Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích những yếu tố để ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trườngvề nêu ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện về khó khăn có thể gặp phải khi thực hiện Luật Thuế bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.52 KB, 16 trang )

S

inh ra và lớn lên trong chiếc nôi của người mẹ môi trường thiên nhiên, con
người có thái độ khác nhau thông qua những tác động đối vơi bà mẹ này. Bên
cạnh những hành động thiết thực góp phần giữ gìn và bảo vệ môi trường, con
người còn sử dụng những hàng hóa có tính gây ô nhiễm cao đối với môi trường. Nhằm
thực thi Luật bảo vệ môi trường có hiệu quả, một mặt tạo hành lang pháp lý cho việc
bảo vệ môi trường, mặt khác tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nhà nước đã ban
hành Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010. Vậy việc ban hành Luật Thuế bảo vệ môi
trường dựa trên những cơ sở và yếu tố nào? Những hạn chế khi thực hiện Luật này
trong đời sống thực tiễn? Chính vì lẽ đó, trong bài viết lần này, chúng tôi sẽ tập trung
khai thác đề tài: “Phân tích những yếu tố để ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường
về nêu ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện về khó khăn có thể gặp phải khi thực hiện
Luật Thuế bảo vệ môi trường”.

N

1. Khái quát sơ lược về Luật Thuế bảo vệ môi trường
gày 15/11/2010, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế bảo vệ môi trường. Luật
này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Thực hiện Luật thuế này để thực
thi các chính sách, tránh đánh thuế hai lần, tạo ra nguồn ngân sách tái đầu tư
vào môi trường, bảo vệ sinh thái đóng góp vào sự phát triển bền vững toàn cầu.
Theo đánh giá chung, những năm qua tình trạng ô nhiễm môi trường nước, không
khí, thoái hóa đất, tiếng ồn diễn ra khá nghiêm trọng tại nhiều địa phương. Thế nhưng
để hạn chế ô nhiễm các biện pháp đưa ra chỉ là tạm thời. Ở nhiều nơi, nhiều khu gây ô
nhiễm nghiêm trọng được kiến nghị nhiều lần, cơ quan chủ quản cũng tích cực khắc
phục nhưng việc cải thiện chưa đáng kể. Trong khi đó Nhà nước chỉ có chính sách thu
phí về môi trường mang tính tượng trưng, thiếu bền vững. Luật Thuế bảo vệ môi trường
ra đời là một sắc thuế để hoàn thiện chính sách, cải cách để hội nhập, nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường toàn xã hội, khuyến khích sử dụng năng lượng sạch. Quan trọng hơn
là tạo nguồn thu để khôi phục môi trường. Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 gồm


có 4 chương, trong đó những nội dung chính nằm chủ yếu ở 3 chương đầu.
Chương 1: Giải thích rõ những thuật ngữ pháp lý, thuật ngữ khoa học; bên cạnh
đó liệt kê những đối tượng chịu thuế- những đối tượng tác động tiêu cực tới môi trường,
sức khỏe con người và những đối tượng không chịu thuế. Ngoài ra, Luật này còn quy
định những chủ thể phải nộp thuế bảo vệ môi trường.
Chương 2: Quy định về căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế, biểu khung
thuế. Việc quy định những nội dung trên giúp tạo nên sự minh bạch rõ ràng trong việc
1


tính thuế bảo vệ môi trường, tạo nên sự hợp lý trong việc tính thuế đối với các đối
tượng chịu thuế khác nhau và góp phần ổn định thu ngân sách nhà nước.
Chương 3: Quy định về thời điểm tính thuế, khai thuế, nộp thuế và hoàn thuế.
Quy định thời điểm tính thuế riêng biệt cho từng loại hàng hóa để nhằm phù hợp với
đặc thù riêng của mỗi loại hàng hóa, thuận lợi cho quản lý thu thuế bảo vệ môi trường;
quy định khai thuế, tính thuế nộp thuế nhằm đảm bảo việc thực hiện luật này được
nhanh chóng, thuận tiện, tránh làm tăng chi phí trong việc tổ chức thực hiện luật này.
Như vậy Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 sẽ thay thế hoàn toàn các chính
sách cũ để áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ và đảm bảo thực thi chung trong
phạm vi toàn quốc, phù hợp với thông lệ quốc tế.
2. Cơ sở ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường
2.1. Cơ sở lý luận
ôi trường là toàn bộ điều kiện tự nhiên, nhân tạo bao quanh con người, tác
động đến đời sống, sự tồn tại và sự phát triển của con người và thiên nhiên.
Môi trường có vai trò đặc biệt quan trọng với đời sống con người: tạo cơ sở
vật chất để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; tạo cho con người phượng tiện sinh sống,
phát triển trí tuệ, đạo đức, tinh thần,… nên việc ban hành Luật Thuế bảo về môi trường
là điều vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ mục tiêu của Luật Thuế bảo vệ môi trường là nhằm nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường của toàn xã hội, động viên hợp lý sự đóng góp của xã hội và hạn chế

ảnh hưởng tiêu cực tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, việc thu thuế bảo vệ môi
trường có ý nghĩa rất quan trọng:

M

Thứ nhất, đối với môi trường
Luật Thuế bảo vệ môi trường góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản
phẩm gây ô nhiễm của các cá nhân, tổ chức, đồng thời khuyến khích sử dụng năng
lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực đến môi trường như thải các
chất khí CO2, SO2 khi sử dụng xăng, dầu, than, HCFC,... Từ đó, hướng tới nền kinh tế
phát triển bền vững, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. Thêm vào đó, với
khung thuế quy định tại Luật này, dự kiến số thu thuế bảo vệ môi trường sẽ tăng, tạo
nguồn thu đáng kể nhằm đầu tư cải tạo môi trường đang bị ô nhiễm.
Thứ hai, đối với nền kinh tế- xã hội
Cơ sở kinh tế- xã hội để ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trường là sự cần thiết
khách quan của việc đưa chi phí “gây ô nhiễm môi trường” (các yếu tố ngoại ứng) và
giá bán của hàng hóa. Luật Thuế bảo vệ môi trường sẽ giúp thực hiện nguyên tắc
2


“người gây ô nhiễm phải chi trả”. Từ đó, tạo cơ hội thúc đẩy các hoạt động kinh tế
cũng như phân bổ lại nguồn lực của nền kinh tế theo hướng tạo ra các “mức giá công
bằng và hiệu quả hơn” do phân phối lại chi phí, góp phần tăng thu ngân sách. Luật
Thuế bảo vệ môi trường làm tăng giá sản phẩm, hàng hóa. Từ đó có thể sử dụng thuế để
kích thích và điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường
hơn. Nếu đánh thuế bảo vệ môi trường mà giá nhiên liệu tăng thì điều này sẽ thúc đẩy
việc nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng mới. Điều đó có thể dẫn tới việc ra đời
của các công nghệ, chu trình và sản phẩm mới, giúp chuyển dịch nền kinh tế theo
hướng sử dụng có hiệu quả đối với các loại năng lượng và nguồn lực. Thu thuế bảo vệ
môi trường sẽ góp phần nâng cao nhận thức của cá nhân, tổ chức đối với môi trường.

Luật Thuế bảo vệ môi trường góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây
ô nhiễm; khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thay thế hoặc hạn chế tiêu
dùng sản phẩm (xăng, dầu, than…). Từ đó, tiết kiệm cá nhân, tiết kiệm xã hội, giảm ô
nhiễm môi trường, giảm chi phí xử lý ô nhiễm. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
trong đầu tư, sản xuất và tiêu dùng của các cá nhân, tổ chức; khuyến khích sử dụng
năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực của sản xuất, tiêu dùng
đến môi trường, giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Thứ ba, đối với ngân sách nhà nước
Việc thu thuế bảo về môi trường sẽ góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước. Việc có thêm ngân sách nhà nước sẽ là nguồn chi cho việc cải tạo môi trường.
2.2. Cơ sở khoa học- thực tiễn

3


C

ác loại xăng, dầu, mỡ nhờn, than đá khi bị đốt cháy sẽ thải ra CO2 (1), CO (2),
SO2 (3) NOx (4) (các loại khí nitrogen oxide),… với các hạt cacbon (bao gồm bụi
than (5), bồ hóng (6)) ra môi trường. Các loại hydrocarbon chưa cháy hết trong
buồng đốt động cơ sử dụng xăng, dầu, mỡ nhờn và bị thải ra (7) môi trường.
HCFC (Dung dịch hydro- chloro- fluoro- carbon) là tác nhân gây suy giảm tầng
ozon, tạo ra hiệu ứng nhà kính (8).
Thuốc diệt cỏ hạn chế sử dụng, bên cạnh những lợi ích, nó có tác hại khôn lường
đối với môi trường cũng như sinh vật xung quanh (9). Các loại thuốc diệt mối và thuốc
bảo quản lâm sản hạn chế sử dụng có tính không phân hủy. Dung dịch này sẽ bám trên
đồ vật, mấy tháng sau, khi mối ăn phải vẫn bị nhiễm độc. Các chất khử trùng kho có
tính khuếch tán trong không khí cao, dễ cháy, dễ phản ứng với nguồn nước và dễ ăn
mòn các kim loại hoạt tính. Nên khi sử dụng các loại thuốc này không đúng cách sẽ gây
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người.

Túi nilon được làm từ nhựa PTE không độc nhưng các chất phụ gia thêm vào để
làm túi ni lông mềm, dẻo, dai lại vô cùng độc hại. Nếu đựng đồ nóng bắt đầu từ 70-80
độ C thì những chất phụ sẽ có phản ứng phụ và gây độc đối với thực phẩm, nguy cơ cao
1()

Tác nhân gây ra sự nóng lên của trái đất, gây nguy cơ hiệu ứng nhà kính.
Ô xit cácbon (CO): là chất khí không màu, không thấy được, được tạo ra khi nhiên liệu chứa cácbon cháy
không hết – đe doạ nghiêm trọng đến sức khoẻ con người. Đặc biệt nguy hại với thai nhi và người mắc bệnh
tim. Do áp lực của Hêmôglobin trong máu đối với ôxit cácbon lớn hơn 200 lần so với ôxy, nên CO cản trở vận
chuyển ôxy từ máu vào tới các mô. Vì thế, để vận chuyển cùng một lượng ôxy cần thiết phải bơm máu nhiều
hơn.
3()
Độc tính chung của SO2 thể hiện ở rối loạn chuyển hóa protein và đường, thiếu vitamin B và C, ức chế
enzym oxydaza.
4()
Các loại khí Nitrogen oxide, như NO, NO2, tạo ra các đám sương màu cam bao phủ các đô thị lớn, và là tác
nhân chính gây mưa acid
5()
Bụi than: thành phần chủ yếu là hydrocacbon đa vòng (VD: 3,4-benzenpyrene), có độc tính cao, có khả năng
gây ung thư, phần lớn bụi than có kích thước lớn hơn 5 micromet bị các dịch nhầy ở các tuyến phế quản và các
lông giữ lại. Chỉ có các hạt bụi có kích thước nhỏ hơn 5 mm vào được phế nang.
6()
Gây cản trở hô hấp và là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư.
7()
Xem chi tiết tại:
8()
Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa trái đất với không gian xung quanh, dẫn
đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đất. Hiện tượng này diễn ra theo cơ chế tương tự như nhà kính
trồng cây.
2()


9()

Đối với người, khi được sử dụng không đúng cách, thuốc dệt cỏ sẽ gây nhiễm độc cấp tính: Bỏng mắt cấp
tính, hủy hoại da, ảnh hưởng thần kinh, gan. Khi bị nhiễm độc mãn tính sẽ ảnh hưởng đến tủy xương (thiếu máu
bất sản và loạn tạo máu); ảnh hưởng đến sinh sản (vô sinh ở nam, sảy thai, thai dị dạng...); gây độc thần kinh;
ảnh hưởng đến cơ chế miễn dịch... Cơ thể con người bị nhiễm độc thuốc diệt cỏ biểu hiện ở nhiều mức độ: giảm
sút sức khỏe, gây rối loạn các hoạt động ở hệ thần kinh, tim mạch, tiêu hóa hô hấp, bài tiết, gây các tổn thương
bệnh lý ở các cơ quan, hệ thống nói trên từ mức độ nhẹ tới nặng, thậm chí tàn phế hoặc tử vong. Đối với môi
trường xung quanh, thuốc diệt cỏ diệt cả những côn trùng và động vật hữu ích cho con người, có thể làm biến
đổi thế cân bằng tự nhiên của hệ sinh thái gây ô nhiễm đất, nước, không khí. Các diệt cỏ tồn dư lâu, không bị
phân hủy ở trong đất và trong nước có thể làm cho động vật, cây trồng sống ở đó bị nhiễm thuốc lâu dài, con
người ăn các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi bị nhiễm thuốc trừ sâu hằng ngày một cách gián tiếp, lâu ngày
sẽ có hại cho sức khỏe.
4


mắc các bệnh ung thư. Hơn nữa, túi nilon có thời gian phân hủy lâu, thậm chí là nghìn
năm, do đó sẽ gây ra ô nhiễm nguồn đất, tắc nghẽn các công trình thoát nước.
(Xem PHỤ LỤC 1 trang 11 bài viết này)
Các hàng hóa khi thuộc đối tượng chịu thế trên, khi đem vào sử dụng chúng sẽ
phát sinh ra các chất thải hoặc sẽ tương tác với môi trường gây ra các hậu quả nghiêm
trọng (10) (11) (12) (13).
2.3. Cơ sở pháp lý
hính sách bảo vệ môi trường đều được các nhà lập pháp của các quốc gia trên
thế giới quan tâm, được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế như Công
ước Viên về bảo vệ tầng ozon năm 1985, Nghị định thư Montreal năm 1987,
Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1992, Nghị định thư
Tokyo năm 1997 (hết hiệu lực vào năm 2012),… Vấn đề bảo vệ môi trường này cũng
được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, SĐBS năm 2001- văn bản pháp luật tối cao của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (14). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực
thi pháp luật bảo vệ môi trường thông qua hình thức thu thuế đối với các mặt hàng có
tính nguy hại cao đối với môi trường. Hơn nữa, vấn đề bảo vệ môi trường còn được
quốc hội ban hành thành một văn bản luật riêng, đó là Luật bảo vệ môi trường năm
2005 (15). Để chi tiết hóa việc thu thuế bảo vệ môi trường, cơ quan lập pháp đã ban hành
Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 và kèm theo hướng dẫn của Chính phủ trong

C
10()

Không khí ô nhiễm có thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người. Ô nhiễm ozone có thể gây bệnh
đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm họng, đau ngực, tức thở. Ô nhiễm nước gây ra xấp xỉ 14.000 cái chết mỗi
ngày, chủ yếu do ăn uống bằng nước bẩn chưa được xử lý. Các chất hóa học và kim loại nặng nhiễm trong thức
ăn nước uống có thể gây ung thư không thể chữa trị. Ô nhiễm môi trường còn làm thay đổi cơ bản hệ sinh thái,
có thể đẩy các loài ra miệng vực của sự tuyệt chủng.
11()
Xem thực trạng ô nhiễm không khí do sử dụng xăng, dầu, mỡ nhờn tại:
/>%C3%B4nhi%E1%BB%85mkh%C3%B4ngkh%C3%AD%C4%91%C3%B4th%E1%BB%8B%E1%BB%9FVi
%E1%BB%87tNam.aspx
12()

Xem tác hại của túi nilon tại: />
13()

Xem tác hại của thuốc diệt cỏ tại: />catid=341&subcatid=0&newsid=354&langid=0
14()

Điều 29 Hiến pháp 1992, SĐBS năm 2001 quy định: “Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường”.

15()

Điều 112 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 quy định:

1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh một số loại sản phẩm gây tác động xấu lâu dài
đến môi trường và sức khỏe con người thì phải nộp thuế môi trường.
2. Chính phủ trình Quốc hội quyết định danh mục, thuế suất đối với các sản phẩm, loại hình sản xuất,
kinh doanh phải chịu thuế môi trường.
5


Nghị định 67/2011/NĐ-CP về quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Thuế bảo vệ môi trường,...

V
T

3. Những khó khăn về thực hiện Luật Thuế bảo vệ môi trường
iệc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường là một việc làm vô cùng quan trọng và cấp thiết. Song vấn đề thực hiện
tốt Luật Thuế bảo vệ môi trường lại gặp phải nhiều khó khăn về nhiều mặt.

3.1. Về đối tượng chịu thuế
heo Điều 3 Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 quy định về đối tượng chịu
thuế bao gồm: xăng, dầu, mỡ nhờn (xăng, trừ etanol, nhiên liệu bay, dầu diesel,
dầu hỏa, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn); than đá (than nâu, than antraxit, than
mỡ, than đá khác); dung dịch HCFC; túi nilon thuộc diện chịu thuế; thuốc diệt cỏ thuộc
loại hạn chế sử dụng; thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng, thuốc bảo quản lâm sản
hạn chế sử dụng, thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng (16).
Nhìn chung những quy định đối với đối tượng chịu thuế này đều đánh vào các

mặt hàng thiết yếu, phục vụ đời sống tiêu dùng hàng ngày của người dân. Nên sẽ gây ra
khó khăn lớn trọng việc đảm bảo thực hiện thuế vì đánh thuế với các loại hàng này sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến giá bán, khả năng cạnh tranh của các loại hàng này. Nếu không
điều chỉnh một cách hợp lý sẽ gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế. Trong giai đoạn kinh
tế hội nhập như hiện nay nhiều quốc gia đang phát triển cũng chưa quan tâm đúng mức
đến thuế về môi trường, nên hàng hóa có chi phí thuế môi trường sẽ giảm khả năng
cạnh tranh so với hàng hóa có xuất xứ từ những quốc gia không thu thuế bảo vệ môi
trường. Nếu không chú ý đúng mức vấn đề này thì sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển
kinh tế.
Về việc đánh thuế bảo vệ môi trường là túi nilon thì được hướng dẫn tại khoản 3
Điều 2 Nghị Định số 67/2011/NĐ-CP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thuế bảo vệ môi trường như sau: “Đối với túi nilon thuộc diện chịu thuế (túi
nhựa) quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật thuế bảo vệ môi trường là loại túi, bao bì, nhựa
mỏng làm từ nhựa đơn HDPE (high density polythylene resin), LDPE (Low density
polythylene resin) hoặc LLDPE (Linear low density polythylene resin) trừ bao bì đóng
gói sẵn hàng hóa và nilon đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường theo quy định của
Bộ tài nguyên và môi trường”. Tuy nhiên, vướng mắc hiện nay là Bộ tài nguyên và môi
trường chưa có tiêu chí nào để xác định đâu là túi nilon thân thiện với môi trường. Hơn
16()

Xem PHỤ LỤC II trang 13 bài viết này hoặc phụ lục II Thông tư 36/2011/TT-BNNPTNT ngày 20/5/2011 về
việc ban hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng, cấm sử dụng ở Việt Nam
6


nữa, về nguyên tắc Bộ tài nguyên và môi trường lại không có thẩm quyền ban hành tiêu
chuẩn chất lượng mà là trách nhiệm của tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng thuộc
Bộ khoa học công nghệ. Chính vì lẽ đó, Luật này đã bộc lộ nhiều bất cập, gây lúng túng
cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế (17).
Thuế suất đối với than, than là sản phẩm gây ô nhiễm nặng khi sử dụng, giá bán

lại tăng song biên độ thuế suất đối với than được quy định trong Luật này từ 10.000 đến
50.000 đồng/tấn là còn thấp. Trong khi thuốc bảo quản lâm sản và thuốc khử trùng kho
thuộc loại hạn chế sử dụng được Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn quy định trong
Thông tư 36/2011/TT-BNNPTNT ngày 20/5/2011 về việc ban hành Danh mục thuốc
BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng, cấm sử dụng ở Việt Nam, thì các loại
thuốc diệt cỏ và thuốc diệt mối thuộc loại hạn chế sử dụng lại chưa được quy định cụ
thể, do đó, các doanh nghiệp kinh doanh mặt hang này vẫn ung dung lách luật.
Tóm lại, Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 quy định về đối tượng chịu thế
còn chưa đầy đủ, còn rất nhiều các mặt hàng khác gây ảnh hưởng xấu đến môi trường
nhưng lại chưa được quy định phải chịu thuế như: bình ắc quy, hóa chất tẩy rửa, thuốc
lá, lốp xe,… Đây cũng chính là khó khăn trong quá trình thi hành luật thuế môi trường
ở nước ta mà đòi hỏi các nhà làm luật và có quy định rõ ràng, chi tiết hơn về đối tượng
chịu thuế.

T

3.2. Đối tượng không chịu thuế
heo Điểm 2.4, Khoản 2, Điều 2 Thông tư 152/2011/TT-BTC hướng dẫn Nghị
định 67/2011/NĐ-CP ngày 08 tháng 08 năm 2011 của Chính phủ quy định về
đối tượng không chịu thuế: Hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài do cơ sở sản
xuất (bao gồm cả gia công) trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác cho cơ sở kinh doanh xuất
khẩu để xuất khẩu, trừ trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mua hàng hóa thuộc đối
17()

Các quy định trong các văn bản dưới luật đối với các sản phẩm túi nilon quá chung chung nên các doanh
nhiệp không nắm rõ đựơc dòng sản phẩm nào phải nộp thuế, dòng sản phẩm nào không phải nộp thuế trong
khi, mức áp thuế đối với tất cả các sản phẩm của Doanh phải chịu thuế suất 40.000 đồng/kg thành phẩm là quá
cao (tương đương giá bán trước khi áp dụng thuế bảo vệ môi trường). Trên thực tế với mức thuế hiện nay, các
doanh nghiệp đối tác đang tìm mọi cách “né” khoản nộp này, thuế cao thì mặc thuế cao, việc sử dụng túi nilon
hầu như không giảm. Và có thể lách luật thuế này bằng cách thay đổi tên đơn hàng trên hóa đơn, thậm chí

không cần xuất hóa đơn khi mua hàng. Bên cạnh đó, việc áp thuế lên tất cả các bao bì nhựa khiến nhiều doanh
nghiệp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh,nhiều khách hàng sử dụng sản phẩm túi nilon đã lựa
chọn sản phẩm khác, hoặc tìm nguồn khác từ nhập khẩu và thậm chí cắt đơn hàng với Doanh nghiệp sản xuất.
Từ khi Luật Thuế bảo vệ môi trường có hiệu lực đã làm chi phí bao gói tăng. Hiện các chi phí khác tiếp tục xu
hướng tăng giá, đã làm cho sản phẩm dệt may, da giày và thủy sản xuất khẩu của Việt Nam khó cạnh tranh.
Hơn thế nữa, các quy định trong Nghị định 67/2011/NĐ-CP và Thông tư 152/2011/TT-BTC quá chung chung.
Việc định nghĩa túi nilon bao gồm hầu hết ngành bao bì nhựa.
7


tượng chịu thuế bảo vệ môi trường để xuất khẩu. Như vậy, nếu các Doanh nghiệp, cơ
sở, cá nhân sản xuất túi nilon thuộc diện chịu thuế nhưng trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy
thác xuất khẩu ra nước ngoài mà không tiêu thụ trong nước thì không phải nộp thuế bảo
vệ môi trường.
Ngày 30/1/2012, Bộ Tài chính có công văn 1199/BTC-TCT hướng dẫn thực hiện
Thông tư 152/2011/TT-BTC, khẳng định: Các trường hợp hàng hóa nhập khẩu để gia
công sau đó xuất khẩu ra nước ngoài thì thuộc đối tượng không phải nộp thuế bảo vệ
môi trường. Nhưng đối với nhiều ngành hàng xuất khẩu (thủy sản, dệt may, da giày...)
thì túi PE, PA là loại vật tư không thể thiếu. Với quy định này, thì chỉ túi nilon nhập
khẩu để bao gói hàng xuất khẩu mới được xếp vào đối tượng không chịu thuế bảo vệ
môi trường. Còn túi nilon mua trong nước để bao gói hàng xuất khẩu không tiêu thụ tại
thị trường trong nước, không ảnh hưởng tới môi trường Việt Nam hoặc có thể xem như
hàng hóa xuất khẩu vẫn phải chịu thuế sẽ trở thành nghịch lý (18).
Theo quy định về đối tượng không chịu thuế tại Điều 4 Luật Thuế bảo vệ môi
trường năm 2010, chúng tôi nhận thấy một quy định bất hợp lý tại điểm c) khoản 2:
“Hàng hóa do cơ sở sản xuất trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác cho cơ sở kinh doanh
xuất khẩu để xuất khẩu, trừ trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mua hàng hóa
thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường để xuất khẩu”. Theo quan điểm của chúng
tôi thì trong quá trình sản xuất các loại hàng hóa sẽ thải ra môi trường các chất độc hại
làm ảnh hưởng xấu tới môi trường, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người dân vì

vậy chúng tôi cho rằng nên đánh thuế các mặt hàng, hàng hóa được sản xuất trên lãnh
thổ Việt Nam, không kể mục đích xuất khẩu hay không nhưng nếu có tác động xấu tới
môi trường thì đều phải chịu thuế thu nhập môi trường, đúng như theo tinh thần của
Luật bảo vệ môi trường năm 2005.

L

3.3. Về căn cứ tính thuế
uật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 quy định: căn cứ tính thuế bảo vệ môi
trường là số lượng hàng hóa tính thuế và mức thuế tuyệt đối (Điều 6); Mức thuế
tuyệt đối được quy định theo biểu khung thuế tại Điều 8 luật thuế bảo vệ môi
trường. Tuy nhiên áp dụng mức thuế tuyệt đối sẽ gây khó khăn cho công tác thực hiện
đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay thì giá cả leo thang và khó kiểm
soát nên khung tính thuế sẽ phải liên tục thay đổi. Vì vậy không nên quy định một các
cứng nhắc trong điều luật, điều này gây khó khăn cho công tác thi hành luật và thực

18()

Xem chi tiết tại: />8


hiện tốt Luật Thuế bảo vệ môi trường. Nên quy đổi ra tỉ lệ phần trăm % tính thuế thì
hợp lý hơn.
Một thực tiễn nữa ở nước ta cho thấy việc đánh thuế vào một số mặt hàng như
xăng dầu cần phải điều chỉnh lại. Giá xăng dầu những tháng cuối năm 2011 đầu năm
2012 lên xuống thất thường làm xáo trộn đời sống sản xuất của người dân. Mà xăng dầu
là mặt hàng nhạy cảm nên giá xăng dầu tăng cao cũng làm cho giá của nhiều dịch vụ
cũng tăng theo, dẫn đến lạm phát gây ra gánh nặng cho nền kinh tế. Hơn thế nữa, hiện
nay vẫn chưa tìm ra loại nhiên liệu thay thế cho xăng, dầu trong quá trình vận hành
động cơ, cho nên, việc đưa xăng, dầu vào đối tượng chịu thuế sẽ là một trong những

bước cản trở với nền kinh tế công nghiệp hóa- hiện đại hóa.

T

3.4. Về việc tuyên truyền và phổ biến pháp luật về luật thuế bảo vệ môi trường
rong những năm gần đây bức tranh kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, tuy
nhiên sự phát triển mạnh mẽ ấy lại khiến con người phải gánh chịu những hậu
quả kéo theo. “Phía sau miếng mồi ngon là một con cá chết”, đi liền với nền
kinh tế công nghiệp hóa là ô nhiễm môi trường, công nghiệp càng phát triển, các nhà
máy xí nghiệp càng nhiều thì môi trường càng ô nhiễm.
Hiện nay, song song với việc phát triển kinh tế, nước ta đã đề ra nhiều giải pháp
để khắc phục ô nhiễm môi trường. Từ đó Luật Thuế bảo vệ môi trường càng được quan
tâm, chú trọng- đây chính là công cụ điều chỉnh chỉnh các đối tượng phải chịu thuế hay
không phải chịu thuế nhằm hướng tới một đất nước phát triển toàn diện và thịnh vượng.
Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010 ban hành không phải với mục đích thu được
càng nhiều thuế càng tốt mà cái chính là thay đổi từ nhận thức đến hành vi của người
dân, để họ hướng tới tiêu dùng những sản phẩm ít độc hại cho môi trường. Tuy nhiên
thói quen cố hữu từ trước tới giờ của người dân một nước đang phát triển không dễ
dàng thay đổi trong một sớm một chiều, vì vậy cần nâng cao hơn nữa công tác tuyên
truyền vận động người dân thực hiện nghiêm chỉnh Luật Thuế bảo vệ môi trường với
khẩu hiệu: bảo vệ môi trường sống chính là bảo vệ sức khỏe mỗi người dân.
Tuy nhiên Luật này mới có hiệu lực và phổ biến nên người dân còn thấy mới mẻ
và với hiểu biết pháp luật hạn chế thì khó mà tiếp thu được nhanh chóng. Hơn nữa Luật
này cũng còn nhiều bất cập, chính vì vậy phải khắc phục dần những khiếm khuyết của
luật và đẩy mạnh tuyên truyền vận động người dân thực hiện đúng luật.
Hơn nữa Luật Thuế bảo vệ môi trường khi ban hành đã bộc lộ những khiếm
khuyết về giải thích thuật ngữ cũng như tính khả thi và tính dự báo. Do đó đã dẫn tới
việc Luật vừa ban hành, đã có nghị định hướng dẫn Luật, Thông tư hướng dẫn Nghị
9



định, Công văn hướng dẫn Thông tư, gây ra nhiều bất cập và không đồng nhất trong
pháp luật thuế bảo vệ môi trường.
Một số giải pháp để áp dụng có hiệu quả Luật Thuế bảo vệ môi trường
4.1. Các giải pháp vĩ mô
Thứ nhất, đồng bộ hóa pháp luật thuế về bảo vệ môi trường
Đồng bộ hóa pháp luật thuế về bảo vệ môi trường là việc thống nhất các quy định của
luật thuế này sao cho cụ thể, chi tiết, phù hợp với quy luật khách quan và có tính khả thi
cao. Việc đồng bộ hóa này không chỉ diễn ra trong một hệ thống, mà phải đặt nó trong
mối quan hệ với các ngạch thuế khác.
Thứ hai, tăng cường hợp tác quốc tế về thu thuế bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững
Để đảm bảo hài hòa giữa các yêu cầu về phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
nhằm phát triển bền vững, bên cạnh nỗ lực của chính phủ cần phải huy động được các
nguồn lực tổng hợp trong nước, sự tài trợ của các tổ chức quốc tế song phương và đa
phương cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Do vậy, để tăng cường hợp tác quốc tế về
bảo vệ môi tường một cách bền vững cần có các giải pháp về chính sách thuế quan bảo
vệ môi trường, được áp dụng thống nhất theo yêu cầu quốc tế đặt ra.
4.

4.2.

X

Các giải pháp vi mô

uất phát từ tình hình kinh tế- xã hội và những khiếm khuyết mà pháp luật thuế
bảo vệ môi trường đã mắc phải, để mục đích bảo vệ môi trường của Luật
Thuế bảo vệ môi trường đi vào đời sống thực tiễn thì nhà nước cần có những
chính sách phát triển công nghệ tìm ra những năng lượng, hàng hóa sạch thay thế các

hàng hóa có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao trong quá trình sử dụng. Vậy nên, đầu
tư vào phát triển ngành công nghệ năng lượng sạch, các hàng hóa đảm bảo tiêu chuẩn
sức khỏe và tiêu chuẩn môi trường sẽ là cơ sở quan trọng để người dân có thể hạn chế
sử dụng các loại hàng hóa mang tính gây ô nhiễm cao khi sử dụng này. Vai trò của cộng
đồng trong các hoạt động xã hội ngày càng rõ nét, đặc biệt trong hoạt động bảo vệ môi
trường. Để phát huy tối đa vai trò này, nhận thức của cộng đồng về vấn đề bảo vệ môi
trường phải được nâng cao thông qua việc cung cấp thông tin và cùng tham gia trong
các sự kiện, hoạt động xã hội bảo vệ môi trường. Cần phải kết hợp với các chế tài, xử lý
thật nặng những người có hành vi vi phạm pháp luật thuế về bảo vệ môi trường.

10


PHỤ LỤC I
ĐỐI TƯỢNG CHỊU THUẾ
Theo quy định của Luật Thuế bảo vệ môi trường đối tượng chịu thuế gồm 8
nhóm hàng hóa:
1. Xăng dầu
Đây là sản phẩm có chứa một số chất hóa học như chì, lưu huỳnh,… ngay cả khi
chưa sử dụng các chất chứa trong các loại xăng dầu đã phát thải ra môi trường và gây
ảnh hưởng xấu đến môi trường. Việc đưa các sản phẩm xăng dầu vào đối tượng chịu
thuế nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; khuyến
khích sử dụng năng lượng tái tạo. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới áp dụng thuế
BVMT đối với xăng, dầu. Các nước EU đang đánh thuế đối với nhiên liệu ( Xăng 0,42
Euro/lít, dầu Diesel 0,30 Euro/lít); Singapo: 0,4 đôla Singapo/lít xăng.
2. Than đá
Khi than được sử dụng cho mục đích đối cháy sẽ thải ra môi trường các loại khí
như CO2, SO2 đều là các khí gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Phạm vi sử
dụng than cũng rộng khắp và với khối lượng gần 30 triệu tấn/năm. Việc đưa than vào
đối tượng chịu thuế cũng nhằm mục tiêu khuyến khích sử dụng năng lượng tiết kiệm,

hiệu quả; giảm sự phụ thuộc vào năng lượng có nguồn gốc hóa thạch, khuyến khích sử
dụng năng lượng tái tạo. Nhiều nước như Trung Quốc thu từ 8 đến 37 Nhân dân tệ/tấn
tùy theo hàm lượng lưu huỳnh trong than; Philipine thu ở mức 10 Pê sô/1 tấn.
3. Dung dịch hydro-chloro-fluoro-cácbon (HCFC)
Dung dịch HCFC được sử dụng trong một số lĩnh vực công nghiệp như: Làm
lạnh, điều hòa không khí,… Sự phát thải chất HCFC vào khí quyển, làm ô nhiễm bầu
không khí, là nguyên nhân chính làm suy giảm tầng ôzôn và gây hiệu ứng nhà kính.
Nước ta đã tham gia ý ký kết Nghị định thư Montreal về hạn chế sử dụng các chất làm
suy giảm tầng ôzôn. Việc đưa chất HCFC vào đối tượng chịu thuế BVMT sẽ góp phần
vào việc thực hiện cam kết quốc tế, khuyến khích doanh nghiệp giảm dần sử dụng
HCFC bằng việc chuyển đổi công nghệ sản xuất.
4. Túi ni lông thuộc diện chịu thuế
11


Túi ni lông phải trải qua thời gian rất lâu để phân hủy, có thể tới hàng trăm năm
hoặc không thể tự phân hủy được. Túi nilông thải bỏ sau khi sử dụng sẽ tích tụ trong
đất, suy thoái môi trường đất. Khi bị phân hủy thì còn sinh ra các chất làm đất bị trơ,
không giữ được độ ẩm và dinh dưỡng cho cây trồng. Việc đưa túi ni lông vào đối tượng
chịu thuế nhằm mục tiêu nâng cao ý thức BVMT của toàn xã hội, từ đó góp phần thay
đổi hành vi của người tiêu dùng trong việc sử dụng túi ni lông. Hiện nay, có nhiều nước
trên thế giới đã thu thuế đối với các sản phẩm nhựa (túi ni lông, bát nhựa, chai nhựa…)
như: Anh, Ailen, Đài Loan,…
5. Thuốc trừ cỏ, thuốc bảo quản lâm sản, thuốc khử trùng kho, thuốc trừ mối
thuộc loại hạn chế sử dụng
Đây là những hợp chất độc có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc tổng hợp từ các chất
hóa học được dùng để phòng trừ dịch hại trên cây trồng và bảo quản nông sản. Việc đưa
hóa chất bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng vào đối tượng chịu thuế nhằm
nâng cao nhận thức của người sử dụng, khuyến khích họ thay đổi thói quen sử dụng lạm
dụng, giảm thiểu những tác hại xấu của hóa chất bảo vệ thực vật đối với môi trường.

Hiện nay, một số nước như Đan Mạch, Bỉ cũng áp dụng thuế BVMT đối với các sản
phẩm hóa chất bảo vệ thực vật.
Đồng thời, Luật cũng quy định điều khoản mở: “Trường hợp xét thấy cần thiết
phải bổ sung đối tượng chịu thuế khác cho phù hợp với từng thời kỳ thì Chính phủ trình
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quy định”.

12


PHỤ LỤC II
DANH MỤC THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT HẠN CHẾ SỬ DỤNG TẠI
VIỆT NAM
(Ban hành kèm theo Thông tư số 36 /2011/TT-BNNPTNT ngày 20/5/2011 của Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn)

TT

MÃ HS

TÊN HOẠT CHẤT –
NGUYÊN LIỆU
(COMMON
NAME)

TÊN

THƯƠNG
PHẨM
(TRADE
NAME)


ĐỐI TƯỢNG PHÒNG TRỪ
(CROP/PEST)

TỔ

CHỨC
XIN
(APPLICANT)

ĐĂNG



III. THUỐC BẢO QUẢN LÂM SẢN:
1

3808.90.10

Methylene
bis
Thiocyanate
5%
+
Quaternary ammonium
compounds 25 %

Celbrite MT
30EC


nấm hại gỗ

Celcure (M) Sdn Bhd

2

3808.90.10

Methylene
thiocyanate 10% +

Celbrite TC 20L

nâm mốc/ gỗ

Celcure (M) Sdn Bhd

Sodium
Tetraborate
decahydrate 54 % +
Boric acid 36 %

Celbor

nấm hại gỗ

Celcure(M) Sdn Bhd

XM5
100 bột

LN 5
90 bột

nấm, mục, côn trùng hại tre,
gỗ, song, mây
nấm, mục, côn trùng hại gỗ
sau chế biến, song, mây, tre

Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam
Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam

Alumifos

khử trùng kho

Asiagro Pacific Ltd

sâu mọt hại kho tàng

Excel Crop Care Limited

sâu mọt hại kho tàng

Helm AG

bis

2-thiocyanomethylthio)

benzothiazole 10%
3

3808.90.10

4

3808.90.10

CuSO4
50
K2Cr2O7 50 %

%

+

5

3808.90.10

ZnSO4 .7H2O 60% +
NaF 30 % + phụ gia
10%

90 SP

IV. THUỐC KHỬ TRÙNG KHO:
1


3808.90

Aluminium Phosphide

56% Tablet
Celphos
56 % tablets
Gastoxin
56.8 GE

13


Fumitoxin
55 % tablets

Phostoxin

côn trùng hại nông sản, nhà
kho, phương tiện chuyên
chở

Công ty CP Khử trùng

côn trùng, chuột hại
tàng

Công ty CP Khử trùng

kho


56% viên tròn, viên
dẹt
Quickphos

Việt Nam

Việt Nam

sâu mọt hại kho tàng, nông
sản

United Phosphorus Ltd

sâu mọt hại kho tàng

Công ty CP Khử trùng

56 %
2

3808.90

Magnesium phosphide

Magtoxin
66 tablets, pellet

Việt Nam
3


3808.90

Methyl Bromide

Bromine
98%, 100%

Dowfome

Gas

mọt, bướm, gián, mạt, chuột
hại hàng hóa trong kho
(đường, đậu, quả khô, ngô,
gạo, lúa, cao lương, kho
trống)

Công ty CP Khử trùng

sâu mọt hại nông lâm sản
sau thu hoạch

Công ty TNHH TM - DV
Sơn Hóa Nông

Việt Nam

Thanh


98 %

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Luật Thuế bảo vệ môi trường năm 2010;
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005;
Hiến pháp năm 1992, SĐBS năm 2001;
Nghị Định số 67/2011/NĐ-CP quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thuế bảo vệ môi trường;
5. Thông tư 152/2011/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 67/2011/NĐ-CP ngày 08
tháng 08 năm 2011;
6. Thông tư 36/2011/TT-BNNPTNT ngày 20/5/2011 về việc ban hành Danh mục
thuốc BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng, cấm sử dụng ở Việt Nam;
7. Công văn 1199/BTC-TCT hướng dẫn thực hiện Thông tư 152/2011/TT-BTC
8. Bảng tổng kết môi trường toàn cầu của chương trình môi trường liên hợp quốc
(UNEP) 2008;
9. Bản số liệu của trung tâm phân tích khí hậu thành phố Hồ Chí Minh-2006;
10.Báo công thương;
Ngày xuất bản: 03/15/2012;
11.Công văn 1827/CT-TTHT báo cáo vướng mắc khi thực hiện Luật thuế bảo vệ
môi trường do Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh ban hành;
12.Công văn của Bộ Công thương ngày 23/2/2012 về việc thực hiện Luật Thuế Bảo
vệ Môi trường;

13.Các website có được liệt kê trong footnote và các bài viết có liên quan

15



×