BÀI TẬP HỌC KỲ
MÔN LUẬT THUẾ VIỆT NAM
Đề bài:
Bình luận các quy định về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân.
Dàn ý:
A.
B.
Đặt vấn đề.
Giải quyết vấn đề:
1. Các quy định về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân trong Luật
2.
C.
thuế thu nhập cá nhân 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ưu và nhược điểm của các quy định trên. Nguyên nhân và phương
hướng hoàn thiện.
Kết luận.
Hà Nội, ngày 7/5/2011
A)
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Thuế thu nhập cá nhân là hình thức thuế thu vào các khoản thu nhập của
các cá nhân kinh doanh và không kinh doanh. Đây là loại thuế trực thu, thu
vào một số khoản thu nhập cao, chính đáng của cá nhân nhằm thực hiện việc
1
điều tiết thu nhập giữa các thần lớp dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã
hội về thu nhập và góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Vì đây là loại thuế đánh vào các khoản thu nhập thực nhận của các cá
nhân, do vậy, xét về mặt bản chất thì đối tượng chịu thuế của thuế thu nhập
cá nhân chính là các khoản thu nhập chịu thuế.
B)
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Các quy định về đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân trong
Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 và các văn bản hướng dẫn
thi hành.
Sự kiện pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật thuế thu nhập cá nhân
được pháp luật dự liệu là các cá nhân có thu nhập chịu thuế phát sinh. Thêm
vào đó, thu nhập cá nhân được tính dựa trên hai căn cứ là: Thu nhập tính
thuế trong kì tính thuế và thuế suất. Do đó mà việc quy định chi tiết về đối
tượng chịu thuế hay nói cụ thể thì việc quy định về các khoản thu nhập chịu
thuế là cần thiết để tránh tình trạng hỗn loạn, bất công bằng, khó khăn trong
khâu thu thuế cũng như quản lý thuế.
Khái niệm “thu nhập” với rất nhiều quan điểm khác nhau, khó có thể tìm
thấy một khái niệm toàn vẹn, do vậy, thay vì định nghĩa khái niệm “thu nhập”,
luật pháp của các nước trên thế giới đều liệt kê các khoản thu nhập của cá
nhân phải chịu thuế. Và đối tượng chịu thuế ở các quốc gia được quy định
không giống nhau, nguyên nhân bắt nguồn từ sự khác biệt về trình độ, năng
lực, kiểm soát, quản lý thuế thu nhập phát sinh khác nhau; cũng như việc tiêu
chí, cách thức mà mỗi quốc gia đánh thuế cũng khác nhau. Ví dụ như luật
pháp của Pháp quy định 8 loại thu nhập chịu thuế là:
-
Thu nhập từ lương và các khoản coi như lương.
Thu nhập từ các hoạt động kinh doanh công thương nhiệp.
Thu nhập từ các hoạt động nông nhiệp như: trồng trọt, chăn nuôi,…
Thu nhập từ ngành nghề độc lập và dịch vụ tư vấn.
2
-
Thu nhập từ đầu tư chứng khoán.
Thu nhập từ cho thuê bất động sản.
Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản.
Thù lao cho người điều hành công ty.
Giống với luật của Pháp ở việc cũng sử dụng phương pháp liệt kê, tuy nhiên
luật thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam cũng có nhiều điểm khác biệt trong
đối tượng chịu thuế. Cụ thể: Đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân được quy
định tại Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 và được chi tiết tại Điều 3
Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân. Bên cạnh việc quy định về
đối tượng chịu thuế, Luật cũng quy định các trường hợp được miễn thuế tại
Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007, Điều 4 Nghị định 100/2008/NĐ-CP.
Theo đó, các khoản thu nhập chịu thuế là:
Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Bao gồm:
Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ theo quy định
•
-
của pháp luật. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm
muối, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản chi áp dụng dối với trường hợp không đủ
điều kiện được miễn thuế, được quy định tại khoản 5 Điều 4 Nghị định
100/2008/NĐ-CP là:
Thứ nhất: Có quyền sử dụng đất, sử dụng mặt nước hợp pháp để sản xuất và
trực tiếp tham gia lao động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi
trồng thủy sản. Đối với đánh bắt thủy sản thì phải có quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng tàu, thuyền, phương tiện đánh bắt và trực tiếp tham gia đánh
bắt thủy sản.
Thứ hai: Thực tế cư trú tại địa phương nơi diễn ra hoạt động sản xuất nông
nhiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng thủy sản theo quy định của pháp luật
về cư trú.
3
-
Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc
chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.
Đối với cá nhân cư trú thì khoản thu nhập này là doanh thu: Là toàn bộ tiền
bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung ứng hàng hóa, dịch vụ phát
sinh trong kì tính thuế từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ. Thời điểm xác định doanh thu là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu
hàng hóa, hoàn thành dịch vụ hoặc thời điểm lập hóa đơn bán hàng, cung
ứng dịch vụ.
Còn đối với cá nhân không cứ trú thì thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh là toàn bọ doanh thu : Là toàn bộ số tiền phát sinh từ việc cung ứng
hàng hóa, dịch vụ bao gồm cả chi phí do bên mua hoàng hóa, dịch vụ trả thay
cho cá nhân không cư trú mà không được hoàn trả.
•
Thu nhập từ tiền công, tiền lương:
Đối với cá nhân cư trú thì thu nhập từ tiền công, lương là tổng thu nhập
đối tượng nộp nhận được trong kì tính thuế. Đối với thu nhập chịu thuế của
cá nhân không cư trú thì đó là tổng số tiền lương, tiền công mà cá nhân
không cư trú nhận được do thực hiện công việc tại Việt Nam, không phân biệt
nơi trả thu nhập. Cụ thể khoản thu nhập này sẽ bao gồm:
-
Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công nhận
-
được dưới các hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền.
Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của
pháp luật về ưu đãi người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc
hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có
yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định
của pháp luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy
giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ
4
cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật Lao động, các
khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã
-
hội.
Tiền thù lao nhận được dưới các hình thức như: tiền hoa hồng mô giới, tham
-
gia đề tài, dự án, tiền nhuận bút,…
Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm
-
soát, hội đồng quản lý, các hiệp hội, hội nghề nghiệp và các tổ chức khác.
Các khoản lợi ích bằng tiền hoặc không bằng tiền ngoài tiền lương, tiền công
do người sử dụng lao động trả hoặc trả hộ đối tượng nộp thuế dưới mọi hình
thức như: tiền nhà ở, điện, nước và các dịch vụ kèm theo(nếu có); tiền mua
bảo hiểm mà pháp luật không quy định bắt buộc người sử dụng lao động
phải mua cho người lao động; phí hội viên và các khoản chi dịch vụ khác phục
-
vụ cho cá nhân theo yêu cầu (chăm sóc sức khỏe,…)
Các khoản tiền thưởng, trừ các khoản thưởng kèm theo các danh hiệu được
Nhà nước phong tặng, tiền thưởng kèm theo giải thưởng quốc gia, quốc tế;
tiền thưởng về cải tiến kĩ thuật; sáng chế, phát minh được cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền công nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi
phạm pháp luật đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Bên cạnh đó thì luật cũng quy định những trường hợp mà thu nhập chịu
thuế từ tiền lương, tiền công được giảm trừ, đó là các trường hợp giảm trừ
gia cảnh: Đối tượng nộp thuế có trách nghiệm nuôi dưỡng con chưa thành
niên, con bị tàn tật, không có khả năng lao động; cá nhân không có thu nhập
hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định bao gồm: con đang học đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề; vợ hoặc chồng không có
khả năng lao động; bố mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao
động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực
tiếp nuôi dưỡng. Và một trường hợp nữa được giảm trừ thuế là với khoản
đóng góp từ thiện, nhân đạo.
5
Khoản 9, 10, 13 Điều 4 Nghị định 100/2008/NĐ-CP quy định về các
trường hợp thu nhập từ tiền lương, công được miễn thuế:
-
Phần tiền lương, tiền công làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn
so với tiền lương, tiền công làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định
-
của pháp luật.
Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả theo quy định của Luật Bảo hiểm
xã hội. Cá nhân sinh sống tại Việt Nam được miễn thuế đối với tiền lương hưu
-
do nước ngoài trả.
Thu nhập nhận được từ các quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện,
•
nhân đạo, không nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn : Là tổng khoản thu nhập từ đầu tư vốn mà
đối tượng nhận được trong kì tính thuế đối với cá nhân cư trú và là tổng số
tiền mà cá nhân không cư trú nhận được từ việc đầu tư vống vào tổ chức, cá
nhân tại Việt Nam. Bao gồm: tiền lãi cho vay, lợi tức cổ phần, thu nhập từ đầu
tư vốn dưới các hình thức khác, kể cả trường hợp góp vốn đầu tư bằng hiện
vật, danh tiếng, quyền sử dụng đất, phát minh, sáng chế; trừ thu nhập nhận
được từ lãi trái phiếu Chính phủ.
Khoản 7, 8, 14 Điều 4 Nghị định 100/2008/ NĐ-CP quy định về thu nhập
từ tiền lãi gửi tại ngân hàng, tổ chức tính dụng; từ lãi hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ; từ kiều hối được miễn thuế; các khoản từ nguồn viện trợ nước
ngoài vì mục đích từ thiện, nhân đạo dưới hình thức Chính phủ, phi Chính phủ
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
•
Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng phần vốn góp : Bao gồm: chuyển
nhượng phần vốn góp trong các tổ chức kinh tế, chuyển nhượng chứng
khoán, và dưới các hình thức khác. Đối với cá nhân cư trú thì thu nhập này
được tính là giá chuyển nhượng trừ giá mua của phần vốn góp và các chi phí
liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn. Đối với cá nhân
6
không cư trú thì đây được xác định là tổng số tiền mà họ đã nhận được từ
việc chuyển nhượng phần vốn góp tại tổ chức, cá nhân Việt Nam, không phân
•
biệt việc chuyển nhượng được thực hiện tại Việt Nam hay nước ngoài.
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản: Bao gồm: Thu nhập từ chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; quyền sở hữu hoặc sử
dụng nhà ở và khoản khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản.
Đối với cá nhân cư trú: Thu nhập tính thuế từ chuyển nhượng bất động
sản được tính bằng giá chuyển nhượng bất động sản theo từng lần chuyển
nhượng trừ giá mua bất động sản và các chi phí liên quan, cụ thể:
-
Giá chuyển nhượng bất động sản là giá hợp đồng tại thời điểm chuyển
nhượng.
Giá mua bất động sản là giá theo hợp đồng tại thời điểm mua.
Chi phí liên quan được trừ căn cứ vào chứng từ, hóa đơn theo quy định của
-
-
pháp luật: các loại phí, lệ phí tho quy định của pháp luật liên quan đến quyền
sử dụng đất. chi phí cải tạo đất; cải tạo nhà, chi phí san lấp mặt bằng; chi phí
đầu tư xây dựng nhà ở, kết cấu hạ tầng và công trình kiến trúc trên đất; các
chi phí khác liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản.
Cũng giống với các xác định thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản đối
với cá nhân không cư trú, trường hợp cá nhân cư trú nhưng không xác định
được giá mua và chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng bất động sản thì
thu nhập chịu thuế được xác định là giá chuyển nhượng bất động sản.
Khoản 1, 2, 3, 6 Điều 4 Nghị định 100/2008/NĐ-CP quy định về những
trường hợp thu nhập từ bất động sản những được miễn thuế. Đó là:
-
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ
với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu;
7
cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với
-
cháu ngoại; anh, chị em ruột với nhau.
Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền
với đất ở của cá nhân trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có duy
-
nhất một nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất
không phải trả tiền hoặc được giảm tiền sử dụng đất theo quy định của pháp
•
luật.
Thu nhập từ trúng thưởng: Là phần giá trị giải thưởng bao gồm tiền hoặc
hiện vật lớn hơn 10 triệu đồng mà đối tượng nộp thuế nhận được theo từng
lần trúng thưởng không phụ thuộc vào số lần nhận tiền thưởng. Bao gồm:
trúng thưởng xổ số, khuyến mại dưới các hình thức; cá cược, casino; trong
các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác,…
Khoản 11 Điều 4 Nghị định 100/2008/NĐ-CP quy định về các khoản thu
nhập từ học bổng được miễn thuế: Đó là các học bổng nhận từ ngân sách Nhà
nước, từ tổ chức trong và ngoài nước theo chương trình hỗ trợ khuyến học
của tổ chức đó.
•
-
Thu nhập từ bản quyền: Bao gồm:
Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở
hữu trí tuệ: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả; quyền sở hữu
-
công nghiệp; quyền đối với giống cây trồng.
Thu nhập từ chuyển giao công nghệ: bí quyết kỹ thuật, kiến thức kỹ thuật, các
giải pháp hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ.
Là phần thu nhập vượt quá 10 triệu đồng theo hợp đồng chuyển nhượng,
không phụ thuộc vào số lần thanh toán hay số lần nhận tiền mà đối tượng
nộp thuế nhận được khi chuyển giao.
8
•
Thu nhập từ chuyển nhượng thương mại: Là phần thu nhập vượt quá 10
triệu đồng theo hợp đồng chuyển nhượng quyền thương mại, không phụ
thuộc vào số lần thanh toán hay nhận tiền mà người nộp thuế nhận được.
Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền bồi
thường tai nạn lao động ; các khoản bồi thường Nhà nước,… được miễn thuế
theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Nghị định 100/2008/NĐ-CP.
•
Thu nhập từ thừa kế, quà tặng: Là phần giá trị tài sản nhận thừa kế, quà
tặng vượt quá 10 triệu đồng mỗi lần nhận, là chứng khoán; phần vốn góp
trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh; bất động sản và các tài sản khác
phải đăng kí quyền sở hữu hoặc đăng kí quyền sử dụng.
Khoản 4 Điều 4 Nghị định 100/2008/NĐ-CP quy định về trường hợp
được miễn thuế từ thừa kế, quà tặng: “Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng
là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ
nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể;
ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị em
ruột với nhau”
2.
Ưu và nhược điểm của các quy định trên. Nguyên nhân và
phương hướng hoàn thiện.
Sau 2 năm Luật thu nhập cá nhân 2007 có hiệu lực, những quy định về
đối tượng chịu thuế đang thể hiện những ưu điểm rõ nét của mình so với
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cũ, đã hết hiệu lực:
Thứ nhất: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân hiện nay đang quy định với 10
loại thu nhập thuộc diện chịu thuế, 14 loại thu nhập thuộc diện miễn thuế.
9
Nhìn chung, quy định những loại thu nhập thuộc diện chịu và miễn thuế như
vậy là hợp lý.
Thứ hai: Kế thừa những quy định cũ về đối tượng chịu thuế theo Pháp lệnh
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nhưng so với Pháp lệnh, Luật
2007 đã mở rộng những loại thu nhập thuộc diện chịu thuế hơn. Ví dụ như,
một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi là thu
nhập không chịu thuế) như: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại,
thu nhập từ quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các cơ sở kinh doanh,
bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng (tuy nhiên,
thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của cá nhận chỉ có nhà ở, đất ở duy
nhất được miễn thuế), thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các
cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính
đối với trúng thưởng xổ số và khuyến mại) thì nay đã được bổ sung cụ thể,
nhiều loại thu nhập chịu thuế hơn. Việc quy định nhiều loại thu nhập chịu
thuế sẽ giúp tạo công bằng cho việc thu thuế cá nhân, đồng thời giảm gắng
nặng chịu thuế cho một bộ phận những người nộp thuế, cũng như tăng
nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
Thứ ba: Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cũ, thu
nhập được phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không
thường xuyên. Tuy nhiên, Pháp lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập
thường xuyên, thế nào là thu nhập không thường xuyên. Do vậy, trong thực
tế, việc tính thuế gặp khá nhiều khó khăn. Đồng thời, việc tính thuế đối với
từng loại thu nhập không hợp lý, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật
thuế thu nhập cá nhân đã khắc phục được hạn chế này với việc phân loại thu
nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế
bao gồm thu nhập từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập
từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động
10
sản; thu nhập khác (bao gồm: thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản
quyền, thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền
thương mại). Đây là cơ sở để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập. Từ
cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối
với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế
suất luỹ tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu
thuế luỹ tiến toàn phần.
Thứ tư: So với Pháp lệnh thuế thu nhập cho người có thu nhập cao, Luật thuế
thu nhập cá nhân 2007 đã có sự thay đổi trong thuật ngữ sử dụng, thay thuật
ngữ “thu nhập không thuộc diện chịu thuế” thành “thu nhập được miễn thuế”.
Việc thay đổi thuật ngữ đã “chạm” được đến bản chất của việc miễn thuế,
giúp các đối tượng nộp thuế hiểu đến tận cùng bản chất hơn là thuật ngữ cũ.
Bởi đối tượng miễn thuế là các khoản thu nhập chịu thuế do tính chất, đặc
trưng và do điều kiện về kinh tế, xã hội, đời sống mà được miễn thuế. Những
khoản thu này khi có đủ điều kiện cần thì nó sẽ được các nhà làm luật đưa
vào diện chịu thuế, chịu sự điểu khiển liên quan của pháp luật. Còn đối tượng
không thuộc diện chịu thuế là là những thu nhập nằm ngoài phạm vi điều
chỉnh của các quy định pháp luật, pháp luật chỉ liệt kê để thuận tiện cho việc
áp dụng trên thực tế.
Thứ năm: Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 quy định về việc miễn thuế phần
thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng, các quỹ tín dụng và
các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này nhằm mục
đích thu hút khoản tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để
từ đó sử dụng vốn của nền kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến
khích sử dụng có hiệu quả mọi đồn vốn của xã hội.
Thứ sáu: Và có lẽ quan trọng nhất, đó là việc quy định về đối tượng chịu thuế
thu nhập cá nhân được nâng từ Pháp lệnh lên thành Luật đã tạo thói quen cho
11
người dân trong việc nộp thuế, để người dân ý thức được những khoản thu nhập
phải nộp. Đồng thời từ đó, dần dần chúng ta có những điều chỉnh để hoàn thiện
Luật thuế thu nhập cá nhân, hướng đến việc tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước từ nguồn thuế trực thu.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quy định về đối tượng chịu thuế thu
nhập cá nhân theo pháp luật hiện hành vẫn còn những bất cập cần bàn đến. Điều
này cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi mà Luật đã được Quốc hội khóa XII
thông qua ngày 21 /11/2007; nhưng lại được chậm và giãn tiến độ triển khai
do gặp khủng hoảng kinh tế-tài chính thế giới trong khuôn khổ gói kích cầu
của Chính phủ... mãi đến tận ngày 1/1/2009, Luật mới có hiệu lực, do đó cũng
không thể tránh khỏi trong khoảng thời gian đó, Luật đã có những điểm lạc
hậu hơn so với tình hình phát triển hiện tại của đất nước:
Thứ nhất: Nếu trước đây, chỉ với khoảng 10 tr.đ/tháng, 1 gia đình 4 nhân
khẩu có thể sống khá dễ chịu ở Hà Nội, thì nay, mức tối thiểu đã phải nâng
lên ít nhất gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi, nếu tính cả tiền thuê nhà...Nếu xét theo
đà và áp lực lạm phát còn khá cao trong thời gian tới, nhất là về giá lương
thực, thực phẩm và y tế, cũng như xăng dầu, điện, nước..., thì chắc chắn "gói
thu nhập tối thiểu" giành cho 1 gia đình trung bình ở đô thị nước ta này còn
tiếp tục gia tăng với tốc độ chóng mặt. Thực tế áp dụng thuế thu nhập cá
nhân trong 2 năm qua cũng cho thấy, mức chiết trừ gia cảnh 1,5 trr.đ/người
cũng sớm trở nên lạc hậu. Hơn nữa, việc xác nhận hành chính (ở cấp chính
quyền địa phương hoặc cơ quan) về vị thế và thực tế đã tính hay chưa tính
chiết trừ gia cảnh người phụ thuộc gây nhiều phiền toái và khó chính xác cho
cả người nộp thuế, lẫn cơ quan thu thuế...
Thứ hai: Nói là thuế thu nhập cá nhân đánh trên diện rộng nhưng với mức
sống của đại bộ phận nước ta hiện nay, chúng ta chỉ có thể đánh thuế với
mức thu nhập từ một mức độ nào đó trở lên, đồng nghĩa với việc sẽ có những
đối tượng nộp thuế nhưng mức thu nhập của họ không thuộc diện chịu thuế.
12
Thế nhưng, Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành, tuy đã quy định về những
loại thu nhập phải chịu thuế khá hợp lý như đã phân tích ở trên, nhưng trong
bảng thuế suất được áp dụng đối với thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương,
tiền công vẫn còn quá rắc rối và khó hiểu với cách đánh thuế vừa lũy tiến
toàn phần, vừa lũy tiến từng phần:
Bậc
thuế
1
2
3
4
5
6
7
Phần thu nhập tính thuế/
năm (triệu đồng)
Đến 60
Trên 60 đến 120
Trên 120 đến 216
Trên 216 đến 384
Trên 384 đến 624
Trên 624 đến 960
Trên 960
Phần thu nhập tính
thuế/ tháng (triệu đồng)
Đến 5
Trên 5 đến 10
Trên 10 đến 18
Trên 18 đến 32
Trên 32 đến 52
Trên 52 đến 80
Trên 80
Thuế suất
5
10
15
20
25
30
35
Điều này đang dẫn đến thực trạng là khiến cho người nộp thuế thuộc diện có
thu nhập phải chịu thuế hiện tại đa phần vẫn còn khá lơ mơ, chưa hiểu rõ
luật, gây khó khăn trong khâu thu thuế.
Thứ ba: Luật Thuế thu nhập cá nhân vẫn "nặng" về thu đồng đều, chưa đánh
vào đối tượng thu nhập cao để đảm bảo tiết giảm tiêu dùng xa xỉ, đảm bảo công
bằng xã hội và đảm bảo tăng thu ngân sách. Những quy định về đối tượng chịu
thuế chưa đánh đúng đối tượng có thu nhập cao thực sự và vẫn nặng thu bình
quân của những người ăn lương nhà nước và những người có sổ lương. Thế còn
những người có thu nhập cao khác chưa được bao quát hết như: thu nhập cao do
hoa hồng, hoặc những khoản không trình bày trong sổ sách thì vẫn bị bỏ trống.
Năm 2010, nhập khẩu hàng xa xỉ là 10 tỷ USD, trong bối cảnh nhập siêu là 12
tỷ USD. Rõ ràng đang xuất hiện tầng lớp có thu nhập rất cao, đối tượng này
chưa được đưa vào diện quản lý một cách thực sự.
Thứ tư: Có ý kiến cho rằng: Thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng bất động
sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi;
13
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột
với nhau không thuộc loại thu nhập phải chịu thuế theo quy định tại khoản 1
Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 trong một mức độ nào đó tạo ra sự
không công bằng giữa các chủ thể trong mối quan hệ với nhà nước. Mọi cá
nhân có quyền như nhau thì phải có nghĩa vụ với nhà nước như nhau và như
vậy quy định này làm cho Luật thuế thu nhập cá nhân không còn là công cụ
đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập một cách có hiệu quả.
Trước những bất cập còn tồn tại như trên, xét thấy Luật thu nhập cá
nhân 2007 cũng đã đến lúc cần phải có những phương hướng hoàn thiện
để phù hợp hơn với tình hình thực tế:
Đầu tiên: Cụ thể thì hiện nay, Bộ Tài Chính đang đang hoàn tất phương án miễn
giảm thuế thu nhập cá nhân để trình Chính phủ. Theo đề xuất của Bộ Tài chính
3 đối tượng sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân, gồm người có thu nhập dưới 5
triệu đồng một tháng và không nuôi người phụ thuộc. Trường hợp thứ 2 được
miễn là cá nhân có thu nhập dưới 6,6 triệu đồng và nuôi một người phụ thuộc.
Đối tượng thứ 3 được miễn thuế là người có thu nhập dưới 8,2 triệu đồng một
tháng và nuôi 2 người phụ thuộc. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng đề xuất sửa
đổi một số điểm bất hợp lý trong biểu thuế bậc thang như giãn khoảng cách giữa
các bậc thuế. Đồng thời, cơ quan này cũng đề nghị miễn thuế suất 5% đối với cổ
tức và miễn thuế 0,1% trên giá trị giao dịch đối với đầu tư chứng khoán. Theo
phân tích của Bộ Tài chính, trong tình hình thị trường chứng khoán ảm đạm như
hiện nay thì mức thuế 5% đối với cổ tức là quá cao. Mặt khác, trong khi các nhà
đầu tư chứng khoán phải nộp thuế từ tiền cổ tức thì tiền lãi từ việc gửi tiết kiệm
(bao gồm gửi tiền đồng, vàng hay ngoại tệ) được miễn thuế thu nhập là không
công bằng đối với nhà đầu tư chứng khoán.
Thứ hai: Trước việc tăng lương tối thiểu lên 830.000 đồng một tháng từ tháng
5/2011, cùng với việc từ tháng 11/2010 khi giá cả nhiều mặt hàng có xu hướng
nhích dần lên, thiết nghĩ cũng đã đến lúc mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá
14
nhân cũng cần được chỉnh sửa lại cho phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay.
Có ý kiến cho rằng nên quy định mức khởi điểm thuế theo mức lương tối thiểu
để sau này cơ quan thuế áp dụng sẽ rất "mềm", chỉ cần nhân với mức lương tối
thiểu và số lần qui định trong Luật thì sẽ ra được mức chịu thuế cụ thể từng thời
điểm.
Thứ ba: Không chỉ dừng lại ở việc cần có những chỉnh sửa về mức khởi điểm
chịu thuế mà chúng ta cũng cần có những bổ sung mới trong luật để có thể điều
chỉnh, đánh thuế cả những đối tượng thực sự có thu nhập cao nhưng luật vẫn
chưa có điều chỉnh đến như trong phần thực trạng đã đề cập ở trên.
Thứ tư: Việc quy định về nhiều mức tiền lương phải chịu những mức thuế suất
khác nhau đương nhiên là một quy định hợp lý của pháp luật. Thế nhưng với
cách tính thuế vừa lũy tiến toàn phần, vừa lũy tiến từng phần như hiện nay
đang gây ra những khó khăn không chỉ cho những người nộp thuế mà còn
cho cả những chủ thể khác trong quan hệ pháp luật thuế thu nhập cá nhân,
do đó, luật cũng cần có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn.
C)
KẾT LUẬN:
Thuế thu nhập cá nhân như đã nói ở trên, đây là loại thuế trực thu. Khác với
thuế gián thu như thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng,… khi mà người
gánh chịu thuế là khách hàng nhưng người nộp thuế lại là người bán hàng,
người nhập khẩu, còn thuế trực thu là thuế mà người có nghĩa vụ nộp thuế
thường đồng thời là người gánh chịu thuế. Do đó, tuy thuế trực thu thường
gây ra phải ứng rất gay gắt trong xã hội nhưng lại góp phần rất lớn trong
việc đảm bảo sự công bằng trong việc điều tiết thu nhập thặng dư của người
nộp thuế thông qua những quy định cụ thể về đối tượng nộp thuế.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
Giáo trình Luật thuế Việt Nam - NXB Công an nhân dân 2010.
Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 và văn bản hướng dẫn thi hành
– NXB Chính trị quốc gia.
/> /> />abId/66/dnnprintmode/true/Default.aspx?SkinSrc=[G]Skins
%2F_default%2FNo+Skin&ContainerSrc=[G]Containers%2F_default
%2FNo+Container
6.
HTTP://WWW.THANHNIEN.COM.VN/PAGES/20110304/LUAT-THUE-
7.
THU-NHAP-CA-NHAN-CO-THE-SUA-NGAY-TRONG-NAM-2011.ASPX
/>
8.
nhan-Cuoi-nam-2012-trinh-Quoc-hoi.html
/>
16