Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tạm giam tố tụng hình và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.16 KB, 15 trang )

Luật tố tụng hình sự Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm
khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, việc quy định
biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng. Tạm
giam đúng sẽ góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của
công dân được Hiến pháp quy định, tạm giam đúng còn bảo đảm cho việc đấu
tranh và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Do đó, để tìm hiểu kĩ hơn về vấn
đề này, em xin đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Tạm giam trong tố tụng hình sự
và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng”

NỘI DUNG
1. Khái quát về tạm giam trong tố tụng hình sự
1.1. Khái niệm tạm giam:
Theo khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có thể nói, tạm
giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, phạm tội ít nghiệm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên
hai mười năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiệm
khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Các biện pháp
khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
đảm bảo chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại hoặc quyền và lợi ích về tài sản
mà không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp. Còn các
biện pháp bắt, tạm giữ cũng là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, nó cũng
hạn chế quyền tự do của công dân nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong
bắt và tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi




Luật tố tụng hình sự Việt Nam

bắt người hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang. Cơ quan điều tra phải lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả
tự do cho người bị bắt (khoản 1 Điều 83 BLTTHS). Thời hạn tạm giữ là ba
ngày và tối đa là chín ngày đối với trường hợp có gia hạn tạm giữ (Điều 87
BLTTHS). Trong khi đó thời gian tạm giam để điều tra tối đa có thể lên tới 16
tháng (đối với tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 2 Điều 120).
Khi áp dụng biện pháp tạm giam, mục đích là để ngăn chặn kịp thời
hành vi phạm tội và ngăn chặn tội phạm có thể xảy ra, phục vụ cho việc đấu
tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả cao. Là một biện pháp ngăn chặn
nghiêm khắc nhất, nhưng tạm giam không phải là hình phạt tù vì hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Toà áp dụng không
chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo trở thành
con người tốt có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ theo pháp luật và các quy
tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội với hình phạt còn nhằm
giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu tranh và phòng ngừa
tội phạm.
1.2.

Mục đích, ý nghĩa của tạm giam:

Tạm giam tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra và xử lý tội
phạm. Ngăn chặn, nhanh chóng làm rõ tội phạm và người phạm tội để kịp
thời đưa ra xét xử và xử lý là một nghiệp vụ quan trọng và khó khăn đối với
các cơ quan điều tra và các cơ quan thẩm quyền chức năng. Để đem lại hiệu
quả cao đối với công tác điều tra và xử lý, các cơ quan chức năng phải sử
dụng các biện pháp được pháp luật cho phép cụ thể trong pháp luật tố tụng

hình sự. Trong đó biện pháp tạm giam là biện pháp quan trọng và cần thiết.
Việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giam thể hiện sự cưỡng chế
của Nhà nước trong việc đấu tranh chống tội phạm góp phần nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Việc quy định và áp dụng tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp
phần bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

trong hiến pháp (Điều 50, Điều 71 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Biện pháp tạm giam không chỉ thể hiện tính
cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi xâm hại các quyền công
dân mà còn là một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có
nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Biện pháp tạm giam tuy hạn chế
một số quyền công dân đối với bị can, bị cáo nhưng mặt khác lại bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
khác.
Việc quy định về tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự thể hiện tính
ưu việt của Nhà nước ta. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Vì vậy mọi hoạt động của Nhà nước đều không nằm ngoài mục
đích là phục vụ quyền lợi của nhân dân. Với bản chất của nhà nước XHCN là
một chế độ dân chủ, trong đó các quyền tự do của công dân được tôn trọng,
pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân... Do đó, khi áp
dụng biện pháp tạm giĩư, tạm giam. Cơ quan và những người có thẩm quyền
theo Luật định phải triệt để tuân thủ những điều của Bộ luật hình sự quy định.
Bên cạnh đó pháp luật cũng thể hiện tính nhân dạo về chế định tạm
giam là các quy định về vấn đề tạm giam đối với người chưa thành niên (Điều
304 BLTTHS) và các quy định về tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ
có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu thangns tuổi, là người già yếu,

người bị bệnh nặng (khoản 2 Điều 88 BLTTHS).
1.3.

Đối tượng của tạm giam:

Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo.
Đây là biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân, cho nên Bộ luật tố tụng
hình sự quy định chỉ cho phép áp dụng đối với người đã bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, tạm giam có thể được áp dụng cho những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội nghiêm trọng.
Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của Bộ luật


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

hình sự, mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là
trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng) hoặc phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm
tù (phạm tội rất nghiêm trọng). Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong
trường hợp này cần hai điều kiện:
+ Người thực hiện phạm tội là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị
thẩm phán ra quyết định khởi tố vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo:
+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà
Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ trên 2 năm và có căn cứ để cho
rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể tiếp tục phạm tội. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội
nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy
định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 2 năm tù.

Trong một điều luật có nhiều khoả n thì phạm tội thuộc khoản có mức
phạt trên 2 năm tù có thể tạm giam, phạm tội thuộc khoản có hình phạt
tù từ 2 năm tù trở xuống thì không được tạm giam.
Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện
này phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội
hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác ít nghiêm khắc. Một điều cần chú ý là do tạm giam là biện
pháp ngăn chặn nghiêm khắc nếu như căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chăn
chung là “gây khó khăn” cho hoạt động tố tụng, thì căn cứ để áp dụng tạm
giam phải là “cản trở” hoạt động tố tụng.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ
ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những
trường hợp: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo
được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; Bị can, bị cáo
phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm
giam thì họ sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Với việc quy định này Bộ
luật tố tụng hình sự ở nước ta đã thể hiện khá rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội
chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em.
1.4. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam:
- Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử.
Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử được biểu hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng
với nhau về những lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm

chứng, người bị hại hoặc các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử là trường hợp “gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang tính đối phó lại việc tiến hành các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc xác định bị can, bị cáo cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử phải dựa trên những căn cứ khách quan và
phải xuất phát từ yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét xử chứ không
phải sự suy đoán chủ quan tùy tiện.
- Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Để nhận định bị can,
bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh
giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội
phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo;
Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua
chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại
gặp gỡ bọn tội phạm.
- Căn cứ để bảo đảm thi hành án. Công tác thi hành án hình sự là vấn đề
vô cùng quan trọng. Các bản án quyết định của tòa án khi có hiệu lực
pháp luật cần phải đưa ra thi hành. Có như vậy mới có nâng cao được
tính hiệu quả của pháp luật trong đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc
tạo điều kiện để thi hành án là vấn đề rất quan trọng và cần thiết.
1.5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam:


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định những
người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra
lệnh tạm giam. Những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
được quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:
“1. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm
giam:

a) Viện trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó chánh án toà án nhân dân và Toà án cấp quân sự
các cấp;
c) Thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân
khu trở lên chủ toạ phiên toà;
d) Trưởng Công an, phó trưởng công an cấp huyện, thủ trưởng, phó
thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên, thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ
quan điều tra các cấp trong quân đội nhân dân. Trong trường hợp này lệnh
bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.”
Do đó, các quy định của luật tố tụng hình sự hiện nay về thẩm quyền và
lệnh tạm giam đã tương đối cụ thể và đầy đủ, và đã có sự mở rộng thêm
đếnViện trưởng, Phó viện t rưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
1.6.

Thủ tục tạm giam:

Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do
của người bị áp dụng trong một khoản thời gian nhất định, vì vậy việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cần phải tuân theo một trình tự, thủ tục
rất chặt chẽ.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì việc tạm giam
bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam phải là lệnh viết, người
cấm tình trạng tạm giam bị can, bị cáo bằng lệnh miệng. Trong lệnh tạm giam
của người có thẩm quyền phải ghi rõ ràng : ngày, tháng, năm, chức vụ của
người ra lệnh để họ chịu trách nhiệm về mặt pháp lý . Đồng thời phải ghi rõ


Luật tố tụng hình sự Việt Nam


họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, thời hạn tạm giam và phải giao cho
người bị tạm giam một bản để họ xem xét và thấy rõ rằng việc mình bị tạm
giam là hoàn toàn đúng pháp luật hay chưa đúng pháp luật. Khoản 3 Điều 88
quy định, lệnh tạm giam của cơ quan điều tra phải được Viện trưởng Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Sau khi ra lệnh tạm giam cơ quan đã ra lệnh tạm giam cần phải thông
báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú, làm việc biết. Bên
cạnh đó, khi tiến hành tạm giam một người cần phải đảm bảo các thủ tục liên
quan khác như: thực hiện việc chăm nom người thân thích, bảo quản tài sản
của người bị tạm giam (Điều 90 BLTTHS năm 2003).
1.7. Thời hạn tạm giam:
1.7.1. Thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 120 BLTTHS năm 2003)
Căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của vụ án, yêu
cầu của việc điều tra. Thời hạn mà Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao “có quyền gia hạn thêm” không được luật quy định là bao nhiêu, do đó
việc áp dụng quy định này trên thực tế dễ bị áp dụng một ách tuỳ tiện, bởi lẽ,
quy định về việc “gia hạn thêm” nhưng lại không quy định điểm cuối cùng
của việc gia hạn, dễ dẫn đến tình trạng một người có thể bị chậm về thời hạn
cho đến hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong khi tạm giam để điều tra, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp
tục tạm giam, thì cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện Kiểm sát huỷ bỏ
việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam, hoặc xét thấy cần thiết thì
áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam, thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do
cho người bị tạm giam, hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác.
1.7.2. Thời hạn tạm giam để truy tố



Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Khoản 2 Điều 166 BLTTHS năm 2003 quy định: “thời hạn tạm giam
để truy tố không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này”. Thời hạn
tạm giam để truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm
trọng tối đa có thể lên đến ba mươi ngày, đối với tội pham rất nghiêm trọng
tối đa có thể lên đến bốn mươi lăm ngày, còn đối với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng thời hạn tạm giam để truy tố tối đa có thể lên tới sáu mươi ngày.
1.7.3. Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm
Đoạn 2, 3 Điều 177 BLTTHS năm 2003 quy định:
“Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn
bi xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật này.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn
tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam cho đến khi kết thúc
phiên tòa”.
Thời hạn tạm giam để xét xử được tính từ ngày Toà án nhận hồ sơ và
bản cáo trạng do Viện kiểm sát chuyển sang đến ngày mở phiên toà xét xử.
Thời hạn tạm giam trong trường hợp: bị cáo đang bị tạm giam và đến
ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết tiếp tục
tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Toà án ra lệnh tạm giam cho đến khi
kết thúc phiên toà. Pháp luật không quy định cụ thể, thời gian đó dài hay ngắn
phụ thuộc việc diễn biến của phiên toà đó.
1.7.4. Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm
Đoạn 2 khoản 1 Điều 243 BLTTHS quy định: “Thời hạn tạm giam
không quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 của Bộ luật này”.
Khoản 2 Điều 243 BLTTHS năm 2003: “Đối với bị cáo đang bị tạm
giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần
tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án gia lệnh tạm giam cho
đến khi phiên tòa kết thúc”.
2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam.



Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Cơ quan tiến hành tố tụng lạm dụng việc áp dụng biện pháp tạm
giam: Căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam đa được pháp luật tố tụng hình
sự quy định rất cụ thể và rõ ràng, nhưng trong thực tế, việc xác định căn cứ để
tạm giam bị can, bị cáo phần lớn do ý thức chủ quan của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Thực tế áp dụng các cơ quan tố tụng thường chỉ căn cứ chủ yếu
vào điều kiện chủ quan là thuận lợi của việc điều tra, truy tố, xét xử. Thực tế
nhiều trường hợp bị can, bị cáo chỉ phạm những tội ít nghiêm trọng, có đầy đủ
các điều kiện để được tại ngoại, nhưng họ vẫn bị áp dụng biện pháp tạm giam.
Khi xét xử lẽ ra bị cáo phải được hưởng án treo, nhưng vì đã tạm giam quá
lâu, nên tuyên phạt bị cáo án tù giam và áp dụng hình phạt đối với bị cáo bằng
với thời gian mà bị cáo bị tạm giam và trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.
Những bản án tuyên phạt như vậy thường không gây được sự đồng tình của
những người tham gia phiên tòa. Từ đó làm cho sự nghiêm minh của pháp
luật không còn triệt để, người dân sẽ nhìn nhận không tốt đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng. Trên thực tế hoàng loạt các vụ việc xuất phát từ việc tạm
giam bị can, bị cáo không đúng tính chất mức độ nghiêm trọng của vụ án
không tương xứng với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra, và cũng từ đó có
nhiều vụ việc khiếu nại kéo dài gây mất trật tự xã hội. Tất cả những việc làm
trên của cơ quan tiến hành tố tụng đã tạo nên một tiền lệ xấu đối với việc áp
dụng pháp luật và gây ảnh hưởng không tốt đến cách nhìn nhận của người dân
đối với bộ máy cơ quan tiến hành tố tụng và những quy định của pháp luật.
Áp dụng biện pháp tạm giam quá thời hạn quy định của pháp luật.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định cụ thể các trường hợp áp dụng biện pháp
tạm giam, và bên cạnh đó quy định cụ thể thời hạn tạm giam bị can, bị cáo
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Nhưng trên thực tế, việc điều tra, truy
tố, xét xử đối với các vụ án phức tạp thường kéo dài và pải gia hạn nhiều lần

tạm giam nhưng cũng không hoàn thành được việc điều tra, truy tố, xét xử.
Khi đã hết thời hạn gia hạn cho phép, giải pháp thường áp dụng nhất của cơ
quan tiến hành tố tụng là ra bản án kết luận điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

kiểm sát đối với cơ quan điều tra; ra bản cáo trạng truy tố bị can ran trước tòa
đối với Viện kiểm sát; ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đối với tòa án để thực
hiện tiếp quá trình tố tụng. Khi hồ sơ vụ án được chuyển sang giai đoạn tố
tụng khác là thời hạn tạm giam được tính lại phù hợp với từng vụ việc cụ thể,
và ở từng giai đoạn tố tụng đó các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ thực hiện các
công việc cụ thể ở giai đoạn tố tụng của mình; nếu không đủ thời gian thì
hoặc là chuyển, hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Và quy trình này có thể
kéo dài nhiều năm. Do đó, bị can, bị cán cũng có thể bị tạm giam liên tục
nhiều năm, trong khi các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được
hành vi phạm tội của bị can, bị cáo. Điều này cho thấy thời hạn tạm giam bị
can, bị cáo sẽ bị phụ thuộc vào thời gain điều tra, truy tố, xét xử và bất lợi
nhất là khi vụ án bị trả hồ sơ nhiều lần.
Gây khó khăn khi Luật sư muốn tiếp xúc bị can, bị cáo hoặc sự có
mặt của Luật sư khi lấy lời khai bị can, bị cáo. Đây là vấn đề xảy ra thường
xuyên trong quá trình điều tra vụ án. Quy định của pháp luật là luật sư có
quyền tiếp xúc với bị can cũng như có mặt khi lấy lời khai bị can từ khi khởi
tố bị can, đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc gia thì có thể tham gia từ khi
kết thúc điều tra. Nhưng trong thực tế khi luật sư có văn bản đề nghị tham gia
bào chữa cho bị can thì thường gặp rất nhiều khó khăn, các cơ quan tiến hành
tố tụng tìm đủ mọi lý do để từ chối hoặc gây khó khăn cho việc yeu cầu được
tiếp xúc với bị can… Các cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng, nếu cho luật sư
tiếp xúc thì sẽ gây khó khăn cho việc chứng minh hành vi phạm tội của bị
can, bị cáo. Ví dụ như bị can, bị cáo sẽ không khai đúng sự thật hoặc không

khai gì… Điều này có thể so luật sư đã bày cách cho bị can, bị cáo khai gian
dối để chối tội, hoặc bị can không nên khai gì và như vậy buổi lấy lời khai sẽ
không có hiệu quả.
Tất cả những tồn tại, bất cập này đều mang đến một hậu quả không tốt
cho quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về vấn
đè áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo. Những bất cập này


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

cũng đã vi phạm tới việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo
đã được pháp luật tố tụng hình sự bảo vệ.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì còn có nhiều điểm vướng
mắc cần phải giả quyết xung quanh việc quy định về biện pháp tạm giam. Đó
là:
Thứ nhất, quy định về thời hạn tạm giam và thời hạn tạm giam để điều
tra không trùng khớp làm cho việc áp dụng trên thực tế gặp những khó khăn
nhất định.
Thứ hai, về trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người phê
chuẩn lệnh tạm giam. Có thể thấy rằng, quan hệ giữa thủ trưởng cơ quan điều
tra viên là quan hệ chỉ huy, phục tùng. Sau khi khởi tố vụ án, thủ trưởng cơ
quan điều tra trực tiếp điều tra hoặc quyết định phân công cho điều tra viên
điều tra vụ án. Từ khi đó, điều tra viên có quyền tiến hành các biên pháp điều
tra do bộ luật tố tụng hình sự quy định, còn việc áp dụng biện pháp tạm giam
điều tra viên chỉ có quyền đề xuất. Thủ trưởng cơ quan điều tra kí lệnh tạm
giam và Viện kiểm sát phê chuẩn. Vậy: nếu tạm giam trái pháp luật thì ai phải
chịu trách nhiệm, điều tra viên hay thủ trưởng cơ quan điều tra? Nếu việc tam
giam sau đó lại được Viện kiểm sát phê chuẩn thì người phê chuẩn có phải
chịu trách nhiệm không?
Thứ ba, theo quy định của luật tố tụng hình sự thì có các trường hợp

đặc biệt không được miễn trừ chính sách ưu đãi khi áp dụng biện pháp tạm
giam thì lại chưa có quy định cụ thể về điều kiện áp dụng và bảo đảm quyền
lợi cho họ. Ví dụ trường hợp bị can đang mang thai cần được hưởng chế độ
giam giữ như thế nào? Dinh dưỡng cho thai sản ra sao? Đây cũng là một quay
định cần hướng dẫn cụ thể.
3. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp tạm giam.


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ thực trạng và những biện vướng mắc cần phải giả quyết
xung quanh việc quy định về biện pháp tạm giam, em xin đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này:
Thứ nhất, việc bắt giam bị cáo ngay tại phiên tòa cần có quy định theo
hướng là phải có lệnh tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của
bản án thì không thể tiếp tục tạm giam bị cáo, do bản án sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật, chưa được đem ra thi hành, trường hợp bản án được tham gia
thi hành ngay theo quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ hai, nhận thức đúng hơn về biện pháp tạm giam: tạm giam là biện
pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, nên khi áp dụng các cơ quan tiến hành tố
tụng cần phải cân nhắc thật tỉ mỉ, cần phải có đủ căn cứ theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự thì mới có thể áp dụng. Do đó, để đảm bảo quyền lợi
của bị can, bị cáo, cũng như bảo đảm quyền con người trong quá trình tố tụng,
các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét lại việc áp dụng biện pháp tạm
giam trong khi thực hiện nhiệm vụ ở từng giai đoạn tố tụng. Các cơ quan tiến
hành tố tụng phải nhận thức rõ được tính chất nghiêm trọng của việc áp dụng
biện pháp tạm giam để có cái nhìn nhận đúng đắn và áp dụng một cách chính
xác, có căn cứ. Ngoài ra, cũng cần tạo điều kiện để luật sư có thể tiếp xúc với
bị can, bị cáo để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.

Thứ ba, vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo bị tạm giam thì nhà
làm luật nên quy định các mức thời hạn phê chuẩn lệnh của Viện kiểm sát,
theo từng loại vụ án đơn giản hay phức tạp, kể từ khi nhận được công văn đề
nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án. Hiện nay tại khoản 3 Điều 88 quy định
về thời hạn của Viện kiểm sát xem xét đó là: trong thời hạn ba ngày, kể từ
ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xem xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu
liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn. Theo em thì pháp luật nên quy định cụ thể hơn
thời hạn này theo hướng quy định các mức thời gian theo từng vụ án đơn giản
hay phức tạp, nếu vụ án đơn giản, hồ sơ tài liệu đầy đủ thì chỉ cần một ngày


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

nhưng có những vụ án mà hồ sơ, tài liệu nhiều lại mang nhiều tính chất phức
tạp thì cần phải có nhiều thời gian hơn để Viện kiểm sát nghiên cứu trước khi
phê chuẩn.
Thứ tư, thời hạn để điều tra và thời hạn điều tra. Theo em thi Bộ luật tố
tụng hình sự nên quy định thời gian bằng nhau vì có nhiều vụ án phức tạp thời
hạn điều tra thì vẫn còn nhưng thời hạn tạm giam để điều tra đã hết, vì vậy đã
gây khó khăn cho Cơ quan điều tra cũng như cho quá trính xét xử, thi hành
án.
Thứ năm, cần phải nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền
trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng cách quy định rõ
ràng và đầy đủ trách nhiệm của họ cũng như chế tài mà họ có thể áp dụng nếu
họ có những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ của
mình cả về trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự và trách nhiêm hình
sự.
Thứ sáu, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường năng lực; trau dồi
và nâng cao phẩm chất đạo đức của các chủ thể áp dụng biện pháp ngăn chặn

tạm giam.

KẾT LUẬN
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất nhưng tạm giam
không phải là hình phạt tù. Do đó, khi áp dụng biện pháp tạm giam trong quá
trình tố tụng , các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xemm xét thận trọng, kết
hợp giữa việc bảo đảm đạt kết quả điều tra, truy tố, xét xử và gắn với các
quyền lợi của bị can, bị cáo. Qua đó, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm
giam ở mức thấp nhất là theo tinh thần Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2008.
2. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.
3. Nguyễn Văn Hiệu, Các biện pháp ngăn chặn, bắt, tạm giữ, tạm giam
trong tố tụng hình sự Việt Nam, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp,
Luật án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2005.
4.

Trần Quang Tiệp, “Một số vấn đề về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự”, tạp chí kiểm sát, số 7/2005.

5. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2003.
6.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
NỘI DUNG


Luật tố tụng hình sự Việt Nam

1. khái quát về tạm giam trong tố tụng hình sự ................................... 1
1.1. Khái niệm tạm giam ............................................................... 1
1.2. Mục đích, ý nghĩa của tạm giam ............................................. 2
1.3. Đối tượng của tạm giam ......................................................... 3
1.4. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam ..................................... 5
1.5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam ................................................ 6
1.6. Thủ tục của tạm giam ............................................................. 7
1.7. Thời hạn tạm giam ................................................................ 7
2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam ........................................... 9
3. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp tạm giam ...................................................................... 12
KẾT LUẬN ............................................................................................ 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 15



×