Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.75 KB, 16 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU
Trong tố tụng hình sự, sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất
cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, người bào
chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giam, bị can, bị cáo. Qua đó sự tham gia của người bào chữa
cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn, không để
bị can, bị cáo bị buộc tội oan sai. Xuất phát từ vai trò quan trọng của người
bào chữa nên em chọn đề tài: “ Địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố
tụng hình sự” để phân tích làm rõ.
Trong quá trình làm bài không tránh khỏi những thiếu sót do nhận thức
còn những hạn chế nhất định, vì vậy em rất mong các thầy giáo, cô giáo tạo
điều kiện đóng góp ý kiến cho em đề hoàn thiện hơn nữa bài viết!
B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI BÀO CHỮA VÀ ĐỊA VỊ PHÁP
LÝ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA.
1. khái niệm địa vị pháp lý của người bào chữa
* Địa vị pháp lí: Địa vị pháp lý là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà
pháp luật quy định cho một chủ thể pháp luật; tạo điều kiện cho chủ thể đó có
khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
* Người bào chữa:Theo từ điển giải thích luật học thì: Người bào chữa
là người tham gia tố tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị can, bị cáo. Nếu hiểu theo một nghĩa thông thường và rộng hơn thì: Người
bào chữa là người dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho đương sự thuộc
một vụ án hình sự hay dân sự…, hoặc bào chữa cho đương sự đó đang bị lên
án.
Người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích
liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa chỉ là người tham gia tố
tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người bào chữa. “Người
tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một hoạt động
1




chung, do các chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành. Hơn nữa, người
bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước và không
được sử dụng quyền lực nhà nước để tiến hành tố tụng.
Hiện nay, vẫn chưa có được một định nghĩa thống nhất về người bào
chữa. Dựa trên các quy định của pháp luật ta có thể hiểu người bào chữa như
sau: Người bào chữa là người được cơ quan tiến hành tố tụng chứng nhận,
tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự
thật của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.(trường
Đại học Luật, giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, tr 135)
* Địa vị pháp lý của người bào chữa: từ cách hiểu như trên về người
bào chữa và địa vị pháp lý, ta có thể hiểu địa vị pháp lí của người bào chữa:
Địa vị pháp lí của người bào chữa là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ
mà pháp luật quy định cho người bào chữa, tạo cho người bào chữa có khả
năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia quan hệ pháp luật.
Như vậy, trong tố tụng hình sự người bào chữa là người tham gia tố
tụng, thực hiện chức năng bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Để
đảm bảo cho người bào chữa thực hiện chức năng của mình Bộ luật tố tụng
hình sự (BLTTHS) quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa. Tất cả các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành địa vị pháp lí của người bào
chữa trong tố tụng hình sự.
2. Phân loại người bào chữa
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003 thì người bào
chữa có thể là:
- luật sư;
- người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
- Bào chữa viên nhân dân.

Thứ nhất, Luật sư: Là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định
của pháp luật tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ
2


quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp
luật. Hoạt động bào chữa của Luật sư là hoạt động có tính chất chuyên
nghiệp. đây là đội ngũ chính tham gia bào chữa trong TTHS.
Hiện nay, Luật luật sư điều chỉnh các quan hệ pháp luật cụ thể về luật
sư, theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 Luật luật sư thì: luật sư phải đáp ứng
được các yêu cầu: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã
được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức
khoẻ bảo đảm…” và khi muốn hành nghề luật sư thì phải “có Chứng chỉ hành
nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư”.
Thứ hai, Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo: Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ
hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
Ngoài ra theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn có các chủ thể
khác là đại diện hợp pháp như: bố nuôi, mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em
ruột và những người khác theo quy định của pháp luật đối với những trường
hợp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về thể chất hoặc tinh thần. Người địa diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong
tố tụng hình sự.
Thứ ba, Bào chữa viên nhân dân: Bào chữa viên nhân dân có thể là
người được Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt
trận tổ quốc cử để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người của
tổ chức mình.

Như vậy, theo quy định khi tham gia tố tụng thì: luật sư; bào chữa viên
nhân dân; và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là
một chủ thể tư pháp có các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định chung
cho người bào chữa.

3


II. ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA THEO PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH.
1. Quyền của người bào chữa
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định quyền của người bảo chữa
một cách khá chi tiết và chặt chẽ hơn so với các quy định của pháp luật trước
đây. Điều này đã khiến cho quyền lợi của người bào chữa được mở rộng và
đảm bảo tốt hơn trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Khoản 2 điều 58
BLTTHS 2003 đã quy định một cách khá chi tiết các quyền mà người bào
chữa khi tham gia tố tụng hình sự:
Thứ nhất, Người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lấy khai của người
bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người
bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác và có quyền
xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết
định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa. Quy định này nhằm tạo
điều kiện cho người bào chữa thực hiện đúng chức năng của mình là làm sáng
tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị
cáo; góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội
tránh oan sai.
Thứ hai, Người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước
về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can. Cũng
như quy định ở trên quy định quyền này của người bào chữa nhằm tạo điều
kiện cho người bào chữa có thể chủ động hơn trong việc có mặt khi lấy lời

khai của người bị tạm giữ, bị can...
Thứ ba, Theo điều 43 và điểm c khoản 2 Điều 58 BLTTHS thì :người
bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo Điều 42 BLTTHS về những trường
hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, và nếu xét thấy việc
những người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không
tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.

4


Thứ tư, Người bào chữa có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân
thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật
công tác.
Muốn bào chữa tốt được cho thân chủ của mình người bào chữa không
nên chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được vì
làm như vậy sẽ bị ảnh hưởng của kết quả điều tra mà cơ quan điều tra đã đưa
ra hoặc kết luận. Vì vậy, người bào chữa phải có quyền tự mình đi thu thập tài
liệu, đồ vật, đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các quyền khác của
người bào chữa; chẳng hạn như: quyền gặp bị can bị cáo, sau khi gặp và có
mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết thêm được những tình tiết
mới hoặc bị can, bị cáo yêu cầu người bào chữa tìm giúp những nhân chứng,
vật chứng (tài liệu, đồ vật) mà có thể cung cấp những tình tiết có lợi cho bị
can, bị cáo.
Thứ năm, Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu
cầu như triệu tập thêm nguời làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy

điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố
tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa.
Thứ sáu, Người bào chữa có quyền gặp người bị tạm giữ, gặp bị can,
bị cáo đang bị tạm giam. Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi
tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các
tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lí, tâm tư, nguyện
vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập
được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho họ.
Thứ bảy, Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi
chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến người bào
chữa. Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội
5


dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội đối với người được bào
chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia
tranh tụng tại phiên tòa.
Thứ tám, Người bào chữa có quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên
tòa. Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa thể hiện rõ nét nhất.
Người bào chữa có quyền tranh luận dân chủ trước tòa án ( Điều 19 BLTTHS
2003) để bảo vệ quyền và lợi ích của thân chủ. Tại phiên tòa: người bào chữa
có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có
được có những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận người
bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lí lẽ để bảo vệ bị cáo và bác
bỏ những lời buộc tội đối với bị cáo. Ngoài ra, khi tham gia phiên tòa, người
bào chữa còn có quyền xem xét vật chứng, tài liệu liên quan đến vụ án
(Khoản 4 Điều 209 BLTTHS năm 2003).
Thứ chín, Người bào chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố
tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quyền này đảm
bảo cho các hoạt động tố tụng được khách quan và toàn diện nhằm bảo vệ

thân chủ cũng như sự tuân thủ quy định của pháp luật với mọi đối tượng. Về
thời hạn cơ quan có thẩm quyền phải giải quyết các khiếu nại tại các điều 329,
330, 331, 332 của BLTTHS năm 2003, theo đó thì: Thời hạn giải quyết khiếu
nại của cơ quan có thẩm quyền cùng cấp là không quá 7 ngày, cơ quan có
thẩm quyền cấp trên trực tiếp là không quá 15 ngày. Đối với khiếu nại kiểu
này thì về nguyên tắc phải xem xét giải quyết ngay. Trong trường hợp phải có
thời gian để xác minh thêm thì thời hạn giải quyết không được quá 3 ngày.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết và tiếp tục khiếu nại thì thời hạn giải
quyết lần cuối cùng là không quá 7 ngày.
Thứ mười, Người bào chữa còn có quyền kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ
luật này. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng

6


cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp của
bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
2. Nghĩa vụ của người bào chữa
Tương ứng với những quyền mà người bào chữa có được theo quy định
của BLTTHS năm 2003 thì theo khoản 3 Điều 58 BLTTHS năm 2003 người
bào chữa có những nghĩa vụ sau:
Một là, Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ
những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên
quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào
chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại

Điều 95 của Bộ luật này.
Hai là, Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Ba là, Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo mà mình đã đăm nhận bào chữa, nếu không có lí do chính đáng.
Bốn là, Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng
ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
Năm là, Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
Sáu là, Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực
hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong
hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan tổ chức và cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ vi
phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật

7


3. Những điểm mới trong các quy định về địa vị pháp lí của người
bào chữa theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự 1988 thì địa vị pháp lý của người bào
chữa được quy định tại Điều 36. Nhưng khi bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
ra đời thì địa vị pháp lý của người bào chữa đã được ghi nhận một cách đầy
đủ và toàn diện nhất. Theo đó một số quy định mới về quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa trong BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988 được
thể hiện:
Thứ nhất, về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa BLTTHS
năm 2003 đã quy định thêm thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng ngay

từ khi có quyết định tạm giữ: “ Trong trường hợp bắt người khẩn cấp; bắt
người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố
tụng từ khi có quyết định tạm giữ.” Đây là một bước phát triển mới trong luật
TTHS. Để đồng bộ với quy định về thời điểm tham gia tố tụng, BLTTHS năm
2003 cũng ghi nhận thêm tại khoản 2, điểm a, Điều 58: “ Người bào chữa
được quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, và nếu Điều tra viên
đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt
động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia
của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”
việc quy định như vậy sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn tổng quát về vụ án,
biết được và thu thập được những chứng cứ, lí luận chứng minh cho sự vô tội
hoặc giảm nhẹ tội của thân chủ, kiểm tra giúp thân chủ của mình xem trong
biên bản lời khai có chỗ nào sơ hở, thiếu chặt chẽ hoặc bất lợi cho bị can mà
sau này cơ quan điều tra có thể sử dụng để buộc tội...để yêu cầu thân chủ khai
lại, giải thích lại hoặc đính chính lại những đoạn trong biên bản đó tránh tình
trạng sau này khi đã có chữ kí xác nhận rồi thì đó đã được coi là chứng cứ.
Thứ hai, BLTTHS năm 2003 đã kế thừa BLTTHS năm 1988 đồng thời
bổ sung thêm các quyền: người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan điều tra
báo trước về thời gian địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can
( khoản 2, điểm b, Điều 58). Tiếp đó là những quy định mới về quyền thu
8


thập tài liệu đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm
giam, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan,
tổ chức, các nhân theo yêu cầu của người bị tạm giam, bị can, bị cáo nếu
không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. BLTTHS năm 2003 đã tiếp thu
nhiều ý kiến đóng góp và có quy định hoàn toàn mới so với BLTTHS năm
1988 về quyền của người bào chữa ở điểm d, đ khoản 2 Điều 58 như trên, đã
quy định về phạm vi, cách thức thu thập tài liệu, đồ vật và tình tiết liên quan

đến việc bào chữa của người bào chữa.
Thứ ba, Trong quá trình tham gia bào chữa cho người bị tạm giam, bị
can, bị cáo, khi thấy cần thiết người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu. Mặc dù nội dung quyền này không thay đổi nhiều so với BLTTHS
năm 1988, nhưng BLTTHS năm 2003 tiến bộ hơn BLTTHS năm 1988 khi
quy định những đảm bảo cho quyền này của người bào chữa được thực hiện,
đó là quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải trả lời
cho người bào chữa biết về việc giải quyết những yêu cầu của người bào
chữa: “ Cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình,
giải quyết yêu cầu của người bào chữa báo cho họ biết kết quả. Trong trường
hợp không chấp nhận yêu cầu của cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát phải
trả lời và nêu rõ lí do.Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của cơ quan
điều tra hoặc viện kiếm sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại...”
(BLTTHS năm 2003, Điều 122)
Thứ tư, Sau khi kết thúc điều tra, người bào chữa có quyền đọc, ghi
chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào
chữa. Việc quy định thêm quyền sao chụp những tài liệu hồ sơ vụ án sau khi
kết thúc điều tra, làm cho quyền nghiên cứu hồ sơ của người bào chữa được
thực tế hơn, phù hợp với thông lệ của pháp luật các nước trên thế giới.
Thứ năm, Quyền tham hỏi và tranh luận tại phiên tòa của người bào
chữa được BLTTHS năm 2003 ké thừa và phát triển hơn BLTTHS năm 1988
nhờ các thay đổi trong các điều luật quy định về tranh luận, xét hỏi, đối đáp
tại phiên tòa ( Điều 209, 217, 218, 222 BLTTHS năm 2003).
9


Thứ sáu, khi tham gia phiên tòa BLTTHS 2003 đã quy định người bào
chữa có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ở đây, BLTTHS năm 2003 đã quy định thêm
việc khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố

tụng.
Thứ bảy, Cùng với việc sửa đổi bổ sung về quyền của người bào chữa,
nghĩa vụ của người bào chữa cũng có một số điểm mới được quy định tại
khoản 3 và 4 Điều 58 BLTTHS năm 2003 so với những quy định tại khoản 3
Điều 36 của BLTTHS năm 1988: Tùy theo mỗi gia đoạn tố tụng, khi thu thập
được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, Người bào chữa có trách nhiệm giao
cho cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ
vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên
bản theo quy định của BLTTHS; Người bào chữa có nghĩa vụ tôn trọng sự
thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
Đây là quy định đã giải tỏa được một số quan điểm hiện này vẫn còn
đang thắc mắc là: Mục đích của người bào chữa là bảo vệ thân chủ của mình
có mâu thuẫn với việc tuân thủ pháp luật bảo vệ pháp chế hay không? Điều
luật quy định như vậy đã giải quyết được vấn đề trên, tức là người bào chữa
tham gia bào chữa cho thân chủ của mình nhưng phải có nghĩa vụ tôn trọng
pháp luật, tôn trọng sự thật ( Trích: Địa vị pháp lí của người bào chữa, luận
văn tốt nghiệp, Đỗ Đình Nghĩa). Nhìn chung, Nghĩa vụ của người bào chữa
được BLTTHS năm 2003 bổ xung và làm rõ hơn các nghĩa vụ mà người bào
chữa phải thực hiện ở quy định của bộ luật năm 1988.
4. Ý nghĩa về địa vị pháp lí của người bào chữa.
* Ý nghĩa pháp lí: Về mặt pháp lý việc quy định quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa có một ý nghĩa rất quan trọng, với những biểu hiện cụ thể sau:
Thứ nhất, Sự tham gia tố tụng của người bào chữa có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, bằng kinh
nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình người bào chữa tham gia vào
10


quá trình giải quyết vụ án để giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị tạm

giữ, bị can bị cáo. Qua đó sự tham gia của người bào chữa cũng góp phần vào
việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn, không để bị can, bị cáo bị
buộc tội oan sai.
Thứ hai, việc quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của của quá trình tiến hành tố tụng. Đảm bảo
cho các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể có thẩm quyền phải thực
hiện đúng đắn các quy định của pháp luật. Với tư cách là người bảo vệ lợi ích
chính đáng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người bào chữa tìm các chứng
cứ, chứng minh nhằm gỡ tội, giảm tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đó.
Đồng thời, cũng giám sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng và các chủ thể có quyền.
Thứ ba, Việc quy định địa vị pháp lí của người bào chữa sẽ đảm bảo
được tính công khai minh bạch trong các quá trình của thủ tục tiến hành tố
tụng. Dựa vào các quyền mà pháp luật trao cho người bào chữa trong quá tình
tố tụng từ khi khởi tố vụ án, hay trong các trường hợp bắt người cho đến khi
thi hành án...người bào chữa tham gia vào qua trình đó sẽ khiến cho các tình
tiết vụ án được công khai và minh bạch...
* Ý nghĩa chính trị xã hôi: Quy định địa vị pháp lí của người bào chữa
trong tố tụng hình sự sẽ là cơ sở đảm bảo cho sự công bằng xã hội chủ nghĩa.
Việc quy định địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự
thể hiện sự tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả các quyền cơ
bản của công dân trong lĩnh vực tư pháp, một lĩnh vực mà từ xưa đến nay bất
kỳ một quốc gia nào cũng phải thừa nhận là vô cùng quan trọng của đời sống
xã hội. Quy định địa vị pháp lí của người bào chữa trong TTHS tạo điều kiện
để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể gián tiếp bảo vệ quyền và lợi ích của
mình.
III. THỰC TRẠNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BÀO
CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

11



Hiện nay trên thực tế trường hợp bị cáo phản cung với lý do bị bức
cung, ép mớm, nhục hình… là vấn đề rất bức xúc trong các phiên tòa ở Việt
Nam , làm giảm uy tín của cơ quan điều tra, truy tố. Chủ tọa cắt không cho họ
nói thì bị xem là mất dân chủ, không khách quan... Sở dĩ có tình trạng trên
một phần là do Bộ luật tố tụng chưa có quy định cơ chế cứng tạo điều kiện
cho người bào chữa tham gia từ giai đoạn điều tra, có mặt tại các buổi hỏi
cung bị can. Hầu hết quá trình điều tra người bào chữa chỉ được tham gia một
vài buổi lấy lệ, đa số các buổi hỏi cung khác không có mặt của người bào
chữa. Về nguyên tắc, khi người bào chữa tham gia đã được cấp giấy chứng
nhận người bào chữa và có văn bản đề nghị được tham gia tất cả các buổi hỏi
cung và các hoạt động điều tra khác thì những hoạt động này bắt buộc phải có
người bào chữa mới có giá trị pháp lý. Nhưng thực tế Bộ luật TTHS hiện
hành có quy định rất mâu thuẫn và tạo ra những rào cản.
Ví dụ: Người bào chữa muốn hỏi bị can phải được điều tra viên đồng ý.
Phiên tòa xét xử trẻ vị thành niên không có người bào chữa thì phải hoãn, bản
án tuyên trong điều kiện đó thì phải hủy, nhưng bản cung buộc tội ghi lời khai
của bị can vị thành niên vắng mặt người bào chữa(mặc dù Điều 305 BLTTHS
quy định cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa) nhưng họ
không thực hiện hoặc tìm cách bảo bị can viết đơn từ chối người bào chữa
trong khi họ chưa hề thực hiện điều luật là chỉ định người bào chữa thì bản
hỏi cung lại được chấp nhận là hợp pháp, Bản kết luận điều tra và Bản cáo
trạng vẫn có giá trị pháp lý buộc tội. Thiết nghĩ đây là lỗ hổng lớn mà chúng
ta cần phải quan tâm và sửa đổi.
BLTTHS quy định cho phép luật sư sử dụng các biện pháp nhằm làm
sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhưng thực tiễn còn nhiều hạn chế liên quan
đến việc tham gia của luật sư như luật sư không được quyền có mặt chứng
kiến việc khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, thu giữ vật chứng,
định giá hoặc bán đấu giá tài sản thu giữ trong vụ án... Như vậy, việc bào

chữa của luật sư đôi lúc sẽ không đạt chất lượng cao.

12


Việc xét, cấp giấy chứng nhận người bào chữa chưa được đảm bảo theo
quy định. Quy trình, thủ tục hành chính khi đề nghị và xem xét chưa được
quy định cụ thể và rõ ràng. Quy định về các loại giấy tờ, tài liệu có trong hồ
sơ đề nghị người bào chữa để cơ quan tiến hành tố tụng có thể xét giấy chứng
nhận hiện chưa cụ thể và thực hiện thiếu thống nhất trên thực tế.
Người bào chữa chưa thực sự phát huy hết được vai trò của mình trong
việc bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Khi tham gia tranh tụng tại
phiên tòa, người bào chữa gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện quyền
bào chữa của mình. Ví dụ: Khi tham gia tranh tụng, người bào chữa có thể bị
chủ tọa phiên tòa hạn chế về mặt thời gian; Tại phiên tòa, người bào chữa
được Hội đồng xét xử tạo điều kiện khi trình bày ý kiến nhưng sau đó Hội
đồng xét xử lại không chấp nhận ý kiến của người bào chữa mà không nêu lý
do không chấp nhận.
Ở Việt Nam chúng ta, vai trò của luật sư nói riêng và người bào chữa
nói chung tại phiên tòa còn chưa được coi trọng đúng mức, nếu luật sư trình
bày mà chủ tọa không nghe thì cũng không có cơ chế nào bảo vệ. Và dương
như ở nước ta là án tại hồ sơ?
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÍ
CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Từ thực trạng của pháp luật quy định về địa vị pháp lí của người bào
chữa và thực trạng áp dụng các quy định này hiện nay. Em đưa ra một số ý
kiến cá nhân nhằm có thể nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa trong
giai đoạn hiện nay như sau:
Thứ nhất, bổ sung vào điểm a Điều 58 BLTTHS quy định :Đối với
những người bào chữa tham gia theo quy định của điểm b khoản 2 Điều 57

Bộ luật này thì có quyền có mặt trong tất cả các buổi hỏi cung bị can. Theo
đó thì sự tham gia của người bào chữa trong các buổi hỏi cung bị can là rất
cần thiết và hợp lí.
Thứ hai, tại điểm e của Điều 58 BLTTHS có quy định quyền gặp
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam của người bào chữa thì em
13


cho rằng ở đây cần quy định rõ là được gặp riêng và không bị hạn chế về số
lượng lần gặp và thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được
gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng
chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp.
Thứ ba, Ngoài những giải pháp nói trên thì chúng ta cũng cần phải xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ người bào chữa có trình độ pháp lý phù hợp
với vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Phát triển đội ngũ người
bào chữa là luật sư. Đồng thời, tăng cường Phổ biến tuyên truyền pháp luật
giúp người dân hiểu được các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố
tụng để họ hiểu được quyền được bào chữa của mình, từ đó người bào chữa sẽ
được mời tham gia tố tụng nhiều hơn và có thể nâng cao kinh nghiệm cho
người bào chữa. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi hơn về vai trò của người bào
chữa trong tố tụng hình sự nhằm nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa
trong giai đoạn hiện nay.
C. KẾT LUẬN
Qua việc phân tích địa vị pháp lý của người bào chữa, chúng ta nhận
thấy bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã quy định người bào chữa bao gồm: có thể
là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào
chữa viên nhân dân, họ đều có quyền và nghĩa vụ chung của người bào chữa.
Bên cạnh những ưu điểm mà quy định pháp luật tố tụng hình sự mang lại cho
người bào chữa thì trong thực tế áp dụng vẫn còn những hạn chế nhất định,
đặc biệt là vai trò của luật sư khi tham gia bào chữa cũng như việc chuẩn bị

các tài liệu chứng cứ cần thiết để tranh tụng tại phiên tào còn nhiều điểm cần
phải có những quy định cụ thể hơn nữa để tạo điều kiện tốt nhất cho luật sư
nói riêng cũng như người bào chữa nói chung bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
thân chủ, bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật.

14


D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng Hình sự 2003
2. Bộ luật tố tụng hình sự 1988.
3. Luật luật sư năm 2006.
4. Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự : Khoá luận tốt
nghiệp / Văn Hoàng Anh; Người hướng dẫn: PGS. TS. Hoàng Thị Minh SơnHà Nội, 2010
5. Đặc san về BLTTHS 2003, thạc sỹ Nguyễn ngọc Khánh, những điểm mới
trong các quy định về người bào chữa của bộ luật tố tụng hình sự 2003(tạp chí
luật học);
6. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.
7. Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005
8. Nguồn internet.

; ….

15


MỤC LỤC
A.

A.LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................1

16



×