Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Hoàn thiện pháp luật về người không được quyền hưởng di sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.24 KB, 22 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công
dân, được ghi nhận tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 và Điều 631 BLDS năm
2005. Nguyên tắc quyền bình đẳng về thừa kế là một trong những nguyên tắc
của quyền thừa kế, cụ thể Điều 632 BLDS năm 2005 quy định: “Mọi cá nhân
đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền
hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Tuy nhiên, trong xã hội có
một số trường hợp người thừa kế vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình,
có những hành vi trái pháp luật, trái với đạo đức xã hội, trái với thuần phong
mĩ tục của dân tộc Việt Nam, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tính mạng, sức
khỏe của bố, mẹ, anh, em, vợ, chồng,... Những người này không còn xứng
đáng được hưởng thừa kế và pháp luật đã tước quyền đó của họ. Để làm rõ
hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài số 12: “ Hoàn thiện pháp luật về
người không được quyền hưởng di sản ” làm bài tập lớn học kì của mình.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1. Khái quát về thừa kế
Quyền thừa kế, theo nghĩa rộng là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về việc dịch chuyển tài sản từ
người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể hiện
trong di chúc hoặc theo ý kiến của nhà nước được thể hiện trong các quy
phạm pháp luật. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng
dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền
hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó hoặc theo
quy định của pháp luật.
Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo
1


di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền,


nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã
chết, quyền về tài sản của người đó. Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: “Di
sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác”. Tài sản riêng của người chết là tài sản mà
người đó có được từ các căn cứ xác lập quyền sở hữu hợp pháp. Tài sản của
người chết trong khối tài sản chung với người khác có thể là được tặng cho
chung, thừa kế chung, cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh hoặc là tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Thời điểm và địa điểm mở thừa kế. Điều 633 BLDS năm 2005 đã có quy
định về hai khái niệm này. Theo đó, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người
có tài sản chết. Trong trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời
điểm mở thừa kế là ngày được tòa án xác định trong quyết định tuyên bố một
người là đã chết. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại
di sản; còn nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở
thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.
Người thừa kế là người được hưởng di sản của người chết để lại theo chỉ định
trong di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Điều 635 có quy định về điều
kiện
của người thừa kế như sau: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống
vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp
người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”
Việc thừa kế của những người có quyền hưởng di sản của nhau mà chết
cùng thời điểm. Điều 641, BLDS năm 2005 đã có quy định về việc này, cụ
thể như sau: “Trong trường hợp những người có quyền hưởng di sản của
2



nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không
xác định được người nào chết trước thì họ không được hưởng di sản thừa kế
của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ
trường hợp thừa kế thế vị”.
Từ chối nhận di sản. Theo quy định tại Điều 642 BLDS năm 2005 thì người
thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Quy định người không có quyền hưởng di sản của pháp luật Việt Nam
trước BLDS năm 2005.
Trước năm 1945 ở nước ta, pháp luật của chế độ thực dân phong kiến cũng có
những quy định về người thừa kế không có quyền hưởng di sản của người quá
cố (họ được coi là người thừa kế bất xứng).
Điều 313 Bộ dân luật Bắc Kì và Điều 306 Dân luật Trung Kì đều dự liệu
những trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng di sản đó là:
Thứ nhất, người đã bị người lập di chúc tuyên bố không xứng đáng được
hưởng di sản của người lập di chúc.
Thứ hai, người có hành vi xâm phạm đến tính mạng người để lại di sản hoặc
với danh nghĩa chính phạm hoặc đồng phạm hoặc tòng phạm.
Thứ ba, người đã trưởng thành biết được hành vi cố ý giết người mà không tố
giác với Tòa án, nhưng nếu kẻ sát hại là cha, mẹ, anh, em, vợ, chồng hoặc
người thân thuộc của người thừa kế thì không bị coi là có lỗi vì đã không bị
coi là tố giác và cuối cùng là người có hành vi vu khống để lại di sản hoặc vu
khống ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị vu khống đã bị phạt về trọng
tội hay thường tội.
Cũng về vấn đề trên, theo án lệ ở miền Nam nước ta trước năm 1945 thì
người vợ góa bị coi là bất xứng không có quyền hưởng di sản, phần di sản đó
sẽ do con hoặc cháu của người đó được hưởng nếu người vợ góa có các hành
vi như là: không để tang chồng; sống thiếu đạo đức và đã công khai gây tai
3



tiếng cho gia đình chồng; đã có nhân tình hoặc đã lạm dụng quyền hưởng di
sản mà không có biên bản kê khai.
Sau cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
chiếu theo Sắc lệnh ngày 10/10/1945 về tạm giữ các điều lệ hiện hành ở Việt
Nam để thi hành cho đến khi ban hành những bộ luật của chế độ mới của toàn
cõi Việt Nam, ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 vẫn áp
dụng những quy định của pháp luật thời thực dân phong kiến quy định về
thừa kế, chỉ loại bỏ những quy định trái với những nguyên tắc cơ bản của
Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ năm 1959 đến năm 1981, trên thực tế ở nước ta, mặc dù đã có một số
thông tư của ngành Tòa án hướng dẫn giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế
(ví dụ Thông tư số 594...) nhưng không có một nội dung nào về những người
thừa kế không có quyền hưởng di sản.
Cơ sở pháp lí để tước quyền thừa kế của một số người chỉ bắt đầu được quy
định tại Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các
tranh chấp về quyền thừa kế. Cụ thể, tại thông tư 81/ TANDTC có quy định
về người không được hưởng thừa kế:
“III A 4 Người không được thừa kế
- Người đã giết người để thừa kế hoặc đã đối xử quá tàn tệ với người đó thì
không được thừa kế di sản của người đó.
- Người đã giết người thừa kế cùng hàng với mình để chiếm đoạt toàn bộ di
sản hoặc nhằm làm tăng kỷ phần cho bản thân thì không được thừa kế di sản
của cả hai người ấy (người để thừa kế và người bị giết)”
Ngày 30/08/1990 Pháp lệnh thừa kế được ban hành. Vấn đề người thừa kế
không có quyền hưởng di sản được quy định tại Điều 7. Cụ thể :
“Điều 7: Những người thừa kế không có quyền hưởng di sản
1- Những người thừa kế sau đây không có quyền hưởng di sản:
4



a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc hành
vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế khác có
quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép người có tài sản trong việc lập di
chúc; giả mạo di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di
sản trái với ý chí của người có tài sản.
2- Những người nói tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người
có tài sản thể hiện ý chí vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.
Nội dung của Điều 7 Pháp lệnh thừa kế nói trên đã được giữ nguyên và được
thể hiện tại Điều 646 BLDS năm 1995 và nay là Điều 643 BLDS năm 2005
3. Những người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều
643 BLDS năm 2005
Người không được hưởng di sản hay người bị tước quyền hưởng di sản
được quy định trong Điều 643 BLDS 2005 gồm cả người thừa kế theo pháp
luật và người thừa kế theo di chúc. Đó là những người đáng lẽ được hưởng di
sản, họ là người thừa kế của người để lại di sản hoặc đã được người lập di
chúc cho họ hưởng di sản nhưng những người này lại có hành vi trái pháp
luật, trái đạo đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản theo pháp luật
cũng như theo di chúc.
Điều 643 BLDS năm 2005 quy định “ người không được quyền hưởng di
sản”
khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất: Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm
phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm của người đó.
5



Hành vi “cố ý xâm phạm tính mạng” được hiểu là hành vi cố ý tước đoạt tính
mạng người để lại di sản trái pháp luật. Hành vi tước đoạt tính mạng người
khác được hiểu là hành vi gây ra cái chết cho người để lại di sản, chấm dứt sự
sống của người đó. Hành vi đó là hành vi khách quan của tội giết người, phải
là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật (để
phân biệt với những hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường
hợp phòng vệ chính đáng hay trong trường hợp thi hành án tử hình).
Điều 643 BLDS năm 2005 chỉ quy định người có hành vi cố ý giết người để
lại di sản và đã bị kết án về hành vi cố ý đó thì không có quyền hưởng thừa kế
của người để lại di sản chứ không quy định một người chỉ bị kết án về hành vi
vô ý làm chết người để lại di sản cũng bị tước luôn quyền đó. Như vậy, trong
trường hợp trên thì việc xem xét hình thức lỗi của người có hành vi xâm phạm
đến tính mạng người để lại di sản có ý nghĩa quyết định đến việc người đó có
được hưởng di sản hay không.
Hành vi “ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó”. Người có hành vi ngược
đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản và đã bị kết án về một trong các
hành vi đó thì bị tước quyền thừa kế di sản của người đã bị ngược đãi, bị hành
hạ sau khi chết. Hành vi ngược đãi là hành vi đối xử tàn tệ, nhẫn tâm người
thân của mình trái với đạo đức, luân lý xã hội. Người có hành vi trên có thể là
người có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân và người bị hành hạ, ngược đãi
thường là người bị lệ thuộc trong quan hệ gia đình, họ tộc. Hành vi đối xử tàn
ác có tính chất hành hạ, gây đau đớn về thể xác, tinh thần với người bi hại...
Người có hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản phải xác định là hành
vi cố ý. Xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản
thể hiện ở hành vi làm nhục, bịa đặt hoặc loan tin những điều biết rõ là bịa đặt
nhằm xúc phạm danh dự người để lại di sản
6



Một người có quyền dân sự nhưng đã có hành vi gây hậu quả trái pháp luật là
nguyên nhân dẫn đến quyền đó bị triệt tiêu. Người thừa kế có hành vi cố ý
giết người để lại di sản, hành hạ, ngược đãi người để lại di sản, xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản và đã bị Tòa án kết án về những
hành vi cố ý đó thì bị tước quyền thừa kế của người để lại di sản. Các tội này
đã được quy định tại Chương XII (các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người) và Điều 151 (tội ngược đãi hoặc hành hạ
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình) Bộ
luật hình sự năm 1999.
Như vậy, ta có thể kết luận: Điều kiện chính đặt ra trong trường hợp này
đó là phải có một bản án có hiệu lực pháp luật. Pháp luật luôn bảo vệ quyền
lợi chính đáng cho mọi người nhưng những ai có hành vi cố ý tước đoạt tính
mạng của người để lại di sản một cách trái pháp luật thì pháp luật quy định họ
không có quyền thừa kế di sản của người để lại di sản. Với quy định “hành vi
cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe” điều đó cũng có nghĩa rằng nếu một
người chỉ bị kết án về hành vi vô ý làm chết người thì không bị tước quyền
thừa kế. Bên cạnh đó, người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
không bị kết án thì không bị ràng buộc bởi điều luật này. Người có hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ, đối xử tàn tệ hoặc đày đọa về thể xác, tinh
thần người để lại di sản thì bị tước quyền hưởng thừa kế di sản người bị
ngược đãi, hành hạ đó. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến danh
dự, nhân phẩm của người để lại di sản đã biết hành vi của mình là trái pháp
luật nhưng vẫn thực hiện hành vi để đạt được mục đích của mình thì không có
quyền nhận di sản thừa kế của người để lại di sản.
Thứ hai là “người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại
di sản”.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa người để lại di sản với người thừa
kế theo pháp luật khi người để lại di sản còn sống. Quan hệ nuôi dưỡng phổ

7


biến nhất là quan hệ giữa những người trong gia đình: cha mẹ - con cái, vợ chồng, anh chị em ruột với nhau, ông bà nội ngoại với các cháu… Theo Điều
152 BLHS: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để
thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo
quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc chốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà
còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc
phạt tù từ hai tháng đến ba năm”. Điều đó nghĩa là những người vi phạm điều
này sẽ vừa phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình, vừa bị tước
quyền hưởng thừa kế theo pháp luật dân sự.
Người bị coi là có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng là
người được pháp luật hôn nhân và gia đình xác định là có nghĩa vụ nuôi
dưỡng người để lại di sản nhưng họ không thực hiện nghĩa vụ đó. Theo quy
định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (LHNGĐ 2000) thì người
thừa kế được xác định là người có nghĩa vụ cấp dưỡng người để lại di sản
trong những trường hợp sau:
a. Người để lại thừa kế là cha, mẹ của họ:
Khoản 2 điều 36 LHNGĐ 2000: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong
trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ”.
Nghĩa là bổn phận và nghĩa vụ của con cái là phải chăm sóc, nuôi dưỡng
cha mẹ trong mọi trường hợp, bất kể tình trạng kinh tế và sức khỏe của cha
mẹ như thế nào. Do đó, nếu con cái không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng cha
mẹ trong mọi trường hợp thì khi cha, mẹ chết, theo pháp luật đương nhiên
người con đó không được hưởng di sản thừa kế của cha, mẹ theo pháp luật và
kể cả nếu cha, mẹ có di chúc lại cho người con đó được hưởng di sản thừa kế
của cha, mẹ thì pháp luật cũng tước đi quyền hưởng di sản đó.

8


b. Người để lại thừa kế là con của họ:
Cha mẹ chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con khi con chưa thành
niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (khoản 1 điều 36
LHNGĐ 2000). Do đó, cha mẹ luôn là người thừa kế theo luật đối với di sản
do con để lại. Tuy nhiên, cha mẹ sẽ không được hưởng thừa kế theo pháp luật
đối với di sản của con nếu cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con
khi người con đó trong tình trạng nêu trên.
Tương tự như vậy, một người khi đã có đủ năng lực hành vi dân sự hoặc
trên 15 tuổi nhưng có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ có thể lập di
chúc để định đoạt tài sản. Do đó, cha mẹ có thể là người thừa kế theo di chúc
của con trong ba trường hợp sau: con đã thành niên có năng lực hành vi dân
sự, con đã tròn 15 tuổi, con đã thành niên nhưng tàn tật (không mất năng lực
hành vi dân sự) lập di chúc và chỉ định cha, mẹ là người thừa kế di sản của
người con đó. Trong đó, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con trong hai
trường hợp là: con đã tròn 15 tuổi hoặc con đã thành niên nhưng tàn tật
(không mất năng lực hành vi dân sự). Như vậy, chỉ có thể tước quyền hưởng
di sản theo di chúc của cha, mẹ đối với di sản thừa kế của con nếu họ không
thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con trong hai trường hợp đã nêu.
c. Người để lại thừa kế là anh, chị hoặc em của họ:
Điều 48 LHNGĐ 2000: “Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm
sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong
trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con”.
Theo như điều luật trên, trong trường hợp anh chị hoặc em của người để
lại di sản không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng với người để lại di sản trong
trường hợp nêu trên thì họ không có quyền được thừa kế di sản do anh, chị

9


hoặc em họ để lại theo di chúc lẫn pháp luật (chỉ trong trường hợp hàng thừa
kế thứ nhất không còn ai sống).
d. Người để lại thừa kế là ông, bà của họ:
Khoản 2 điều 47 LHNGĐ 2000 “Cháu có bổn phận kính trọng, chăm
sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại”.
Như vậy, nếu người thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật là
cháu mà không thực hiện nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà thì họ không có
quyền hưởng di sản do ông bà để lại. Cũng như phải có bổn phận kính trọng,
chăm sóc ông bà. Điều này cũng có ý nghĩa tương đương như điều 48
LHNGD 2000.
e. Người để lại thừa kế là cháu của họ:
Khoản 1 điều 47 LHNGĐ 2000 quy định: “Ông bà nội, ông bà ngoại có
nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và
nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc
cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi
dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật này thì ông bà nội, ông bà ngoại
có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu”.
Trong trường hợp này, khi mà người để lại di sản là cháu và ở tình trạng
trên mà ông, bà là người thừa kế nhưng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng
cháu thì họ sẽ không được quyền hưởng di sản thừa kế của cháu. Tuy nhiên,
trong thực tế có những trường hợp cháu có đủ năng lực hành vi dân sự để lập
di chúc và trong di chúc đó, ông, bà là người được chỉ định hưởng di sản thừa
kế nhưng sau đó vì những lí do khách quan lẫn chủ quan mà người cháu lại
lâm vào tình trạng cần được nuôi dưỡng và ông, bà là người có nghĩa vụ đó
nhưng lại không thực hiện thì ông, bà cũng không được hưởng di sản theo di
chúc của cháu theo pháp luật đã quy định tại khoản 1 điều 47 LHNGĐ 2000.

10


f. Người để lại thừa kế là vợ hoặc chồng của họ:
Luật hôn nhân gia đình 2000 không xác định nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa
vợ chồng mà chỉ xác định nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau sau khi họ ly hôn.
Trong trường hợp vợ chồng đã được tòa án cho ly hôn bằng một bản án đã có
hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì người kia không còn là người thừa kế
theo pháp luật của người chết nữa, nhưng họ vẫn có thể là người thừa kế theo
di chúc. Trong trường hợp này, nếu sau khi ly hôn, người còn sống (chồng
hoặc vợ) có nghĩa vụ cấp dưỡng người để lại di sản theo di chúc mà vi phạm
nghĩa vụ đó thì cũng sẽ bị tước quyền hưởng di sản theo di chúc.
Nghĩa vụ cấp dưỡng nhau giữa những người thân do pháp luật quy định
nếu vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng là vi phạm pháp luật. Do vậy, người vi
phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản mà bị kết án về hành vi đó sẽ
không có quyền thừa kế di sản của người để lại di sản.
Thứ ba: người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa
kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa
kế đó có quyền hưởng.
Cũng giống như ở trường hợp thứ nhất, trong trường hợp này, người không
được quyền hưởng di sản là người đã có hành vi “cố ý xâm phạm đến tính
mạng người thừa kế khác” do mưu đồ chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di
sản thừa kế mà người thừa kế khác có quyền được hưởng. Trong trường hợp
này cũng cần một bản án có hiệu lực pháp luật liên quan đến việc phạm tội để
đương sự không có quyền hưởng di sản. Ngoài ra, việc đưa ra áp dụng quy tắc
này còn tùy thuộc vào việc có chứng minh được hay không động cơ phạm tội
nhằm hưởng một phần hay toàn bộ phần di sản mà người thừa kế có tính
mạng bị xâm hại được hưởng nếu còn sống. Theo quy định trên thì một người
bị kết án về hành vi cố ý giết hại người thừa kế khác với mục đích chiếm đoạt
di sản của người thừa kế đó có quyền hưởng thì bị tước quyền thừa kế. Nhưng

một người chỉ bị kết án về hành vi cố ý giết hại người thừa kế khác mà không
11


nhằm mục đích chiếm đoạt di sản của người thừa kế đó có quyền hưởng thì
không bị tước thừa kế. Hoặc là một người chỉ bị kết án vì hành vi vô ý làm
chết người thừa kế khác cũng không bị tước quyền thừa kế.
Mặt khác, người thừa kế theo nguyên tắc tại Điều 635 BLDS năm 2005 phải
còn sống vào thời điểm mở thừa kế, phải thỏa mãn một trong ba mối quan hệ
là căn cứ xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật của người để
lại di sản. Do vậy mà “những người thừa kế khác” ở đây chỉ có thể là những
người thừa kế cùng được hưởng di sản theo di chúc chứ không phải là người
thừa kế theo pháp luật. Hành vi cố ý giết người xảy ra sau khi người để lại di
sản chết, người có hành vi cố ý giết người nhằm mục đích chiếm đoạt phần di
sản thừa kế của người thừa kế bị giết có quyền được hưởng bị tước đoạt
quyền được thừa kế của người để lại di sản
Thứ tư. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di
sản trong việc xác lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di
chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để
lại di sản.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình
cho người khác sau khi chết. Vì di chúc là sự thế hiện ý chí của người có di
sản nên được pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo vệ ý chí của người lập di
chúc. Việc lập di chúc là việc làm nhân văn, không chỉ thể hiện tình cảm và
nguyện vọng của chúng ta trước lúc qua đời mà còn tránh cho những người
thân thích còn sống phát sinh những mâu thuẫn không đáng có. Một di chúc
được coi là hợp pháp phải hội đủ các điều kiện sau đây: (*) người lập di chúc
minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc
cưỡng ép; (**) nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; và
(***) hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật. Di chúc phải được

lập thành văn bản, hoặc có thể di chúc miệng trong các trường hợp đặc biệt.
12


Sự tự do về mặt ý chí trong khi lập di chúc của người có tài sản là một
quyền được pháp luật bảo hộ. Do đó, những hành vi cản trở đối với người lập
di chúc là hành vi trái pháp luật và những người này rất có thể sẽ bị tước
quyền hưởng di sản thừa kế của người để lại di sản. Theo điểm d khoản 1
Điều 643 BLDS có thể thấy:
− Người có hành vi giả mạo di chúc được hiểu là người có hành vi mạo
danh người để lại di chúc, lập một bản di chúc không theo ý chí của người để
lại di sản hoặc làm cho những người thừa kế khác tưởng rằng người chết có
để lại di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản. Người thực hiện
hành vi này có thể là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản, có
thể là người ngoài diện thừa kế theo pháp luật và có tên trong di chúc được
lập do lừa dối mà có được. Với trường hợp thứ nhất, người thực hiện hành vi
lừa dối là người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản thì dĩ nhiên tòa
án sẽ tuyên bố tước bỏ quyền hưởng thừa kế theo pháp luật của người đó với
di sản của người chết. Ở trường hợp còn lại, người thực hiện hành vi lừa dối
là người ngoài diện thừa kế theo pháp luật và có tên trong di chúc thì tòa án sẽ
tuyên di chúc vô hiệu và di sản được chia cho những người thừa kế theo pháp
luật.
− Hành vi cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc là
hành vi tác động đến tâm lý, tinh thần của người để lại di sản buộc họ phải lập
một di chúc để định đoạt di sản của mình trái với ý nguyện đích thực của họ.
− Hành vi sửa chữa di chúc là hành vi của một người trong việc thay đổi
một phần hoặc toàn bộ nội dung của di chúc với mục đích nhằm hưởng phần
di sản nhiều hơn so với phần di sản mà người lập di chúc định đoạt cho mình
hoặc nhằm hưởng toàn bộ di sản của người lập di chúc.
− Người có hành vi giả mạo di chúc được hiểu là người có hành vi lập

một di chúc mạo danh người để lại di sản khiến cho những người khác tưởng
lầm rằng người chết có để lại di chúc (mặc dù người chết không hề để lại di
13


chúc) nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để
lại di sản.
− Hủy di chúc là hành vi của người đã tiêu hủy di chúc của người để lại
di sản làm cho những người thừa kế khác tưởng rằng người chết không để lại
di sản hoặc theo mong muốn có lợi cho người có hành vi hủy di chúc đó.
Tuy nhiên, pháp luật luôn luôn tôn trọng ý chí của người để lại di sản,
cụ thể, theo khoản 2 Điều 643 BLDS thì những người có hành vi vi phạm vẫn
có thể được hưởng di sản theo di chúc nếu người để lại di sản biết hành vi của
họ mà vẫn thể hiện ý chí là cho những người này được hưởng trong di chúc.
II. TRANH CHẤP THỰC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI KHÔNG
ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THEO PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT
1. Tranh chấp thực tế
Vụ án tranh chấp quyền thừa kế quyền sử dụng đất và nhà ở tại Trần
Cao Vân, thành phố Đà Nẵng.
Năm 1955, Vợ chồng ông Võ Văn Khôi và bà Bùi Thị Út, sống tại Cầu
Đỏ, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Có hai con là bà Võ Thị Xuân và bà Võ
Thị Hương. Năm 1970, ông Khôi sống chung với bà Nguyễn Thị Liễu và có 2
người con là Nguyễn Thị Thu và Võ Ngọc Thanh.
Ngôi nhà số 189 (số mới) 79 (số cũ) tại Trần Cao Vân - Đà Nẵng, hiện
ông Khôi đang quản lý do bà Út mua vào năm 1968 ( lúc này ông Khôi đang
sống với bà). Năm 1989, UBND TP Đà Nẵng công nhận quyền sở hữu ngôi
nhà trên đứng tên bà Bùi Thị Út. Năm 1978 bà Liễu chết, ông Khôi đưa các
con về sống chung lại với bà Út tại ngôi nhà số 189 (số mới) 79 (số cũ) tại
Trần Cao Vân - Đà Nẵng. Bà Út và các con riêng của chồng sống với nhau rất

tốt. Năm 1990, bà Bùi Thị Út chết. Tháng 9-2006, bà Võ Thị Xuân yêu cầu
Tòa án chia thừa kế theo di chúc của bà Bùi Thị Út để lại ngày 22-5-1984.
Trong bản di chúc bà Út để lại di sản thừa kế cho 4 người con gái và 2 cháu
14


trai. Về phía bị đơn và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan cho rằng:
Bản di chúc do bà Xuân xuất trình là giả mạo và yêu cầu chia thừa kế theo
luật. Và theo Thông báo ngày 28-2-2007 của Tổ chức giám định Công an TP
Đà Nẵng đã xác định “chữ ký và con dấu của người xác thực di chúc là giả”
Trong vụ án :
− Nguyên đơn : Bà Võ Thị Xuân.
− Bị đơn : Ông Võ Ngọc Khôi.
Như vậy, trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế tuân theo pháp
luật vì bà Bùi Thị Út không để lại di chúc hoặc di chúc bị thất lạc.
Tòa án nhân dân quận TK đã xử và quyết định:
1. Bác toàn bộ yêu cầu đòi chia di sản và tước quyền thừa kế theo luật
của bà Võ Thị Xuân đối với di sản.
2. Công nhận sự thỏa thuận về việc chia di sản thừa kế như sau:
44,21m2 đất tại số 189 Trần Cao Vân có giá trị 120.000.000đ là di sản thừa
kế do bà Bùi Thị Út để lại được giao ông Võ Ngọc Khôi quản lý sử dụng và
ông Nguyễn Văn Nghĩa từ chối nhận di sản thừa kế nên ông Khôi phải trích
trả kỉ phần thừa kế cho những người sau: Trả cho ông Võ Ngọc Thanh, bà
Nguyễn Thị Thu, bà Võ Thị Hương mỗi người là 30.000.000đ.
Trong tình huống trên, ta thấy được rằng bà Xuân đã có hành vi cung
cấp di chúc giả được xác nhận theo thông báo của Tổ chức giám định Công an
thành phố Đà Nẵng “chữ kí và con dấu của người xác thực di chúc là giả”.
Như vậy theo quy định của pháp luật thì bà Bùi thị Út chết không để lại di
chúc và di sản của bà Út sẽ được chia theo pháp luật. Tuy nhiên, bà Xuân đã
có hành vi “sử dụng” di chúc giả, từ chi tiết này em nhận thấy vẫn còn khúc

mắc trong vụ án mà toà án chưa giải quyết một cách minh bạch rõ ràng. Đó là
về ý thức chủ quan của bà Xuân khi sử dụng di chúc giả, ở đây là ý nghĩa
hành vi của bà Xuân là do là vô ý hay cố ý sử dụng bản di chúc giả đó nhằm
chiếm một phần hoặc toàn bộ di sản. Nếu xác định được bà Xuân cố ý lập di
15


chúc giả nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản của bà Út thì căn cứ theo
điểm d khoản 1 Điều 643 BLDS: “Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc
ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo, hủy di chúc, sửa
chữa di chúc, nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của
người để lại di sản", bà Xuân sẽ bị tước quyền hưởng di sản và bản án sơ
thẩm của Tòa án nhân dân quận TK đã xử lý chính xác. Nhưng nếu trong
trường hợp bà Xuân không cố ý đưa ra di chúc giả, nghĩa là bản di chúc đó là
giả nằm ngoài nhận biết của bà Xuân, bản thân bà không biết nó là giả và tin
nó là di chúc thật thì ta không thể tước quyền thừa kế của bà Xuân. Toà án
cần xử lý xác đáng và rõ ràng hơn tránh gây hiểu nhầm.
2. Thực tiên áp dụng điều 643 BLDS và hướng hoàn thiện pháp luật về
người không được quyền hưởng di sản.
Trong đời sống xã hội, có nhiều trường hợp người thừa kế vi phạm khoản 1
Điều 643 BLDS và bị tước quyền thừa kế. Quy định “người không có quyền
hưởng di sản” này hoàn toàn phù hợp với đạo lý, phong tục tập quán của
nhân dân ta. Tuy nhiên, trong điều luật trên có một số điểm chưa đầy đủ, rõ
ràng, cụ thể dẫn đến việc áp dụng giải quyết các tranh chấp về thừa kế không
thống nhất.
Qua tìm hiểu và thực hiện đề tài “Hoàn thiện pháp luật về người không được
quyền hưởng di sản ” em có một số ý kiến đóng góp và nhận xét như sau:
Thứ nhất, theo quy định của pháp luật thì một người chỉ có thể bị tước quyền
hưởng di sản theo pháp luật khi đã có một bản án của Tòa án kết án về hành
vi của họ, vấn đề ở đây là trong điều luật không nói rõ là “đã từng bị kết án”

hay “bị Tòa án kết án và vẫn còn án tích” bởi theo quy định của Điều 63
BLHS năm 1999 “người được xóa án tích coi như chưa bị kết án và được Tòa
án cấp giấy chứng nhận”. Theo đó, nếu như hiểu các trường hợp quy định tại
khoản 1 Điều 643 BLDS áp dụng cho các trường hợp đã từng bị kết án về
hành vi vi phạm của mình thì cho dù họ đã được xóa án tích thì họ vẫn bị tước
16


quyền hưởng di sản, nếu hiểu theo nghĩa là bị Tòa án kết án và vẫn còn án
tích thì họ sẽ chỉ bị tước quyền hưởng di sản khi còn mang án tích và đương
nhiên họ cũng sẽ được khôi phục lại quyền hưởng thừa kế của mình khi họ đủ
điều kiện để được xóa án tích.
Thứ hai là về việc có nên tính người bị tước quyền hưởng di sản là một
nhân suất khi tính một suất thừa kế theo pháp luật không? Suy nghĩ về quan
điểm này, em đồng ý khi cho rằng, họ là những người lẽ ra được hưởng di sản
nhưng do có những hành vi trái đạo đức, trái pháp luật nên đã bị tước đi
quyền hưởng di sản. Vì thế nên họ không còn là người thừa kế theo pháp luật
của người để lại di sản. Vì lẽ đó ta không được tính họ vào nhân suất để xác
định một suất theo luật. Bởi lẽ cách tính một suất thừa kế là trong trường hợp
không có di chúc, tức là chia di sản theo pháp luật, mà họ là những người
không có quyền hưởng di sản theo pháp luật tức là bị pháp luật tước quyền
hưởng thừa kế, nếu di sản được chia theo pháp luật thì họ không có quyền
hưởng. Do đó, ta không nên tính những người đó là một nhân suất khi xác
định một suất thừa kế theo pháp luật.
Thứ ba, tại điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 có quy định về người
không được quyền hưởng di sản: “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng
người để lại di sản”. Theo quy định này, trong trường hợp người thừa kế đã bị
kết án về hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản thì người đó sẽ không được quyền hưởng di sản. Tuy nhiên, việc xác định
được một người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người

để lại di sản không thì còn phải xác định điều kiện, khả năng kinh tế của
người thừa kế đó có đủ khả năng để có thể nuôi dưỡng được người để lại di
sản hay không. Hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng cha, mẹ phải được tòa
án xác định là nghiêm trọng. Việc xác định thế nào là vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ nuôi dưỡng của Tòa án còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất bởi chưa
17


có văn bản nào hướng dẫn một cách đầy đủ, cụ thể về việc thế nào được coi là
vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Do vậy, Tòa án chính là nơi xác định một
người có vi phạm nghĩa vụ đối với người để lại di sản hay không? Có bị tước
quyền thừa kế hay không? Từ đó dẫn đến sự thiếu thống nhất trong các quy
định của Tòa án. Mặt khác, trong luật cũng chưa xác định rõ về đối tượng
người thừa kế phải nuôi dưỡng người để lại di sản. Vậy người thừa kế là cháu
có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản là cô, dì, chú, bác hay không và
ngược lại cô, dì, chú, bác là người thừa kế có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu là
người để lại di sản hay không. Nếu có thì phải nuôi dưỡng trong điều kiện
nào? Do đó, trong điều luật này cần phải quy định rõ ràng hơn về vấn đề để
tránh tình trạng hiểu sai.
Thứ tư, ở điểm a khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 quy định người thừa kế
không có quyền hưởng di sản thì phải bị Tòa kết án. Nhưng thực tế, không
phải mọi hành vi vi phạm đều được đưa ra xét xử và có quyết luận của Tòa
án, nhất là các hành vi bạo lực gia đình, nó sẽ thường bị giấu kín do nhiều
nguyên nhân. Do vậy, chỉ những hành vi được Tòa án xác định bằng một bản
án, có lẽ sẽ là điểm thiếu sót của quy định pháp luật.
Thứ năm, về quy định tại khoản 2 Điều 643 BLDS năm 2005: “Những người
quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di
sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di
chúc”. Như vậy, nếu hành vi trái pháp luật của người thừa kế xảy ra trước,
người để lại di sản biết được nhưng vẫn lập di chúc cho người thừa kế đó

hưởng di sản thì người đó vẫn có quyền hưởng di sản. Tuy nhiên, nếu người
để lại di sản có lập di chúc cho người đó hưởng di sản nhưng lại không biết
hành vi của người thừa kế đó thì người này không có quyền hưởng di sản.
Trong tình huống này, việc xác định người lập di chúc biết hay không biết
hành vi trái pháp luật của người thừa kế theo di chúc là một yếu tố quan
trọng trong việc xác định người thừa kế có hành vi đó có được hưởng di sản
hay không? Trong thực tế, việc chứng minh được rằng người để lại di sản khi
18


lập di chúc đã biết hành vi vi phạm pháp luật của người thừa kế không dễ
dàng. Nên pháp luật cần quy định rằng trong di chúc, người lập di chúc cần
viết rõ ràng việc mình đã biết hành vi vi phạm của người thừa kế nhưng vẫn
cho người đó được hưởng di sản
Thứ sáu, tại điểm d khoản 1 Điều 643 BLDS quy định là chỉ tước quyền thừa
kế đối với người giả mạo, sửa chữa di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn
bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản mà không có quy định khi họ
có hành vi như vậy không nhằm mục đích cho người khác hưởng một phần
hoặc toàn bộ di sản thì có bị tước quyền hưởng di sản hay không cho một
người thừa kế nào đó được hưởng di sản. Nên cũng cần bổ sung thêm quy
định tước quyền thừa kế của những đối tượng trên vì họ đã có hành vi trái
pháp luật và làm trái với ý chí của người để lại di sản
Thêm vào đây là theo ý kiến của TS. Nguyễn Minh Tuấn, trường đại
học Luật Hà Nội thì “ngoài các hành vi được quy định trong khoản 1 Điều
643 BLDS, cần phải xem xét một hành vi nguy hiểm của người thừa kế khác
như hành vi che giấu tội giết người để lại di sản. Khi người thừa kế biết rõ
ràng là người thừa kế khác giết người để lại di sản nhưng không tố giác
hành vi đó mà còn che giấu tội phạm đặc biệt nguy hiểm. Hành vi của người
thừa kế không những vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà còn vi phạm đạo
đức xã hội. Người đã thực hiện hành vi che giấu tội phạm xâm phạm tính

mạng của người để lại di sản thừa kế nên không xứng đáng nhận di sản của
người đó để lại”. Em nghĩ chúng ta ai cũng có thể thấy rằng đây là vấn đề liên
quan đến pháp luật mà người vi phạm không trực tiếp xâm phạm tính mạng
người để lại di sản nên không đến mức phải tước quyền thừa kế của họ. Chính
bởi những người trong diện được hưởng thừa kế thường có quan hệ gần gũi
với nhau như bố mẹ - con cái, vợ - chồng, anh, chị - em,… nên việc không tố
giác hành vi xâm phạm có thể không bị coi là phạm tội theo quy định của
BLHS. Lẽ đơn giản vì ai cũng là con người, có cảm xúc và mối quan hệ gắn
19


bó với nhau, pháp luật tuy nghiêm khắc và phải khách quan nhưng cũng là
những điều được tạo ra để bảo vệ mối quan hệ giữa con người với con người
cho nên cũng cần xét đến cảm tính để có những quyết định cuối cùng vừa hợp
tình, vừa hợp lý.
C. KẾT LUẬN
Việc xác định người không được quyền hưởng di sản là vấn đề quan trọng
trong khi chia thừa kế đối với di sản của người chết. Cùng những hiểu biết về
vấn đề này sẽ giúp cho Tòa án, cá nhân có thẩm quyền có những phán xử vừa
chính xác đúng với quy định của pháp luật vừa phù hợp với đạo đức xã
hội.Trong giai đoạn hiện nay, các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày
càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn. Đặc biệt, một trong những khó khăn
vướng mắc lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh
chấp thừa kế chính là vấn đề xác định sao cho đúng người thừa kế, một người
có quyền hưởng di sản không những ảnh hưởng lớn đến ý chí của người để lại
thừa kế mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của người thừa kế. Chính vì vậy, cần
phải hoàn thiện hơn nữa quy định về “người không được quyền hưởng di sản.

20



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (Tập 1),
Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Bộ luật Dân sự năm 2005.
3.Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb.Hà Nội, Hà Nội, 2008
4.Phùng Trung Tập, Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm
1945 đến nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004
5. Nguyễn Ngọc Điện, Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Trẻ, TP. HCM, 2001
6. Nguyễn Minh Tuấn, Pháp luật thừa kế Việt Nam - những vấn đề lí luận
và thực tiễn, Nxb. Lao động xã hội, 2009.
7. Phạm Văn Tuyết, Thừa kế- quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007
8. Trần Thị Huệ, “Di sản thừa kế”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội.
9. Phan Thị Kim Chi, “Diện và hàng thừa kế theo quy định của BLDS năm
2005”, Luận án thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
10. Các website:



21


MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.......................................................................................1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG.........................................................1

1. Khái quát về thừa kế.....................................................................................1
2. Quy định người không có quyền hưởng di sản của pháp luật Việt Nam
trước BLDS năm 2005......................................................................................3
3. Những người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều
643 BLDS năm 2005.........................................................................................5
II. TRANH CHẤP THỰC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC
HƯỞNG DI SẢN THEO PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT...................................................................................................................14
1. Tranh chấp thực tế......................................................................................14
2. Thực tiên áp dụng điều 643 BLDS và hướng hoàn thiện pháp luật về
người không được quyền hưởng di sản.........................................................16
C. KẾT LUẬN........................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................21



×