án được quy đinh tại khoản 3 điều 236 BLTTDS theo đó khi nghị án các
thành viên HĐXX chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên
tòa, kết quả hỏi tại phiên tòa và xem xét đầy đủ các ý kiến của người tham gia tố tụng, Kiểm
sát viên.
- Về nội dung nghi án, khoản 2 điều 236 có quy định khi nghị án các thành viên HĐXX
phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án. Đối với phiên tòa phúc thẩm dân sự phải giải quyết
12


các vấn đề trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị và những vấn đề có liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị. Theo khoản 4 điều 236 thì khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận
và quyết định của HĐXX.
- Về thời gian nghị án, quy định tại khoản 5 điều 236: trong trường hợp vụ án có nhiều
tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì HĐXX có thể quyết định thời
gian nghị án, nhưng không quá 5 ngày kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Đây là điểm
mới của BLTTDS so với các quy đinh trước đây.
Khi nghị án có thể xảy ta hai trường hợp:

+ Qua nghị án, nếu thấy tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc
cần xem xét thêm chứng cứ, HĐXX quyết định trở lại việc hỏi va tranh luận.(điều 237)
+ HĐXX ra bản án, quyết định về giải quyết vụ án dân sự.
5. Tuyên án:
Theo quy định 274 BLTTDS thủ tục tuyên án tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện như
phiên tòa sơ thẩm được quy định tại điều 239 BLTTDS.
Sau khi bản án được thông qua, HĐXX trở lại phòng xét xử để tuyên án, theo điều 239
BLTTDS khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt
được phép của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viễn khác của HĐXX đọc
bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo.
Trong trường hợp đương sự không biết tieesnh việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải
dịch cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết. để thực hiện quy định này thống
nhất, phần III.11 của nghị quyết 02/2006/HĐTP đã có quy định hướng dẫn cụ thể hơn.
III.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC TIẾN HÀNH PHIÊN TÒA PHÚC THẨM

DÂN SỰ:
1. Thực tiễn áp dụng những quy định về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự:
a. Một số thành tựu:
13


- Theo thống kê của tòa án nhân dân tối cao trong những báo cáo tổng kết của ngành
tòa án thì thực trạng thụ lý giải quyết theo trình tự phúc thẩm các vụ án dân sự trên cả nước
ta qua các năm như sau:
Năm 2007, việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình:
các tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý 17.660 vụ việc, đã giải quyết 16.722 vụ việc, đối với công
tác giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mai và yêu cầu tuyên bố phá sản,

tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý 485 vụ viêc, đã giải quyết được 401 vụ việc, công tác giải
quyết tranh chấp, yêu cầu về lao động tòa án phúc thẩm đã thụ lý 244 vụ việc, đã giải quyết
240 vụ việc.
Năm 2008, việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình: các
tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý 16.862 vụ việc, đã giải quyết 16.098 vụ việc, đối với công tác
giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mai và yêu cầu tuyên bố phá sản, tòa
án cấp phúc thẩm đã thụ lý 626 vụ viêc, đã giải quyết được 538 vụ việc, công tác giải quyết
tranh chấp, yêu cầu về lao động tòa án phúc thẩm đã thụ lý 193 vụ việc, đã giải quyết 189 vụ
việc.
Năm 2009, vê dân sự, tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 214.174 vụ việc, đã giải quyết, xét
xử được 194.358 vụ việc đã đạt được 90,7 %. Trong đó, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm
15.893 vụ việc.
Qua số liệu cho thấy, hàng năm số lượng vụ án tòa án các cấp đã thụ lý, giải quyết theo
trình tự phúc thẩm có xu hướng tăng, tuy nhiên tỉ lệ giải quyết các vụ án đã thụ lý của tòa án
phúc thẩm còn đạt tỷ lệ cao. Có thể nói từ khi BLTTDS có hiệu lực cùng với những văn bản
hướng dẫn thi hành, công tác áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp có nhiều thuận
lợi, tòa án các cấp đã hoàn thành các tiêu chí công tác đề ra, chất lượng xét xử tại phiên tòa
phúc thẩm dân sự được đảm bảo hơn.
b. Một số bất cập trong việc áp dụng các quy định về thủ tục phiên tòa phúc thẩm dân sự:
* Sai sót do không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng
14


Việc bỏ sót người tham gia tố tụng là một trong những sai lầm nghiêm trọng nên tòa án
cấp trên phải hủy bản án hoặc kháng nghị bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để giải
quyết lại các sai lầm thường gặp là việc tòa án không đưa ra đầy đủ người tham gia tố tụng
trong trường hợp giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi của một người nào đó mà
không ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và nghĩa vụ liên
quan. Trên thực tế, có tòa án không đưa đầy đủ các đồng sở hữu hoặc các đồng thừa kế tham
gia tố tụng nhưng lại giải quyết cả phần tài sản của họ trong khối tài sản chung với người khác

có tranh chấp trong vụ án nên việc giải quyết là sai.
* Tòa án cấp sơ thẩm bỏ sót người tham gia tố tụng, tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra việc
này đưa họ ra tham gia tố tụng và buộc người đó phải chịu nghĩa vụ là vi phạm nghiêm trọng
trong tố tụng về phạm vi xét xử phúc thẩm. Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã
không xác minh đầy đủ những người có liên quan đến nội dung đang tranh chấp để họ tham
gia tố tụng. Bản án sơ thẩm có kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra những sai xót
này, nhưng thay vì phải hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại sơ thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm
lại đưa thêm người tham gia tố tụng, đồng thời buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ là xét xử cả
phần cấp sơ thẩm chưa xét xử và vi phạm.
* Bị đơn chết, tòa án không đưa người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn vào
tham gia tố tụng. điều 62 BLTTDS quy định kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng: “ trường hợp
đương sự là cá nhân…tham gia tố tụng..”
Do đó, chỉ có đương sự trong vụ án chết thì tòa án phải làm rõ là họ để lại tài sản thừa kế
hay không và ai là người được thừa kế tài sản. để từ đó, triệu tập người thừa kế tham gia tố
tụng và giải quyết vụ án. Nếu chưa có người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng thì căn cứ khoản
1 điều 189 BLTTDS để tạm đình chỉ giải quyết vụ án, nếu đương sự chết mà quyền và nghĩa
vụ không được thừa kế thì căn cứ điều 192 BLTTDS để đình chỉ.
Thực tế khi tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án thì bị đơn chết hoặc sau khi xét xử sơ
thẩm bị đơn chết và người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng tòa án không triệu tập
người thừa kế của bị đơn tham gia tố tụng là không đúng pháp luật.
15


* Tòa án giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Pháp luật TTDS đã qui định rõ về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện, nội dung, hình
thức đơn khởi kiện…của đương sự. Tại phiên tòa thì người khởi kiện vẫn có quyền thay đổi,
bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng viậc bổ sung, sửa đổi của họ không được vuợt quá phạm vi
yêu cầu khởi kiện. Trong thực tế, có một số trường hợp người khởi kiện đã thể hiện rõ yêu
cầu, nhưng khi xét xử thì Tòa án phúc thẩm lại buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ vuợt quá
yêu cầu của nguyên đơn.

Trong thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật tố tụng tại PTPTVADS còn nhiều tồn tại
bất cập như việc Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện một số sai lầm nghiêm trọng của Tòa án cấp
sơ thẩm, nhưng không hủy bản án sơ thẩm mà lại kiến nghị Giám đốc thẩm bản án.
c. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế, bất cập
Qua những bất cập nêu trên, nguyên nhân của nó có cả nguyên nhân khách quan và chủ
quan. Đó là do một số quy định của BLTTDS còn chưa rõ ràng, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chưa có những văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, cách giai
quyết khác nhau. Một số quy định của bộ luật tố tụng dân sự còn thiếu, chưa đầy đủ, chưa phù
hợp. bên canh đó tình trạng thiếu thẩm phán cũng là nguyên nhân dẫn đến yếu kém của chất
lượng xét xử , năng lực kiến thức xét xử của một số thẩm phán trong một số vụ án còn hạn
chế, trách nhiệm ý thức kỷ luật còn chưa đáp ứng được yêu cầu của đòi hỏi xét xử trng tình
hình hiện nay.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện:
- Bổ sung qui định về khái niệm vuợt quá nội dung kháng cáo, khánh nghị ban đầu: Thông
thường khi vụ án đã được xét xử tại phiền tòa phúc thẩm thì cũng đã hết thời hạn kháng cáo,
có nghĩa thường thì tại phiên tòa phúc thẩm nếu đương sự, VKS có thay đổi, bổ sung kháng
cáo, kháng nghị thì HĐXX phải xem xét xem việc bổ sung thay đổi có vượt quá nội dung
kháng cáo, kháng nghị ban đầu không, tuy nhiên thế nào là vượt quá nội dung kháng cáo,
kháng nghị ban đầu thì BLTTDS cũng như nghi quyết 05/2006/HĐTP lại không có quy định
cụ thể, vì thế cần thiết phải có văn bản ban hành hướng dẫn vấn đề này.
16


- Về việc hoãn phiên tòa: Đối với trường hợp vụ án có nhiều đương sự phải tham gia phiên
tòa phúc thâm có thể xảy ra trường hợp phải hoãn phiên tòa nhiều lần do họ vắng mặt lần lượt
tại các phiên tòa vì nhiều lý do. BLTTDS hiện nay chưa có quy đinh nhằm chi phối vấn đề
này. Để đưa ra biện pháp hạn chế số lần hoãn phiên tòa mà vẫn bảo vệ được quyền lợi hợp
pháp của các đương sự là hết sức khó khăn, đây cũng là khe hở cho các đương sự không có
thiện chí cố ý kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
- Vấn đề đình chỉ tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự:

Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX có thể đình chỉ xét xử phúc thẩm hoặc có thể đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự. đình chỉ xét xử phúc thẩm khác biệt với đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự dân sự trong thủ tục phúc thẩm. tính chất của đình chỉ xét xử phúc thẩm không làm chấm
dứt các quyền và nghĩa vụ về mặt nội dung mà chỉ chấm dứt thủ tục tố tụng phúc thẩm. nói
cách khác, đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động hoạt động xét xử phúc thẩm
nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm, như
vậy quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định sơ thẩm của các đương sự phải được đương
sự tôn trọng và thi hành. Căn cứ của việc đình chỉ xét xử phúc thẩm được quy định tại điều
192, 260 BLTTDS. Như vậy theo quy định của BLTTDS thì hai căn cứ đầu của điều 192 cùng
với quy định điều 260 BLTTDS ta thấy nó vừa là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án tại thủ tục
phúc thẩm vừa là căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm. quy định này đã gây ra khó khăn trong
thực tiễn áp dụng khi nào tòa án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án và khi nào sẽ đình
chỉ xét xử phúc thẩm. nghị định 05/2006 cũng không có hướng dẫn về quy đinh này. Vậy nên
sự bổ sung quy định hướng dẫn vấn đề này là cần thiết.
- Về tranh luận tại phiên tòa:
Hiện nay tranh luận tại phiên tòa trong BLTTDS cũng chỉ mới đề cập đến trình tự phát
biểu khi tranh luận, phát biểu khi tranh luận và đối đáp, phát biểu của viện kiểm sát và trở lại
việc xét hỏi mà chưa đề cập cụ thể đến những người có quyền tham gia tranh luận, phạm vi,
căn cứ của việc tranh luận trong khi đó đây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng để ra những
bản án, quyết định có căn cứ và hợp pháp. Về những người tham gia tranh luận cần bổ sung
17


thêm điều luật quy định về người có quyền tham gia tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm đó là
đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự có quyền tham gia tranh luận. trong trường hợp viện kiểm sát kháng nghị thì viện kiểm sát
cso quyền tranh luận.
* Trên đây là những kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục tiến hành
PTPTVADS. Ngoài ra, về phương diện thực hiện pháp luật cần phải triển khai mạnh mẽ
thường xuyên công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết

pháp luật; xây dựng đội ngũ thẩm phán giàu kiến thức, kinh nghiệm, trau dồi nghiệp vụ
chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức.

KẾT LUẬN:
Qua phân tích, nghiên cứu về thủ tục tiến hành PTPTVADS chúng ta thấy tầm quan trọng
và ý nghĩa của thủ tục tiến hành PTPTVADS. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được
các qui định về thủ tục tiến hành PTPTVADS còn có những hạn chế, bất cập. Những hạn chế,
18


bất cập đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của các chủ thể. Vì vậy, pháp luật
TTDS còn có những qui định chặt chẽ hơn về thủ tục tiến hành PTPTVADS để đảm bảo chất
lượng của PTPTVADS.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

19


1. Trường đại học luật hà nôi, GIÁO TRÌNH LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ, nxb. CAND, hà
nội, 2009.
2. Bộ luật tố tụng năm 2004.
3. Bùi Thị Huyền, “phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự”, tạp chí luật học, đặc san về BLTTDS
2005.
4. Nghị quyết 02/2006/ NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về
thủ tục giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm.
5. Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về
thủ tục giải quyết vụ án tại tòa phúc thẩm.

20




×