Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.27 KB, 13 trang )

T

huế là công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế
và huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Một trong những yêu cầu
quan trọng trong tổ chức thực thi chính sách thuế là phải thu đúng, thu đủ và
đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế. Chấp hành tốt nghĩa vụ nộp thuế
nhằm đảm bảo cân đối ngân sách quốc gia, cũng như đảm bảo tính công bằng giữa các
đối tượng nộp thuế 1. Trong bản giao hưởng của nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng
hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá giữa các
quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia độc lập có chủ quyền đều sử dụng
một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước
mình. Thuế này được gọi chung là thuế quan (Custom duty). Trong điều kiện nền kinh
tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa thì pháp luật của các nước về thuế
quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi
toàn thế giới. Thuế quan ở Việt Nam có tên gọi là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ở
bài học kì lần này, tôi xin tập trung khai thác đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm
thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu”.

1. Khái quát pháp luật thuế nhập khẩu 2
1.1. Khái niệm
ét trên phương diện kinh tế, pháp luật thuế nhập khẩu được hiểu là những
quy định pháp luật về các khoản tiền đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá
nhân vào ngân sách nhà nước khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa qua
biên giới một nước.
Xét về phương diện pháp lý, pháp luật thuế nhập khẩu là toàn bộ môi trường
pháp lý bao quanh quan hệ phát sinh giữa nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá
nhân (người nộp thuế), về việc tạo lập và duy trì các địa vị pháp lý (quyền và nghĩa
vụ) cho các bên trong quá trình thu thuế nhập khẩu.

X



Xem website: />Thuế nhập khẩu là một loại thuế mà một quốc gia hay vùng lãnh thổ đánh vào hàng hóa có nguồn gốc
từ nước ngoài trong quá trình nhập khẩu. Khi phương tiện vận tải (tàu thủy, máy bay, phương tiện vận tải
đường bộ hay đường sắt) đến cửa khẩu biên giới (cảng hàng không quốc tế, cảng sông quốc tế hay cảng biển
quốc tế, cửa khẩu biên giới bộ) thì các công chức hải quan sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa so với khai báo
trong tờ khai hải quan đồng thời tính số thuế nhập khẩu phải thu theo các công thức tính thuế nhập khẩu đã
quy định trước. Về mặt nguyên tắc, thuế nhập khẩu phải được nộp trước khi thông quan để nhà nhập khẩu có
thể đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa, trừ khi có các chính sách ân hạn thuế hay có bảo
lãnh nộp thuế, nên đây có thể coi là một trong những loại thuế dễ thu nhất, và chi phí để thu thuế nhập khẩu
là khá nhỏ.
1
2

1


1.2. Cơ sở hình thành pháp luật thuế nhập khẩu
Thứ nhất, về lịch sử pháp luật nhập khẩu
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được nhà nước ta ban hành vào năm 1951, thời
điểm này thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng
quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị tạm chiếm,
bảo vệ và phát triễn kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại hàng hoá là nhu
yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phương châm đấu tranh kinh tế với địch
là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết cho kháng
chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, nhà nước miễn thuế xuất khẩu cho tất cả
các loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng
địch. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30 % trở lên.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước ta ban
hành ngày 29/12/1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có sự phân biệt trong áp dụng

chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch khác. Luật
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội
thông qua ngày 5/7/1993. Luật này được Quốc hội thông qua ngày 20/5/1998 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999.
Ngày 14/6/2005, Quốc hội thông qua Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Luật
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành có phạm vi điều chỉnh rộng. Theo đó, Nhà
nước thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không phân biệt tính chất hàng hoá là xuất
khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch.
Thứ hai, về cơ sở lý luận
Việc xây dựng pháp luật thuế nhập khẩu sẽ là đòn bẩy để thực hiện có hiệu quả
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng ổn định, công khai, minh bạch, không
phân biệt đối xử; bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách đồng bộ hệ thống chính sách
thuế, một mặt khuyến khích phát triển sản xuất và xuất khẩu, bảo hộ hợp lý, có điều
kiện, có chọn lọc phù hợp với tiến trình hội nhập; mặt khác, góp phần ổn định nguồn
thu cho ngân sách nhà nước. Xây dựng pháp luật thuế nhập khẩu cũng là sự đòi hỏi
phù hợp của quá trình vận động và phát triển khách quan, dần từng bước hoàn thiện và
bổ sung những quy định chưa phù hợp với điều kiện hội nhập, chưa đồng bộ với pháp
luật hiện hành và chưa đề cao được vai trò quản lý của Nhà nước trong chống gian lận
thương mại, chống thất thu thuế.
2


2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu
2.1. Các yếu tố về kinh tế
hững chồi non kinh tế nảy mầm trên cái hạt xã hội theo sự vận động tự
nhiên. Sự phát triển của nền kinh tế tự cung tự cấp không còn giữ vai trò độc
quyền và đơn cực như trong các thời kì kinh tế trước. Xã hội phát triển kéo
theo đó là sự khởi sắc của những gam màu trong bức tranh kinh tế. Dòng chảy của nền

kinh tế hàng hóa- kinh tế thị trường bắt buộc các chủ thể kinh tế phải thích nghi và tồn
tại. Các chủ thể kinh tế này có điều kiện tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp với môi trường
thương mại hóa. Quy luật cung- cầu cũng như quy luật cạnh tranh đã tác động tích cực
đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, việc cung cấp hàng hóa trong nước vẫn chưa đáp ứng
được quá trình sản xuất cũng như tiêu dùng. Chính vì lẽ đó mà đòi hỏi các chủ thể
kinh tế, dưới sự điều chỉnh của nhà nước cần thiết lập quan hệ thương mại đối với
nước ngoài. Các hoạt động thương mại không còn gò bó trong khuôn khổ của lãnh thổ
quốc gia mà đã bứt phá để hòa nhập chung với quỹ đạo của nền kinh tế hàng hóa. Các
chủ thể này sẽ nhập khẩu các hàng hóa thiết yếu từ nước ngoài vào trong nước để bán
cho người tiêu dùng. Trước tình hình và nhu cầu kinh tế như vậy, đòi hỏi pháp luật
phải tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc điều chỉnh về vẫn đề nhập khẩu. Pháp
luật thuế nhập khẩu có được thực thi một cách trọn vẹn và đầy đủ hay không sẽ phụ
thuộc vào tần số các hoạt động thương mại nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ qua biên giới
quốc gia. Đây là một trong những nhân tố cơ bản và quan trọng nhất để nhà nước để
có thể thực thi pháp luật thuế nhập khẩu.

N

2.2. Các yếu tố về pháp luật
ể thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu, các văn bản thuế nhập khẩu phải đặt
trong mối quan hệ với luật quản lý thuế nhập khẩu và hệ thống các chính
sách chính trị- kinh tế- xã hội. Việc bạn hành các văn bản pháp luật điều
chỉnh về lĩnh vực chính trị- kinh tế- xã hội và các chính sách kinh tế- xã hội sẽ góp
phần chi phối toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu. Hệ
thống hóa các ngành luật và thiết lập mối quan hệ giữa các chuyên ngành pháp luật
với nhau sẽ giúp cơ chế thực thi pháp luật được bền vững và hiệu quả. Pháp luật thuế
nhập khẩu không thể tồn tại độc lập mà phải đặt trong mối tương quan với các thiết
chế pháp luật tương ứng. Tạo dựng một hàng rào thuế quan đồng bộ khi đưa pháp luật
thuế nhập khẩu vào đời sống kinh tế- xã hội.


Đ

3


Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh dưới hình thức pháp lý các quan hệ xã
hội, một sự phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã hội. Để phát huy được vai trò, tác
dụng của mình trong đời sống xã hội, pháp luật phải là sự hiện thực hóa và dự kiến
hóa thế giới khách quan theo quy luật vận động chung của kết cấu cơ sở hạ tầng cũng
như kiến trúc thượng tầng. Nguyên tắc pháp chế và các nguyên tắc pháp luật khác
mang tính bổ trợ, một mặt sẽ định khung tư tưởng pháp luật thuế nhập khẩu, mặt khác
tạo dựng cơ chế pháp lý phù hợp để pháp luật thuế nhập khẩu phát huy được hiệu quả
khi áp dụng trên thực tế.
2.3. Các yếu tố về xã hội
iệc trao đổi các hàng hóa, dịch vụ qua biên giới nó không còn là hoạt động
thương mại xa lạ đối với đời sống hàng ngày. Nhu cầu và thói quen thương
mại không còn bị thắt chặt trong lĩnh vực kinh tế mà đã được xã hội hóa theo
các hình thức tập quán thương mại. Việc chấp hành tốt các tập quán thương mại mang
tính chất xã hội này sẽ là những viên đá đặt chân đầu tiên giúp viêc thực thi pháp luật
thuế nhập khẩu được ổn định, thống nhất và bền vững. Hơn nữa, lợi ích xã hội và các
thiết chế xã hội tương ứng sẽ có tác động ít nhiều đối với việc thực thi pháp luật thuế
nhập khẩu. Lợi ích xã hội hoặc sẽ thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hoặc sẽ đẩy hoạt
động nhập khẩu đến bờ vực của sự trì trệ. Các thiết chế xã hội như thiết chế chính trị,
thiết chế đạo đức, thiết chế tập quán, phong tục và thiết chế tôn giáo khi đã được ý
thức và hệ thống hóa sẽ giúp quá trình áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu được nghiêm
chỉnh, giảm bớt các hành vi vi phạm pháp luật quản lý thuế nhập khẩu. Việc đề cao sử
dụng đồ nội và sự bảo thủ trong thói quen kinh tế sẽ là tác nhân làm thui chột mầm
mống phát triển của hoạt động nhập khẩu, từ đó pháp luật thuế ban hành ra sẽ mất đi
những ý nghĩa trong đời sống kinh tế.


V

2.4. Các yếu tố mang tính chất ngoại giao và thông thương quốc tế
ằm trong dòng chảy chung của nền kinh tế thị trường, quốc gia không thể
tồn tại một cách độc lập mà luôn luôn có quan hệ đối với các chủ thể của tư
pháp cũng như công pháp quốc tế trên, đặc biệt là trên góc độ kinh tếthương mại. Việc hoạt động thương mại không chỉ phù hợp với pháp luật quốc gia mà
còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế. Đặc biệt là hoạt động mua bán hàng hóa, dịch
vụ qua biên giới. Muốn thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu thì bản thân pháp luật
này phải nằm trong sự điều chỉnh và thống nhất với tư pháp quốc tế và công pháp
quốc tế. Việc mua bán, trao đổi hàng hóa dịch vụ qua biên giới phải có sự cho phép

N

4


của các quốc gia và đặt dưới khuôn khổ mà pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế đã
ghi nhận. Sự chấp thuận và đồng ý của trong các quan hệ ngoại giao sẽ là chất xúc tác
quan trọng giúp pháp luật thuế có triển vọng được thực thi tốt theo lộ trình đặt ra 3.
Ngược lại, sự quy định quá khắt khe hoặc chính trị hóa các vấn đề kinh tế về nhập
khẩu sẽ là áp lực khiến pháp luật thuế nhập khẩu của Việt Nam thiếu tính khả thi và sẽ
không áp dụng được thống nhất trên thực tế. Do đó, đây cũng là yếu tố vô cùng quan
trọng tác động đến việc thi hành pháp luật thuế nhập khẩu.
2.5. Các yếu tố về con người
on người là một trong những nhân tố quan trọng quyết định trực tiếp việc
thực thi pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế nhập khẩu nói chung. Các
chủ thể thu thuế phải thực hiện tốt nghiệp vụ, chức năng của mình trong quá
trình thu thuế, kiểm tra giám sát các hoạt động thuế quan. Trình độ năng lực của các
cán bộ thuế cũng là nhân tố tác động đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu. Hơn
nữa, các chủ thể có thẩm quyền khi thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật thuế và pháp

luật quản lý thuế nhập khẩu sẽ giảm bớt các hành vi tham nhũng và ngăn ngừa các vi
phạm pháp luật.
Các chủ thể nộp thuế là các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế- thương mại liên
quan tới nhập khẩu. Do đó, các chủ thể nộp thuế có ý thức và chấp hành tốt pháp luật
thuế nhập khẩu sẽ giảm bớt các hành vi vi phạm và giảm thiểu được sự thất thoát
nguồn thu ngân sách nhà nước, tạo công bằng xã hội.
Bên cạnh đó cũng có các chủ thể không tham gia vào quan hệ pháp luật thuế
nhập khẩu nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc phát giác, tố cáo các hành vi vi
phạm đến pháp luật thuế này, giúp cơ chế quản lý thuế nhập khẩu thêm minh bạch.

C

3. Một số vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 về cơ bản đã xây dựng phù hợp
với những nguyên tắc và định chế pháp luật kinh tế quốc tế, góp phần thúc đẩy quan
trọng trong việc phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại và những yêu cầu về nguồn thu
3

Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng của ngân
sách nhà nước. Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết và thực hiện các cam kết về thương mại quốc tế.
trong đó có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu dẫn đến hàng hóa nhập khẩu tăng cạnh tranh với các
sản phẩm hàng hóa trong nước. Kết quả là kích thích tiêu dùng, từ đó thu được nhiều loại thuế khác như thuế
giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt. Các nước thành viên khác cũng phải cắt
giảm thuế quan từ đó dẫn đến việc kích thích các nước khác tăng hàng xuất khẩu dẫn đến tăng thu ngân sách
từ các hàng xuất khẩu sang các nước thành viên đó. Như vậy, việc cắt giảm thuế nhập khẩu có thể tăng
nguồn thu ngân sách, cũng có thể giảm nguồn thu ngân sách, do đó phải có sự tính toán kỹ lưỡng hợp lý khi
áp dụng pháp luật thuế này.

5



ngân sách nhà nước. Luật đã có những quy định về đối tượng không chịu Thuế nhập
khẩu và miễn thuế, về giá trị Hải quan, kiểm tra Hải quan, tạo cán cân pháp lý bình
đẳng cho các hàng hóa nhập khẩu vào nước ta. Bên cạnh đó, Luật Hải quan năm 2005
cũng là công cụ pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật nhâp khẩu.
Bên cạnh những ưu điểm và thành tựu đạt được ở trên, quá trình thi hành pháp
luật thuế còn rất nhiều vướng mắc trên các phương diện:
Thứ nhất, về các quy định của pháp luật
Có nhiều quy định còn chưa thống nhất và gây khó hiểu như “Thuế suất thông
thường được quy định không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng
tương ứng do Chính phủ quy định” (điểm c) khoản 2 Điều 10 Luật Thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu năm 2005) điều này làm cho người đọc dễ hiểu là thuế suất thông
thường chỉ nhỏ hơn hoặc bằng 70% thuế suất ưu đãi. Nghị định số 87/2010/NĐ-CP
quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì cũng có
những quy định còn hạn chế. Chẳng hạn, đồng tiền nộp thuế chỉ là đồng Việt Nam
hoặc là ngoại tệ tự do chuyển đổi được sự cho phép của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam. Việc quy định này mặc dù tạo ra sự thống nhất trong việc kê khai ngân sách nhà
nước, tuy nhiên mô hình chung nó đã hạn chế các phương thức thanh toán hữu hiệu
khác trong nền kinh tế hiện đại. Hơn nữa, PHỤ LỤC II quy định về Danh mục các
nhóm trang thiết bị chỉ được miễn thuế thu nhập lần đầu ban hành kèm Nghị định số
87/2010/NĐ-CP lại không đưa ra tiêu chí xác định trang thiết bị như thế nào thì được
miễn thuế lần đầu mà chỉ liệt kê chung chung theo lĩnh vực.
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 hiện nay chỉ mang tính chất luật
khung, quy định những điểm cơ bản và tổng quát nhất về hoạt động thu nộp thuế nhập
khẩu, còn những vấn đề quan trọng và nhạy cảm như thuế suất, giá tính thuế,… lại
được quy định chi tiết trong các văn bản dưới luật với giá trị pháp lý chưa cao, thiếu
tính ổn định. Từ sự thiếu đồng bộ và tính thống nhất, ổn định của hệ thống pháp luật
dễ dẫn đến tâm lý lo lắng của các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư vào thị
trường Việt Nam.
Thứ hai, về năng lực chủ thể thu thuế và ý thức của đối tượng nộp thuế

Công tác kiểm tra, quản lý của cơ quan hải quan đóng vai trò rất quan trọng
trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu hiện nay. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ hải
quan nước ta hiện nay còn yếu kém nên không kiểm soát được hết hàng buôn lậu. Hơn

6


nữa, các chủ thể thu thuế đang dần có xu hướng đồng lõa với đối tượng nộp thuế để
thu lợi bất chính.
Từ thực tiễn đấu tranh phòng chống các hành vi và các vụ án trốn thuế trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm đã phát hiện nhiều thủ
đoạn trốn thuế của các đối tượng. Phổ biến là việc mua chuộc, hối lộ cán bộ Hải quan
làm nhiệm vụ tại các cửa khẩu để nhập lậu số lượng lớn hàng hóa vào nội địa hoặc để
xuất hàng ra nước ngoài. Hàng hóa xuất nhập khẩu đều được đóng gói bao bọc kín,
nhất là hiện nay việc giao hàng bằng container là phổ biến, hàng hóa được kiểm hóa
tại doanh nghiệp, nhiều đối tượng đã đánh tráo hàng để nhập, xuất lậu các mặt hàng bị
cấm hoặc bị đánh thuế cao.
Trên đường biển, các tàu biển nước ngoài vận chuyển hàng nội địa nhưng đưa
lẫn nhiều hàng ngoại nhập lậu hoặc hàng khác chủng loại cho phép vào Việt Nam. Đối
với đường hàng không, đường bưu điện, các đối tượng nhập lậu các mặt hàng có thuế
suất cao dưới dạng quà biếu hoặc hàng “xách tay” để trốn thuế xuất nhập khẩu. Các
đối tượng thay đổi bao bì, nhãn mác hàng hóa, thay đổi cấu kiện máy móc để hưởng
thuế suất thấp hoặc gian lận khi ghi số khung, số máy, năm sản xuất xe ôtô để đưa ôtô
cấm nhập khẩu vào Việt Nam. Ngoài ra, là hành vi lập bộ hồ sơ khai báo Hải quan giả
hoặc cố ý thiếu, sai lệch một số yếu tố, ghi chung chung, không rõ ràng 4. Lợi dụng
các chính sách pháp luật và ưu đãi về thuế của Nhà nước ta, nhiều đối tượng và doanh
nghiệp đã tìm cách trốn thuế. Như lợi dụng ưu đãi về thời hạn nộp thuế, các cá nhân
và tổ chức đã cố tình nợ đọng kéo dài, chây ỳ, chiếm dụng thuế rồi bỏ trốn hoặc chỉ
thực hiện một vài hợp đồng nhập khẩu rồi giải thể doanh nghiệp hoặc chuyển sang
lĩnh vực khác; Trốn thuế qua việc khai sai xuất xứ hàng hóa, xuất trình giấy xuất xứ

giả, không đúng xuất xứ hàng hóa để được áp mã số thuế thấp hơn để trốn thuế nhập
khẩu; Trốn thuế qua chính sách hàng đổi hàng hoặc việc kinh doanh hàng tạm nhập tái
xuất, kinh doanh hàng miễn thuế, kho ngoại quan.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lợi dụng việc góp vốn liên doanh
bằng vật tư, thiết bị máy móc để tạo tài sản cố định đã đưa thêm vật tư thiết bị, máy
móc vào Việt Nam rồi bán ra thị trường nội địa để trốn thuế nhập khẩu. Các doanh
nghiệp cũng thường kê khai nguyên phụ liệu nhập khẩu để gia công hàng cho nước

4

Ví dụ: Hợp đồng ngoại thương trình bản sao không có bản gốc, tên hàng, mã hàng, khai không khớp với
thực tế, bộ chứng từ thiếu một số yếu tố để xác định giá tính thuế nhằm có lợi cho doanh nghiệp hoặc thông
đồng với đối tác nước ngoài khai thấp giá trị hàng nhập khẩu để trốn thuế nhập khẩu. Các đối tượng cũng
thông đồng với cán bộ giám định hàng hóa xuất nhập khẩu để kê khai hàng hóa nhập khẩu không đúng với
thực tế như xe mới thành xe cũ, xe không hỏng thành xe hỏng, phụ tùng mới thành đã qua sử dụng...

7


ngoài và sản xuất hàng xuất khẩu cao hơn thực tế tiêu hao đều tạo ra dư thừa nguyên
liệu bán ở thị trường trong nước nhằm trốn thuế 5.
Thứ ba, bối cảnh xã hội
Sự biến động của nền kinh tế thế giới cũng tạo ra sự bất ổn trong việc thực hiện
công tác thu nộp thuế nhập khẩu. Khi bức tranh kinh tế có những gam màu suy thoái,
nó sẽ gây ra hiệu ứng đô- mi- nô đối với nền kinh tế. Bất ổn trong thời kì khan hiếm
hàng hóa nhập khẩu sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực đến nền kinh tế quốc dân.
Các hoạt động nhập khẩu sẽ bị trì trệ và có nguy cơ thúc đẩy lạm phát. Hơn nữa, sự
căng thẳng quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và một số nước, trong đó có Trung
Quốc, sẽ làm tình hình nhập khẩu từ các thị trường này giảm sút. Từ đó, xuất hiện
nhiều hành vi buôn lậu, vi phạm đến pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng và pháp luật

nói chung.
4. Các ý kiến pháp lý
4.1. Giải pháp vĩ mô
Thứ nhất, đồng bộ hóa pháp luật thuế nhập khẩu
Đồng bộ hóa pháp luật thuế nhập khẩu là việc thống nhất các quy định của pháp luật
thuế này sao cho cụ thể, chi tiết, phù hợp với quy luật khách quan và có tính khả thi
cao. Việc đồng bộ hóa này không chỉ diễn ra trong một hệ thống, mà phải đặt nó trong
mối quan hệ với các ngạch thuế khác. Việc đồng bộ hóa các quy định pháp luật về
thuế nhập khẩu và luật quản lý thuế nhập khẩu là cách kết hợp thấu đáo giữa nội dung
và hình thức của pháp luật này. Khi xem xét, đánh giá việc thi hành pháp luật thuế
nhập khẩu cần xem xét nó trong mỗi quan hệ tương hỗ với các ngành luật.
Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế điều chỉnh về pháp luật thuế nhập khẩu và
phát triển bền vững
Để đảm bảo hài hòa giữa các yêu cầu về phát triển kinh tế- xã hội, bên cạnh nỗ
lực của chính phủ cần phải huy động được các nguồn lực tổng hợp trong nước, sự tài
trợ của các tổ chức quốc tế song phương và đa phương cho các hoạt động nhập khẩu.
Các hiệp định, điều ước quốc tế sẽ là điểm tựa pháp lý vững chắc để cán cân thương
mại xuất- nhập khẩu giữa các quốc gia được cân đối và nằm trong một trật tự phát
triển. Bản thân Việt Nam là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn kinh tế Thái Bình Dương
5

/>
8


(APEC),… đây cũng là cơ hội và thách thức của Việt Nam khi xác lập các quan hệ
ngoại giao liên quan tới hoạt động kinh tế thương mại xuất- nhập khẩu.
4.2. Giải pháp vi mô


T

Nhóm các giải pháp về pháp luật thuế nhập khẩu
hứ nhất, pháp luật thuế nhập khẩu phải xây dựng một hàng rào bảo hộ thuế
quan hợp lý

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải cắt giảm thuế quan, do đó cần
tiếp tục hoàn thiện các quy định về thuế nhập khẩu để tự vệ, thuế chống bán phá giá,
thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử để đảm bảo lợi ích của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Thứ hai, thu hẹp diện miễn thuế, giảm thuế
Để phát huy mạnh mẽ tác động của thuế nhập khẩu đến sự tăng trưởng kinh tế,
đảm bảo công bằng xã hội thì thời gian gần tới cần tiếp tục đơn giản hóa luật thuế theo
hướng giảm dần các mức thuế suất và các điều khoản miễn giảm thuế nhằm thực hiện
các chính sách xã hội. Chuyển dần các chính sách về ưu tiên xã hội đã được lồng ghép
trong luật thuế sang thực hiện thông qua chi ngân sách để đảm bảo tính trung lập của
thuế. Như vậy xét từ quyền lợi của những người được hưởng chính sách ưu đãi về
thuế sẽ không thay đổi bởi thay vì được hưởng những quyền lợi từ miễn giảm thuế, họ
sẽ được nhận trợ cấp thông qua chi ngân sách nhà nước.
Thứ ba, thống nhất cách áp dụng thuế suất
Những quy định về huế suất cần đơn giản và minh bạch hóa biểu thuế nhập
khẩu. Cần giảm bớt các mức thuế suất, đơn giản hóa biểu thuế cả về số lượng, mức
thuế suất, khoảng cách giữa các mức thuế suất để đảm bảo cho biểu thuế đơn giản, dễ
hiểu, dễ thực hiện và hiệu quả. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 cho
phép thuế suất giao động ở mức 100%- 170% thuế ưu đãi. Tuy nhiên, Bộ Tài chính lại
quy định áp dụng thống nhất ở mức 150% thuế suất ưu đãi, từ đó đã tạo ra độ vênh
pháp lý giữa các quy định pháp luật thuế nhập khẩu. Cần có những quy định cụ thể
trường hợp nào áp dụng thuế suất thông thường, trường hợp nào áp dụng thuế suất đặc
biệt để tránh sự giáo điều cứng nhắc hoặc tùy nghi áp dụng trong các trường hợp thu
nộp thuế.


9


Thứ tư, nội luật hóa các quy định của điều ước quốc tế
Tiếp tục nội luật hóa các quy định của điều ước quốc tế mà phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tận tâm và thiện chí thực hiện các cam kết
quốc tế điều chỉnh về thuế nhập khẩu mà Việt Nam đã kí kết hoặc gia nhập, từ đó sẽ
tạo sự phát triển hợp lý và cân đối theo xu hướng hội nhập hiện nay.
Nhóm các giải pháp về quản lý thuế nhập khẩu
Thứ nhất, luật hóa các nội dung của luật quản lý thuế nhập khẩu
Luật hóa các thủ tục hành chính về thuế nhập khẩu, thẩm quyền và thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế nhập khẩu, thủ tục cưỡng chế thuế một
cách cụ thể, rõ ràng để nâng cao tính pháp lý và đảm bảo sự thống nhất, đồng thời xây
dựng luật quản lý thuế trong đó phải quy định rõ nghĩa vụ, quyền hạn của người nộp
thuế; trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan hải quan; trách nhiệm, quyền hạn của các tổ
chức và cá nhân khác có liên quan trong quản lý thuế nhập khẩu.
Thứ hai, tạo điều kiện cho công tác quản lý thuế nhập khẩu
Nhà nước cần tăng cường hiện đại hóa cơ sở vật chất cho ngành hải quan. Đẩy
mạnh quá trình tin học hóa các quá trình quản lý thu thuế nhập khẩu. Đầu tư những
phương tiện kĩ thuật hiện đại để giám định chất lượng kĩ thuật hàng hóa. Xuất phát từ
trình độ năng lực của một vài bộ phận hải quan còn nhiều hạn chế, do vậy nhà nước
cần có cơ chế đào tạo và tuyển dụng phù hợp, trau dồi tinh thần pháp luật cũng như tư
tưởng đạo đức đối với những cán bộ, công chức hải quan.
Thứ ba, chống gian lận thuế nhập khẩu trong nước
Việc chống gian lận thương mại trước tiên cần có cơ chế quản lý thuế nhập
khẩu một cách đồng bộ và chặt chẽ. Việc phổ biến pháp luật và sử dụng các thiết chế
xã hội tương ứng cũng là một trong những chìa khóa mở ra ý thức chấp hành tốt của
các chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế này. Đối với các hành vi vi phạm pháp luật
thuế nhập khẩu cần ghi nhận rõ ràng chế tài áp dụng đối với hành vi gian lận và chậm

thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Đối với cơ quan hải quan, pháp luật thuế nhập khẩu cần
quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn trong việc đấu tranh, phát hiện kịp thời các
hành vi gian lận thuế. Với những hành vi sai phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm

10


hình sự theo quy định của pháp luật hình sự thì cơ quan quản lý thuế nhập khẩu phải
chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để điều tra, khởi tố, xét xử theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự 6.
Để tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại nhập khẩu, Chính phủ đã có chính
sách ân hạn thuế, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp vàcác nhà đầu tư. Lợi dụng chính sách
ưu đãi của Chính phủ, nhiều doanh nghiệp đã chậm thực hiện nghĩa vụ nên dẫn đến
tình trạng gây thất thu cho nguồn ngân sách nhà nước. Để khắc phục tình trạng lợi
dụng chính sách thuế nhập khẩu, một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản,
Anh,…không cho nợ thuế đối với hàng nhập khẩu. Một số nước khác vẫn cho phép nợ
thuế, nhưng người nộp thuế phải có sự bảo lãnh của tổ chức tín dụng để bảo đảm việc
thu hồi tiền thuế cũng như tiền lãi chậm nộp. Việc bảo lãnh nợ thuế là một trong
những giải pháp hiệu quả nhằm giảm tình trạng thất thu thuế nhập khẩu hiện nay. Do
đó, Việt Nam cũng có thể áp dụng giải pháp này.
Thứ tư, hợp tác quốc tế trong việc phòng chống gian lận thuế nhập khẩu
Trong xu thế mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập hiện nay, hoạt
động buôn bán trốn lậu thuế không chỉ dừng lại trong phạm vi một nước mà đã mở
rộng ra nhiều nước. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế các nước để
ngăn chặn, hạn chế được tình trạng trốn lậu thuế. Những biện pháp chủ yếu cần quan
tâm là: Giữa các nước lân cận cần xây dựng các chế độ thường xuyên trao đổi tin tức
về hoạt động buôn bán qua lại, đặc biệt là tình hình trốn lậu thuế, cần bàn bạc thống
nhất về chế độ, thủ tục khai thuế, kiểm soát hàng xuất nhập khẩu. Cơ quan hải quan
cũng cần phối hợp với cơ quan ngoại giao để khai thác thêm về tình hình hoạt động
kinh doanh ở các nước khác và trao đổi thêm tài liệu, tin tức từ nơi đi và nơi đến để

hạn chế tình trạng lợi dụng các quyền ưu đãi ngoại giao để trốn lậu thuế hoặc để phát
hiện tổ chức buôn bán trốn lậu thuế qua các nước.

Về vấn đề này, pháp luật thuế nhập khẩu của các nước thường quy định xử phạt rất nghiêm khắc các trường
hợp dây dưa, nợ thuế, khai man trốn lậu thuế. Như pháp luật thuế của Cộng hòa Séc quy định: “Thuế nộp
không đúng hạn sẽ bị phạt 0.1%/ngày/số thuế phải nộp; không nộp tờ khai, nộp tờ khai thiếu sẽ tăng 105 số
thuế phải nộp, ngoài ra có thể sẽ bị xử hình sự từ 6-12 tháng tù” (theo báo cáo khảo sát thuế tại Cộng hòa
Sec của tổng cục thuế), pháp luật Thụy Điển quy định: “Trường hợp đối tượng nộp thuế lập tờ khai đã nộp
thiếu so với số thuế phải nộp, khi cơ quan thuế kiểm tra, phát hiện, họ phải nộp bổ sung số thuế thiếu, đồng
thời còn bị tính lãi trên số thuế nộp thiếu theo tỷ lệ 2%. Nếu kéo dài sẽ bị tính theo tỷ lệ 7% hoặc 9%” (theo
báo cáo khảo sát thuế tại Thụy Điển của tổng cục thuế)
6

11


T

oàn cầu hoá là một xu thế khách quan của sự phát triển, nó vừa thúc đẩy hợp
tác, vừa tăng tính cạnh tranh và tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Do đó quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng phát
triển theo chiều sâu và rộng về nhiều mặt.Do vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia phải giữ vững
độc lập tự chủ về kinh tế trong quá trình hội nhập. Hội nhập kinh tế, một mặt sẽ đem
lại những cơ hội phát triển, mặt khác cũng phải đương đầu với những thách thức đặt ra
từ đó. Trong điều kiện kinh tế đang phát triển của Việt Nam hiện nay, việc tăng cường
quản lý thu thuế nhập khẩu cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và mở cửa hội
nhập là một đòi hỏi khách quan. Công tác quản lý thu thuế nhập khẩu là một việc
phức tạp, bao trùm nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp do vậy đây
đang là vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hội nhập này.


12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005;
2. Luật Hải quan năm 2005;
3. Nghị định số 87/2010/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu;
4. Tổng quan thuế xuất nhập khẩu;
Website: www.dichvuxuatnhapkhau.vn;
5. Đề cương giới thiệu Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu;
Website: www.viboline.com.vn;
6. Bài tập nhóm tháng 2;
Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu và ý kiến pháp lý của nhóm nhằm
khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật thuế nhập khẩu;
N04. TL2- Nhóm 3;
Kì II- Khóa học 2011- 2012;
7. Bài tập học kì;
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở
Việt Nam hiện nay;
Chu Thanh Hằng- MSSV: 340845;
8. Website: wikipedia.org;
9. Xuất nhập khẩu của Việt Nam nửa đầu năm 2011 nhìn từ nhiều góc độ;
Website: www.vietrade.gov.vn;
10.Nhìn lại quá trình hội nhập KTQT của Việt Nam những năm qua và triển
vọng;
Website: www.vysajp.org;
11.Lật tẩy những thủ đoạn trốn thuế xuất nhập khẩu
Website: www.vtca.vn;
12.“Đao" giá: Một hình thức trốn thuế;

Website: dddn.com.vn;
13.Doanh nghiệp nhập khẩu “lách luật” trốn thuế;
Website: baothanhhoa.vn.

13



×