Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Các điều kiệncó hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành– Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.22 KB, 23 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Từ xa xưa, hợp đồng dân sự vốn đã là một phương thức cơ bản để xác định các
chủ thể thực hiện việc lưu thông và trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Trong nền kinh tế
hàng hóa và sự giao lưu kinh tế trên phạm vi toàn thế giới thì hợp đồng dân sự càng
có một vai trò quan trọng. Một hợp đồng dân sự chỉ có giá trị bắt buộc thi hành đối
với các bên khi có hiệu lực pháp luật. Hợp đồng dân sự để có hiệu lực cần có những
điều kiện nhất định, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là tổng hợp những yêu cầu
pháp lí nhằm đảm bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó. Các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng góp phần nâng cao ý thức cuả các chủ thể tham
gia vào quan hệ hợp đồng, giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá
trình giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham
gia vào quan hệ hợp đồng và tạo nên sự bình đẳng trong giao lưu dân sự. Tuy nhiên
trên thực tế các vấn đề về điều kiện vẫn chưa được tuân thủ chặt chẽ nên có nhiều
tranh chấp giữa các bên trong giao kết hợp đồng mà có liên quan đến điều kiện của
hợp đồng. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề em xin chọn đề tài: “Các điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
– Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”

NỘI DUNG
1. Khái quát về hợp đồng dân sự
1.1 Khái niệm và đặc điểm hợp đồng dân sự.
a. Khái niệm
Ở nước ta, hợp đồng dân sự được định nghĩa tại Điều 388 bộ luật Dân sự năm
2005 như sau : “ Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Xét về bản chất, hợp đồng được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả,
của quá trình thương thảo và thống nhất ý chí giữa các bên để phát sinh, thay đổi,
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền và nghĩa vụ mà pháp
luật có quy định là không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng thỏa thuận của các bên.
Xét về vị trí vai trò của hợp đồng, theo nghĩa hẹp, thì hợp đồng là một loại giao dịch
dân sự, là một căn cứ pháp lí làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật dân


sự. Như vậy, hợp đồng là phương tiện pháp lí để các bên tạo lập quan hệ nghĩa vụ. Có
thể nói định nghĩa hàm chứa tất cả các dấu hiệu mang tính bản chất của hợp đồng và


thể hiện rõ chức năng, vai trò của hợp đồng trong việc làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quan hệ pháp luật.
Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lí và thuyết phục nhất ở
Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang tính khái
quát cao, phản ánh đúng bản chất của hợp đồng, vừa thể hiện rõ vai trò của hợp đồng
như là một căn cứ pháp lí ( phổ biến) làm phát sinh, thay đổi , chấm dứt quyền và
nghĩa vụ (dân sự) của các bên.
Hay cụ thể hơn có thể khái niệm về hợp đồng dân sự là : hợp đồng dân sự là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, các nghĩa
vụ dân sự giữa các bên trong quan hệ mua bán, trao đổi, vay, mượn, tặng cho, cho
thuê tài sản làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác
mà trong đó, một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.
b. Đặc điểm của hợp đồng dân sự.
Theo khái niệm tại Điều 388 và các quy định về hợp đồng dân sự trong Bộ luật
Dân sự năm 2005 thì ta thấy hợp đồng dân sự có các đặc điểm sau:
Thứ nhất hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở bình đẳng tự
nguyện.
Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc pháp lí
với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Đặc điểm này cho thấy rằng việc trao đổi
các lợi ích vật chất hoặc dịch vụ chỉ hình thành giữa các bên nếu các bên đã có sự
thỏa thuận thống nhất về điều đó. Nếu chỉ một bên thể hiện ý chí của mình mà không
được bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành một quan hệ để qua đó thực hiện
việc chuyển giao tài sản hoặc thực hiện các công việc đối với nhau được. Nói một
cách khác cơ sở đầu tiên và không thể thiếu để hình thành một hợp đồng dân sự là sự
thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Cũng chính đặc điểm này cho chúng ta
nhận biết rằng nếu các hợp đồng được thiết lập mà thiếu tính tự nguyện của các bên

hoặc của một trong các bên thì hợp đồng có thể bị coi là vô hiệu và không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia hợp đồng.
Thứ hai hợp đồng dân sự là căn cứ làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền
và nghĩa vụ dân sự
Các bên chủ thể khi thiết lập hợp đồng bao giờ cũng hướng tới một hậu quả pháp
lí nhất định. Hậu quả ấy có thể nhằm phát sinh , hay cũng có thể thay đổi, chấm dứt
một quan hệ pháp luật về nghĩa vụ, ( nghĩa vụ theo hợp đồng) để qua đó các bên thực


hiện, thực hiện khác như đã thỏa thuận ban đầu hoặc không thực hiện những nghĩa vụ
đã cam kết với nhau về việc đem lại cho nhau những lợi ích nhất định.
Tuy nhiên hợp đồng dân sự chỉ có hiệu lực pháp luật khi mà ý chí của các bên
phai phù hợp với ý chí của nhà nước. Theo nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
thì các chủ thể được “ tự do, tự nguyện, cam kết thỏa thuận” nhưng sự tự do đó phải
được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích chính đáng
của người khác.
Thứ ba hợp đồng dân sự phải có ít nhất 2 bên chủ thể.
Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì
hợp đồng dân sự là một giao dịch pháp lý song phương hay đa phương. Các chủ thể
khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư cách chủ thể tức là phải đáp ứng các
điều kiện theo quy định của pháp luật đối với một chủ thể của quan hệ dân sự (ví dụ:
nếu chủ thể là cá nhân thì phải đáp ứng được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng
lực hành vi dân sự…
Như vậy một hợp đồng dân sự luôn luôn có các đặc điểm trên và để nhận biết và
phân biệt với các hợp đồng khác như hợp đồng thương mại, hợp đồng kinh tế.
1.2 Khái niệm, ý nghĩa pháp lí của điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân
sự.
a) Khái niệm của điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
Tuy không có khái niệm cụ thể về khái niệm có hiệu lực của hợp đồng dân sự
nhưng từ điển luật học có đưa ra khái niệm về điều kiện có hiệu lực của của giao dịch

dân sự: Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là các yếu tố cần và đủ được pháp
luật quy định cho giao dịch dân sự để giao dịch được pháp luật công nhận và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Theo quy định tại điều 121 Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng dân sự là một loại
giao dịch dân sự nên ta có thể hiểu rằng điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là
những yếu tố cần và đủ được pháp luật quy định cho hợp đồng để hợp đồng đó được
pháp luật công nhận và bảo vệ. Theo đó pháp luật đặt ra những điều kiện nhất định
mà buộc các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng phải tuân thủ để đảm bảo cho hợp
đồng có hiệu lực pháp lí và được nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Như vậy qua đó ta có thể đưa ra khái niệm về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng dân sự là: điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là những điều kiện do


pháp luật quy định mà một hợp đồng muốn phát sinh hiệu lực pháp lí phải thỏa mãn
các điều kiện đó.
Hiện nay việc quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng của mỗi nước là khác
nhau tuy nhiên pháp luật Việt Nam quy định tại Điều 122 và điều 410 Bộ luật Dân sự
năm 2005 và gồm bốn điều kiện sau:
- Thứ nhất về mặt chủ thể: người tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi
dân sự.
- Thứ hai mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật và không trái đạo đức của xã hội.
- Thứ ba người tham gia hợp đồng dân sự phải hoàn toàn tự nguyện
- Thứ tư tuân thủ điều kiện về hình thức của hợp đồng trong trường hợp pháp
luật quy định.
b) Ý nghĩa pháp lí của điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự.
Hợp đồng là kết quả của sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các bên đồng thời là
căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên không phải cứ có sự thỏa thuận
thống nhất ý chí của các bên là có hợp đồng và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân
sự mà nó còn phải là những thỏa thuận hợp pháp. Tức là những thỏa thuận đó còn

phải tuân theo những quy định của pháp luật thì mới có thể có giá trị pháp lí và trở
thành căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự. Vì vậy các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng dân sự có ý nghĩa pháp lí.
- Tạo hành lang pháp lí an toàn cho các chủ thể khi tham gia giao kết
Pháp luật quy định về các điều kiện để các chủ thể tham gia hợp đồng phải tuân
theo đồng thời quy định biện pháp chế tài nếu các bên tham gia không tuân thủ các
điều kiện để hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng dân sự có thể bị vô hiệu, các bên phải
chịu hậu quả pháp luật bất lợi. Quy định này tạo hành lang pháp lí an toàn cho các
chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự. Vì thế chế định pháp lí về hợp đồng dân sự,
trong đó có các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đóng vai trò là công
cụ pháp lí quan trọng bảo đảm an toàn cho các chủ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu trong
sinh hoạt tiêu dùng của họ. Bên cạnh đó còn góp phần nâng cao ý thức của các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ hợp đồng, bởi lẽ họ ý thức được hậu quả pháp lí bất
lợi của việc không tuân thủ các điều kiện do pháp luật quy định để bảo vệ cho chính
mình và cho người khác.


- Là cơ sở pháp lí để giải quyết các tranh chấp xảy ra
Ngày nay việc tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng xảy ra rất nhiều, vì thế
khi quy định về điều kiện của hợp đồng là một căn cứ pháp lí phát sinh không thể
thiếu trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh. Bởi lẽ bên cạnh những
chứng cứ trực tiếp là những thỏa thuận của các bên pháp luật cũng có những quy
định cần thiết để bảo vệ lợi ích của các bên tham gia.
- Góp phần ổn định quan hệ dân sự nói riêng và quan hệ xã hội nói chung
Các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa quan trọng để
cho các chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng nghiêm túc thực hiện, tránh không
vi phạm các quy định của nhà nước. Nếu một trong các bên tham gia mà vi phạm
các quy định đó thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu và phải chịu hậu quả pháp lí bất lợi cho
chính họ, bên có lỗi sẽ phải bồi thường. Điều này có ý nghĩa khắc phục những thiệt
hại do bên vi phạm gây ra cho những bên bị vi phạm, đồng thời còn tạo lên sự công

bằng cho xã hội và cũng là lời cảnh cáo cho các bên chủ thể khi tham gia giao dịch
dân sự tạo thái độ nghiêm túc cho các chủ thể trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật nhằm tạo ra sự ổn định trong giao lưu dân sự, góp phần ổn định quan hệ
sở hữu
2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo pháp luật Việt Nam.
Xuất phát từ bản chất của hợp đồng, pháp luật Việt Nam đã quy định về các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng. Cụ thể hơn là quy đinh trong bộ luật dân sự năm 2005
tại điều 122 và điều 410 thì các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự bao gồm:
điều kiện về chủ thể, ý chí của người tham gia, nội dung mục đích và hình thức được
quy định trong từng trường hợp của hợp đồng.
2.1 Chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự.
Chủ thể của hợp đồng ( hay chủ thể của quan hệ hợp đồng) là những người tham
gia xác lập, thực hiện hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải
chịu trách nhiệm về thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
Để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều quy định
chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu về chủ thể tham gia hợp
đồng có “ năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp
đồng có hiệu lực. Pháp luật Việt Nam qui định chủ thể tham gia giao dịch dân sự
(hợp đồng ) phải có năng lực hành vi dân sự ( điểm a khoản 1 điều 122 BLDS 2005).


Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là cá nhân (con người cụ thể), có thể là pháp
nhân ( một tổ chức tồn tại theo một hình thức nhất định), có thể là tổ hợp tác hoặc hộ
gia đình và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – một chủ thể đặc biệt. Vì
vậy xem xét điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng dân
sự cần xem xét tư cách chủ thể của các loại chủ thể nói trên khi họ tham gia hợp đồng
dân sự.
a) Đối với chủ thể là cá nhân
Cá nhân là chủ thể chủ yếu và thường xuyên của các giao dịch dân sự mà đặc
biệt là hợp đồng dân sự. Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005, để

hợp đồng có hiệu lực thì người tham gia hợp đồng dân sự phải có năng lực hành vi
dân sự. Như vậy điều kiện đặt ra với một cá nhân khi tham gia vào quan hệ hợp đồng
phải có năng lực hành vi dân sự. Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định : “ Năng
lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập,
thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự”. Dựa vào sự phù hợp giữa khả năng nhận thức,
kiểm soát, làm chủ hành vi với các hành vi mà cá nhân thực hiện thì năng lực hành vi
dân sự của cá nhân được xác định theo nhiều mức độ khác nhau như: người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ, người
không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi và người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
Đối với người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 18 và 19
Bộ luật Dân sự năm 2005 là người đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên và có năng
lực dân sự đầy đủ trừ trường hợp bị tòa án tuyên bố bị mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ có toàn quyền tham gia vào mọi giao dịch dân sự để xác định cho mình hoặc
cho người đại diện các quyền và nghĩa vụ dân sự cũng đồng thời phải gánh chịu mọi
trách nhiệm và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lí mà họ thực hiện. Tuy nhiên
không phải cứ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có thể tham gia mọi hợp đồng
dân sự mà pháp luật có quy định hạn chế quyền tự định đoạt của những người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi tham gia vào một số quan hệ hợp đồng nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện như: bán trao đổi, cho thuê,
cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và các giao dịch khác đối với tài sản có
giá trị lớn của người được giám hộ mà không được sự đồng ý của người giám sát việc


giám hộ. Những giao dịch không nằm trong phạm vi thẩm quyền đại diện của người
đại diện. Bên cạnh đó người có năng lực hành vi dân sự có thể ủy quyền cho người
đại diện cho mình tham gia quan hệ hợp đồng trừ trường hợp pháp luật quy định họ
phải tự mình xác lập thực hiện hợp đồng đó.
Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người đã có một phần năng lực

hành vi dân sự những chưa đủ họ mới chỉ nhận thức được phần nào đó hành vi của
mình. Do đó người chưa thành niên khi xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự phải đòi
hỏi có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ những hợp đồng được xác lập
nhằm phục vụ những nhu cầu hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy
định khác ( Điều 20 BLDS). Tuy nhiên pháp luật cũng quy định trường hợp riêng
cho những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi mà tham gia các hợp đồng dân sự
không mang tính chất phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày thì chỉ được coi là có
năng lực hành vi dân sự để tham gia hợp đồng đó nếu cá nhân đó có đủ tài sản riêng
để thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
Đối với người hạn chế năng lực hành vi dân sự thì các giao dịch liên quan đến
tài sản của họ phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật và trừ các giao
dịch phục vụ nhu cầu hàng ngày ( Điều 23 BLDS). Như vậy cá nhân là người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự cũng có thể là chủ thể tham gia hợp đồng dân sự nhưng
những hợp đồng ấy chỉ nhằm phục vụ nhu cầu hàng ngày của họ còn những hợp đồng
được xác lập mà liên quan đến tài sản có giá trị lớn của họ thì phải có sự đồng ý của
người đại diện.
Đối với người dưới 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự không có khả
năng thiết lập hợp đồng. Trong trường hợp cần thông qua hợp đồng để đáp ứng nhu
cầu cho những người này thì người đại diện theo pháp luật của họ sẽ thay họ thiết lập
và thực hiện hợp đồng dân sự.
Như vậy đối với người bị mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, người chưa thành niên, người không có năng lực hành vi dân sự
khi tham gia, xác lập thực hiện hợp đồng dân sự phải có người đại diện theo pháp
luật. Tuy nhiên đối với người hạn chế năng lực hành vi dân sự và những người chưa
thành niên thì người đại diện của họ chỉ có quyền “đồng ý” hay không “ đồng ý” cho
họ tham gia vào các giao dịch chứ không phải quyền trực tiếp xác lập thực hiện hợp
đồng dân sự như là người không có hoặc mất năng lực hành vi dân sự.


Đó là những quy định của pháp luật với các cá nhân là người Việt Nam, tuy

nhiên nhà nước ta cũng quy định các cá nhân là người nước ngoài ( cả người không
có quốc tịch và người có quốc tịch nước ngoài) cũng là chủ thể của hợp đồng dân sự.
Theo quy định tại Điều 762 BLDS năm 2005 trong trường hợp người nước ngoài xác
lập thực hiện các giao dịch tại Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người đó
được xác định theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Trong thực tiễn pháp luật Việt Nam các tranh chấp về hợp đồng về mặt chủ thể
là không nhiều, ví dụ như bản án số 01/2006/DSST ngày 21 tháng 2 năm 2006 của
Tòa án nhân dân huyện VC tỉnh Yên Bái, Tòa đã tuyên hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất giữa anh Th và ông C là vô hiệu do ông C là người mất năng lực trách
nhiệm và năng lực hành vi dân sự. Hợp đồng chuyển nhượng này đã kí kết với một
chủ thể không đủ điều kiện về năng lực hành vi dân sự mà không có sự tham gia của
người đại diện (Bản án số 08 – luật hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận bản án)
Vì vậy với các hợp đồng mà được kí kết do chủ thể không đáp ứng được các quy định
về điều kiện chủ thể thì sẽ bị tuyên bố vô hiệu và sẽ được áp dụng xử lí khi hợp đồng
vô hiệu
b) Đối với chủ thể là pháp nhân
Pháp nhân là chủ thể của hợp đồng dân sự. Điều 84 BLDS quy định một tổ chức
được thừa nhận là pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự với tư cách
là một chủ thể độc lập thì phải có các điều kiện: được thành lập hợp pháp, có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luạt dân sự, có năng lực chủ thể
mang tính chuyên biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với
mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích và phạm vi hoạt động của
pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết định thành lập của pháp nhân
(Điều 88 BLDS ).
Pháp nhân khi tham gia vào giao kết hợp đồng dân sự phải thông qua hành vi
của người đại diện. Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật có thể
đại diện theo ủy quyền ( khoản 1 Điều 91 BLDS). Đại diện theo pháp luật của pháp

nhân là người được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành


lập pháp nhân đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân khi thực hiện hành vi
đại diện cho pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác thay mình tham gia kí kết
hợp đồng dân sự.
Theo pháp luật thực định, để hợp đồng có có giá trị pháp lí người đại diện phải
giao kết hợp đồng đúng thẩm quyền. Khi một hợp đồng được giao kết bởi một người
đại diện hợp pháp và trong phạm vi đại diện thì hợp đồng đó có giá trị. Ví dụ ngày 64-2005 công ty TNHH. HQ và công ty Hai Th có kí 2 hợp đồng. Theo tòa án TP các
hợp đồng trên đã được đại diện có thẩm quyền của hai bên kí kết phù hợp với giấy
đăng kí kinh doanh của các bên nên có giá trị pháp lí ràng buộc các bên thực hiện hợp
đồng ( Theo Bản án số 315/2005/KDTM-ST ngày 26-10-2005 của Tòa án nhân dân
TP). Tuy nhiên trường hợp vượt quá ủy quyền thể hiện trong vụ án tại Quyết định số
03/2004/ HĐTP-KT ngày 26-2-2004 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối
cao, Tòa án nhận định ông C đã vượt quá giới hạn ủy quyền. Thực tế là theo tòa án
việc ông C mang tài sản là căn nhà số A8 đường SVH quận X, Thành phố Hồ Chí
Minh không phụ thuộc sở hữu đi bảo lãnh cho công ty TNHH LG vay tiền của ngân
hàng CL là vượt quá giới hạn ủy quyền và vi phạm pháp luật nên tòa án tuyên Hợp
đồng vay vô hiệu.
c) Đối với tổ hợp tác, Hộ gia đình
Tổ hợp tác, và hộ gia đình cũng là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự là một
chủ thể có thể được tham gia hợp đồng dân sự. Hộ gia đình là chủ thể hạn chế của
Luật Dân sự. Hai loại chủ thể này tham gia các giao dịch phù hợp với phạm vi hoạt
động của nó. Phạm vi hoạt động của tổ hợp tác được thể hiện trong hợp đồng hợp tác
(Điều 111 BLDS), phạm vi hoạt động của hộ gia đình do pháp luật quy định ( Điều
106 BLDS).
Hai chủ thể này tham gia hợp đồng dân sự thông qua hành vi của người đại diện
theo pháp luật hoặc theo ủy quyền.
Đối với tổ hợp tác người đại diện theo pháp luật của tổ hợp tác là tổ trưởng tổ
hợp tác đó, người này đại diện cho tổ hợp tác tham gia các hợp đồng dân sự nhằm

đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của tổ hợp tác theo các lĩnh vực mà tổ hợp tác
đã xác định trong hợp đồng hợp tác. Người đại diện theo ủy quyền của tổ hợp tác là
thành viên của tổ hợp tác được tổ trưởng tổ hợp tác ủy quyền, người này đại diện cho


tổ hợp tác để tham gia các hợp đồng dân sự trong phạm vi đã được tổ trưởng tổ hợp
tác ủy quyền.
Đối với hộ gia đình tham gia các hợp đồng dân sự thông qua hành vi của người
đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền. Người đại diện theo pháp luật của hộ gia
đình là chủ hộ gia đình đó. Người đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình là thành
viên đã thành niên của hộ gia đình đó được chủ hộ ủy quyền.
Như vậy, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải có
năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà chủ thể
đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp đồng thông
qua người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng “ phạm vi đại diện” và phải phù hợp
với giới hạn về “lĩnh vực hoạt động” của các chủ thể.
2.2 Nội dung mục đích của hợp đồng không bị vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội
BLDS năm 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận ( Điều 4).
Nhưng để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác BLDS năm 2005 cũng quy đinh một số trường hợp hạn chế
quyền tự do của các bên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục
đích của hợp đồng ( giao dịch dân sự) “ không được vi phạm điều cấm của pháp luật
và không trái đạo đức xã hội ( điểm b khoản 1 điều 122), hợp đồng ( giao dịch dân
sự) “ có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì
vô hiệu ( Điều 128)
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham
gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục đích của giao
dịch dân sự ( hay hợp đồng) là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi
xác lập giao dịch đó ( Điều 123)

Điều cấm của pháp luật “ là những quy định của pháp luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định. Và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng
xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và
tôn trọng ( Điều 128)
Nội dung của hợp đồng bao gồm các điều khoản như: đối tượng của hợp đồng là
tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức
thanh toán; thời hạn thực hiện hợp đồng …( theo Điều 402 BLDS) và cũng có thể là
quyền và nghĩa vụ của các bên. Bất kì điều khoản nào trong số đó vi phạm điều cấm


của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng bị coi là vô hiệu. Ví dụ:
trong Quyết định Giám đốc thẩm số 18/2005/DS-GĐT ngày 22/6/2005 của HĐTP
–TANDTC , hợp đồng mua bán nhà được xác lập giữa người chuyển nhượng (Việt
Nam) với người nhận chuyển nhượng (người Việt Nam định cư ở nước ngoài, không
thuộc diện được phép có quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam), thì bị xem là vô hiệu vì
“có nội dung trái pháp luật”.
Để hợp đồng có hiệu lực thì mục đích của hợp đồng cũng phải không vi phạm
điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực xã hội, được
cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Vì vậy, một hợp đồng muốn được coi là có hiệu
lực pháp luật thì hợp đồng đó chỉ lưu thông trao đổi các tài sản được phép giao dịch
hoặc thực hiện các công việc không bị pháp luật cấm và không phạm vào sự ứng xử
chung được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng
2.3 Người tham gia hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện
Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là cá nhân, tổ chức, tổ hợp tác, hộ gia đình
nhưng người trực tiếp tham gia hợp đồng bao giờ cũng là con người cụ thể. Dù với tư
cách cá nhân hay với tư cách đại diện cho pháp nhân, tổ hợp tác hộ gia đình thì người
tham gia hợp đồng cũng phải hoàn toàn tự nguyện, chỉ có hoàn toàn tự nguyện trong
việc thỏa thuận xác định nội dung của hợp đồng thì các chủ thể mới đạt được mục

đích từ hợp đồng đó.
Tự nguyện được hiểu là sự phù hợp, thống nhất giữa mong muốn bên trong với
sự bày tỏ mong muốn đó ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Vì vậy, tự
nguyện trong tham gia hợp đồng được hiểu là sự phù hợp giữa mong muốn của một
người với việc họ tham gia một hợp đồng nhất định. Trong những trường hợp một
người không muốn tham gia một hợp đồng nhưng họ buộc phải tham gia hợp đồng đó
hoặc muốn tham gia hợp đồng với nội dung này nhưng buộc phải chấp nhận những
nội dung khác vì những lí do nhất định làm cho họ không xử sự khác được thì hợp
đồng đó sẽ bị coi là thiếu sự tự nguyện của người tham gia hợp đồng.
Trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng dân sự việc xác định như
thế nào thì bị coi là hợp đồng được giao kết không có sự tự nguyện của người tham
gia giao kết hợp đồng là việc hết sức khó khăn. Vì vậy, về nguyên tắc khi hợp đồng
đã được giao kết thì được coi là có sự tự nguyện giữa các bên. Người nào cho rằng


hợp đồng đó không có sự tự nguyện trong giao kết thì phải chứng minh rằng hợp
đồng đó được giao kết trong các trường hợp cụ thể như là:
- Thứ nhất, hợp đồng giao kết một cách giả tạo:
Là hợp đồng được các bên giao kết một cách hình thức không nhằm làm phát
sinh các quyền nghĩa vụ dân sự giữa các bên mà chỉ nhằm che giấu một hợp đồng có
thực khác hoặc nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với người thứ ba. Trên thực tiễn
Việt Nam có nhiều trường hợp do là giả tạo nên bị vô hiệu Ví dụ: trong Bản án số
1701/2005/DS-PT của TAND Tp. Hồ Chí Minh ngày 08/8/2005: bị đơn có ký hợp
đồng thuê nhà của nguyên đơn, thời hạn là 05 năm, giá thuê là 20.000.000
đồng/tháng. “Sau khi hợp đồng ký kết, theo yêu cầu của nguyên đơn, đôi bên đã ký
kết hợp đồng mượn nhà tại Phòng công chứng nhằm mục đích để bên cho thuê được
lợi khi nộp thuế cho Nhà nước…” Hợp đồng này bị tòa tuyên là vô hiệu. Hay Ví dụ:
trong Quyết định giám đốc thẩm số 06/2006/KDTM-GĐT ngày 06/7/2006 về vụ án
“Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”: Bị đơn mua mè vàng từ người thứ ba,
nhưng do người thứ ba không có tư cách pháp nhân để xuất hóa đơn giá trị gia tăng.

Vì thế, bị đơn ký hợp đồng ‘giả’ mua của nguyên đơn 500 tấn mè vàng với tổng giá
trị hợp đồng là 4,2 tỷ đồng. Trên thực tế, nguyên đơn đã không giao hàng mà chỉ
“bán tư cách pháp nhân, bán hóa đơn giá trị gia tăng để hưởng lợi…”. Vì vậy, cấp
giám đốc thẩm nhận định “hợp đồng này là hợp đồng giả tạo”
- Thứ hai, hợp đồng giao kết do bị đe dọa
Theo quy định tại Điều 132 BLDS năm 2005 “Đe dọa trong giao dịch là hành vi
cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch
nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của
mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” . Sự đe dọa thường được hiểu là
việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi bạo lực vật chất hoặc sự
khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm mất khả năng kháng cự nên đã
xác lập hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.
- Thứ ba, hợp đồng giao kết do bị lừa dối:
Theo quy định tại Điều 132 BLDS năm 2005 “Lừa dối trong giao dịch là hành
vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ
thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao
dịch đó”. Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật khiến


cho bên kia tin vào các thông tin đó mà xác lập hợp đồng bất lợi cho họ hoặc trái với
nguyện vọng đích thực của họ.
- Thứ tư là hợp đồng giao kết do nhầm lẫn
Nhầm lẫn là “sự không trùng hợp ý chí được thể hiện với mong muốn thật sự
của người thể hiện ý chí”. Hay nói cụ thể hơn, đó là việc một hoặc các bên hình dung
sai về sự việc, chủ thể, đối tượng hoặc các nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp
đồng trái với ý nguyện đích thực của mình. Ví dụ: người mua bảo hiểm tưởng là khi
mua bảo hiểm thì được hưởng tiền bảo hiểm trong mọi trường hợp có rủi ro, nhưng
thực tế là điều khoản bảo hiểm đã có những loại trừ nên một số loại rủi ro sẽ không
được bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam chỉ chấp nhận hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về
nội dung của hợp đồng. Hợp đồng bị nhầm lẫn về nội dung có thể bị vô hiệu theo

qui định tại Điều 131 BLDS 2005
Như vậy, sự tự nguyện giao kết hợp đồng là yếu tố cơ bản để các bên xác lập
quan hệ hợp đồng vì bản chất của hợp đồng vốn la sự thống nhất ý chí của các bên
thông qua sự thỏa thuận tự do và tự nguyện. Vì thế, hợp đồng xác lập thiếu yếu tố tự
nguyện thì có thể bị vô hiệu hoặc đương nhiên vô hiệu.
2.4 Sự tuân thủ về hình thức của hợp đồng.
Hình thức là một yếu tố pháp lí quan trọng của hợp đồng, có quan hệ biện chứng
với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, và là
phương tiện diễn đạt ý chí của các bên, cũng như để chứng minh sự tồn tại của hợp
đồng. Người ta sẽ không biết đến sự tồn tại của hợp đồng, nếu nó không được thể
hiện dưới một hình thức xác định. Hình thức của hợp đồng là sự biểu hiện ra bên
ngoài của nội dung hợp đồng, gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để
thể hiện và công bố ý chí của các bên, ghi nhận nội dung hợp đồng và là biểu hiện
cho sự tồn tại của hợp đồng.
Theo quy định tại của BLDS năm 2005, hợp đồng có thể được lập bằng một
trong 3 hình thức là : lời nói, văn bản hoặc một hành vi cụ thể (khoản 1 Điều 124 và
khoản 1 Điều 401) trừ những trường hợp pháp luật có quy định hình thức bắt buộc thì
phải tuân theo hình thức đó (khoản 2 Điều 124 và khoản 2 Điều 401).
a. Hình thức bằng lời nói.
Hợp đồng bằng lời nói là những hợp đồng được giao kết dưới hình thức ngôn
ngữ nói , bằng lời hay còn gọi là hợp đồng miệng. Theo đó, các bên giao kết hợp


đồng trao đổi với nhau bằng lời nói trực tiếp hoặc thông qua điện thoại, điện đàm, gửi
thông điệp điện tử bằng âm thanh tiếng nói …. Để diễn đạt tư tưởng và ý muốn của
mình trong việc xác lập, giao kết hợp đồng.
Trừ những loại hợp đồng pháp luật quy định hình thức bắt buộc, các hợp đồng
đều có thẻ được xác lập bằng lời nói. Tuy vậy, để tránh trường hợp các bên liên quan
phủ nhận sự tồn tại của hợp đồng, chỉ nên sử dụng hình thức hợp đồng bằng lời nói
để giao kết các hợp đồng có giá trị không lớn, với những người thân quen có sự tin

cậy lẫn nhau, hoặc những hợp đồng được thực hiện và chấm dứt ngay lập tức. Với
các hợp đồng được giao kết dưới hình thức bằng lời nói thì điều kiện về hình thức
không phải là điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực.
b. Hình thức hợp đồng bằng văn bản
Về nguyên tắc, việc chọn lựa hình thức nào để kí hợp đồng do các bên tham gia
hợp đồng quyết định trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng. Tuy vậy, để bảo vệ trật tự
công cộng hoặc vì lí do quản lí nhà nước, pháp luật thực định hiện hành của Việt
Nam có quy định về những hình thức bắt buộc đối với một số loại hợp đồng chuyên
biệt mà khi không tuân thủ theo các hình thức này thì các hợp đồng này không có
hiệu lực pháp luật.
Như vậy với các trường hợp mà pháp luật quy định về hình thức của hợp đồng
thì hợp đồng chỉ có hiệu lực khi tuân thủ đúng theo hình thức mà pháp luật đã quy
định cho nó.
Đối với những hợp đồng mà pháp luật không yêu cầu phải giao kết bằng văn
bản, có công chứng chứng thực của cơ quan có thẩm quyền thì không có nghĩa các
bên không được thiết lập hợp đồng theo hình thức, thủ tục đó mà các bên vẫn có thể
thỏa thuận với nhau lựa chọn hình thức bằng văn bản, có công chứng chứng thực của
cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi của mình khi tham gia kí kết hợp đồng,
và trong các trường hợp này thì điều kiện về công chứng chứng thực không phải là
điều kiện để hợp đồng có hiệu lực.
c. Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể
Với ý nghĩa là phương tiện công bố ý chí của các bên hợp đồng, hình thức của
hợp đồng còn bao gồm cả việc biểu hiện ý chí của chủ thể ra bên ngoài bằng một
hành vi cụ thể - đó là hành động, là xử sự có ý thức của các bên.
Hành vi cụ thể là một hình thức thể hiện của hợp đồng, hiểu theo nghĩa hẹp. Bởi
lẽ, việc tuyên bố ý chí bằng lời nói hay bằng chữ viết, suy cho cùng, cũng đều bằng


hành vi của con người. Tuy vậy, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được nói
đến trong trường hợp này không phải được diễn đạt bằng lời nói hay chữ viết mà chỉ

được thể hiện bằng một hành động thuần túy.
Thông thường, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được sử dụng khi bên
thực hiện hành vi giao kết hợp đồng đã biết rõ nội dung của hợp đồng và chấp nhận
tất cả các điều kiện mà bên kia đưa ra, và bên kia không loại trừ việc trả lời bằng
hành vi, hoặc không đưa ra một yêu cầu rõ ràng về hình thức của sự trả lời chấp nhận.
Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được thể hiện ra bên ngoài khá đa
dạng. Hành vi cụ thể thường được sử dụng để xác lập các hợp đồng thông dụng, được
thực hiện ngay, và trở thành thói quen phổ biến của lĩnh vực hoạt động liên quan, tại
nơi giao dịch được xác lập. Ví dụ: hành vi mua báo hay mua vé số của người bán
“dạo” hay mua hàng của người bán hàng “rong”, hành vi mua hàng trong các quán ăn
tự phục vụ, với món ăn tự chọn được làm sẵn… Trong những trường hợp này, bên có
hành vi xác lập hợp đồng đã hiểu rõ nội dung và các điều kiện của hợp đồng, còn bên
kia cũng chấp nhận cách thức giao dịch bằng hành vi cụ thể đó.
Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể cũng được sử dụng phổ biến trong các
hoạt động dịch vụ dành cho số đông đại chúng mà bên cung cấp dịch vụ đã có qui chế
hoạt động rõ ràng đã được công bố, hoặc giữa các bên đã có sự thỏa thuận về việc
một bên chấp nhận hành vi cụ thể của bên kia như là một hình thức giao kết, thực
hiện hợp đồng theo những qui ước, những điều kiện về pháp lý và kỹ thuật mà các
bên đã cam kết chấp nhận. Ví dụ: hành vi lựa chọn hàng hóa và thanh toán tiền khi
mua hàng tại siêu thị, hay mua hàng qua máy bán hàng tự động, mua vé trên xe buýt
bằng máy bán vé tự động, gọi điện thoại công cộng thanh toán bằng thẻ..
Một trong những ảnh hưởng quan trọng của hình thức đối với hiệu lực hợp đồng
là việc xem hình thức hợp đồng là một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng,
nếu pháp luật có qui định( khoản 2 Điều 122 BLDS). Theo đó, hình thức không phải
là điều kiện có hiệu lực đương nhiên của hợp đồng, mà chỉ là điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng khi pháp luật qui định. Trong trường hợp đó, để được coi là hợp đồng
hợp pháp và phát sinh hiệu lực, thì hợp đồng phải được lập tuân thủ các điều kiện luật
định, trong đó phải tuân thủ đúng qui định về hình thức hợp đồng.



Khi pháp luật qui định hợp đồng phải được lập theo một hình thức xác định thì
các bên phải tuân thủ. Nếu hợp đồng không được lập đúng hình thức luật định, thì
hợp đồng đó bị coi là vi phạm “điều kiện” về hình thức. Hậu quả pháp lý của hợp
đồng bị vi phạm về hình thức là hợp đồng đó chưa được coi là hợp pháp và có hiệu
lực. Ví dụ: pháp luật qui định hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập
thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực ( khoản 2 Điều 689). Do đó, về
nguyên tắc, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất chưa được lập đúng hình thức do
pháp luật qui định thì chưa có hiệu lực. Nhưng hợp đồng bị vi phạm về hình thức
thì cũng không đương nhiên vô hiệu. Khi đó, các bên có thể yêu cầu tòa án, hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định buộc các bên thực hiện đúng hình thức
trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì tòa án tuyên bố hợp
đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu theo qui định
pháp luật: các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, nếu không hoàn trả
bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền..., bên nào có lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu
thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia theo mức độ lỗi của mình ( Điều 134, 137,
401 BLDS). Ví dụ thực tế là Vợ chồng ông A rất thân với vợ chồng ông B và cho
vợ chồng ông B mượn nhà để sinh sống. Khi cơ hội đến, vợ chồng ông A đã dùng
căn nhà của mình đem thế chấp ngân hàng để vay tiền kinh doanh. Nhưng do việc
làm ăn của vợ chồng ông A không thuận lợi, nợ nần quá nhiều, khiến vợ chồng ông
B phải cho vợ chồng ông A vay tiền để trả ngân hàng và trang trải nợ nần.Trước
tình hình đó, vợ chồng ông A gợi ý bán căn nhà cho vợ chồng ông B. Sau nhiều lần
thỏa thuận, hai bên đã lập bốn văn bản mua bán căn nhà có đầy đủ chữ ký của các
bên nhưng không đem đi công chứng, chứng thực. Đang trong quá trình sang tên sổ
đỏ, vợ chồng ông A lại làm đơn ra tòa yêu cầu hủy thỏa thuận mua bán căn nhà,
buộc vợ chồng ông B phải trả lại nhà.Qua các cấp xét xử, sơ thẩm rồi đến phúc
thẩm, tòa án đều xác nhận việc mua bán căn nhà là có thực, song tuyên bố chấp
nhận yêu cầu xin hủy thỏa thuận mua bán căn nhà của vợ chồng ông A và tuyên bố
hợp đồng này vô hiệu. Lý do mà tòa án đưa ra là thỏa thuận mua bán căn nhà chưa
được hai bên lập hợp đồng, công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, vi
phạm quy định về hình thức hợp đồng.Tuyên bố hợp đồng mua bán căn nhà vô



hiệu, tòa án buộc ông vợ chồng ông B phải trả lại căn nhà; ngược lại, vợ chồng ông
A có nghĩa vụ trả lại cho vợ chồng ông B tiền bán căn nhà đã nhận.
Như vậy, hình thức của hợp đồng trong trường hợp này là một trong những yếu
tố pháp lý quyết định hiệu lực của hợp đồng.
Tóm lại các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có 2 nhóm là điều kiện bắt buộc
phải có với bất cứ hợp đồng nào đó là người tham gia hợp đồng phải có năng lực
hành vi dân sự; mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức của xã hội; người tham gia hợp đồng dân sự phải
hoàn toàn tự nguyện và điều kiện trong một số trường hợp cụ thể thì mối cần điều
kiện này đó là tuân thủ điều kiện về hình thức của hợp đồng trong trường hợp pháp
luật quy định.
3. Thực trạng áp dụng pháp luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và
các giải pháp để hoàn thiện.
Trên đây là các điều kiện mà pháp luật Việt Nam quy định để hợp đồng có hiệu
lực về mặt pháp lí. Tuy nhiên trong thực tiễn với việc áp dụng các quy định này thì
thấy còn có nhiều điều bất hợp lí và là vách ngăn cho sự phát triển chế định hợp đồng
trong pháp luật Việt Nam.
Thứ nhất về năng lực của chủ thể tham gia giao kết và xác lập hợp đồng
Điều 130 BLDS 2005 qui định trường hợp người xác lập giao dịch dân sự là
“người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện” mà “theo quy định của pháp luật giao dịch này
phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện” thì có thể vô hiệu. Như vậy, điều
luật này mới chỉ dừng lại ở qui định mang tính chất một chiều là bảo vệ những người
kể trên nhưng chưa tính đến các trường hợp cũng cần phải bảo vệ người tham gia xác
lập, thực hiện hợp đồng với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng không biết và không buộc phải
biết đối tác là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Vì thế nên bổ sung thêm qui định cho phép bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng với người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự trong trường


hợp những người này không biết và không buộc phải biết đối tác của họ là những
người nêu trên
Thứ hai về nội dung mục đích của hợp đồng không bị vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Theo quy định tại Khoản 1 (b) Điều 122, Giao dịch dân sự phải đáp ứng điều
kiện “mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội”. Tuy nhiên, khái niệm đạo đức xã hội mặc dù đã được
định nghĩa ở Điều 128 “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa
người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”
nhưng vẫn còn rất mơ hồ và thiếu tính cụ thể. Vấn đề xác định thế nào là chuẩn mực
đạo đức trong thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố và quan điểm của mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng và thậm chí ở mỗi giai đoạn có thể có cách hiểu khác nhau. Có thể
thấy, mục đích của quy định này là để bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia giao
dịch, quyền và lợi ích hợp pháp của những người liên quan cũng như lợi ích chung
của xã hội. Tuy nhiên nên sửa đổi nội dung này theo hướng thay cụm từ “không trái
đạo đức xã hội” thành “không xâm phạm trật tự công cộng”.Và bên cạnh đó pháp
luật nước ta cũng nên đưa các lợi ích cụ thể để bảo vệ quyền lợi con người như: các
quyền con người như quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm…; bảo vệ lẽ công bằng, bảo vệ ‘bên yếu thế hơn’ trong hợp đồng nhằm ngăn
ngừa những hợp đồng tạo ra sự bất công quá đáng; bảo vệ trật tự thị trường, trật tự
kinh tế nhằm chống lại việc cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ ba là vấn đề xác định sự tự nguyện quy định về điều kiện người tham gia
xác lập hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện là chưa đầy đủ và rõ ràng.
Khái niệm "tự nguyện" được đưa ra ở đây rất mơ hồ, chung chung, gây khó khăn và
tùy tiện trong quá trình áp dụng luật. Vì sự tự nguyện là thể hiện ý chí của con

người mà khi muốn xác định là rất khó khăn. Nhiều trường hợp khi rõ ràng người ta
không tự nguyện do sự ép buộc nhưng dưới dạng không hành động không thể
chứng minh được như ảnh hưởng của sự cạnh tranh thị trường lẫn nhau hay sự ảnh
hưởng của cấp trên với cấp dưới mà dẫn đến việc khi xác định là thiếu yếu tố tự
nguyện là rất khó. Vì thế trong các tranh chấp về sự tự nguyện để giải quyết được là
rất khó khăn.


Vì vậy luật về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng về mặt sự tự nguyện của các
bên chủ thể cần quy định rõ ràng hơn nữa cần xác định một tiêu chí để trong từng
trường hợp cụ thể có thể xác định đâu là tự nguyện và đâu là thiếu sự tự nguyện
trong giao kết hợp đồng.
Thứ tư đó là về điều kiện về hình thức của hợp đồng.
Quy định về hình thức hợp đồng vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, chưa nhất quán,
chưa đảm bảo lô gíc pháp lý giữa các điều luật liên quan.Vấn đề hình thức hợp
đồng được qui định tại các Điều 122, 124, 401 BLDS 2005. Các qui định có
những điểm bất cập cần phải được làm rõ.
Qui định tại khoản 2 Điều 122 BLDS chỉ những trường hợp pháp luật có qui
định’, mà không dự liệu khả năng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp
đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Trên thực tế, đối với các loại hợp đồng
pháp luật không qui định hình thức bắt buộc, thì các bên cũng có quyền thỏa thuận
hình thức là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ: các bên có thể thỏa
thuận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, hoặc hợp đồng mua bán kim cương… phải
được lập bằng văn bản theo thủ tục công chứng thì mới có hiệu lực, mặc dù pháp
luật không qui định bắt buộc các hợp đồng kể trên phải được lập bằng văn bản có
công chứng.
Vì vậy hình thức của hợp đồng có thể là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định. Bởi vậy, cần bổ
sung vào qui định tại Điều 401 về khả năng hình thức là điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng khi các bên có thỏa thuận.

Hơn nữa , cách quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng trong pháp luật Việt Nam nói chung và BLDS nói riêng là không rõ
ràng. Sự không rõ ràng này được hợp thức hoá bởi Nghị quyết số 01/2003 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 01/2003). Cụ thể, hợp đồng
mua bán nhà ở không được công chứng và một trong các bên yêu cầu Toà án tuyên
bố vô hiệu, thì Tòa án áp dụng Nghị quyết số 01/2003, sẽ bị tuyên bố vô hiệu, nếu
hợp đồng không được công chứng, chứng thực trong thời hạn một tháng (thời gian
có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn một
tháng đó) kể từ ngày có Quyết định của Toà án (Quyết định yêu cầu thực hiện công
chứng, chứng thực). Như vậy , hợp đồng là sự thoả thuận và hình thức của hợp


đồng chỉ là hình thức thể hiện ý chí của các bên ra bên ngoài; và rõ ràng hợp đồng
không được công chứng, chứng thực là do một trong các bên không muốn, vậy thì
Quyết định của Toà án cũng không thể thay đổi được ý chí của họ. Mặt khác, theo
quy định của Điều 126 và Điều 409 BLDS 2005, khi hợp đồng có điều khoản không
rõ ràng thì không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí
chung của các bên để giải thích điều khoản đó. Rõ ràng, ý chí chung của các bên
được đánh giá cao hơn hình thức biểu hiện ra bên ngoài. Ý chí của các bên được
hiểu là ý chí được biểu hiện tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trong khi đó, nếu theo
Điều 134 BLDS 2005 và Nghị quyết số 01/2003 thì pháp luật có vẻ như tôn trọng ý
chí được biểu hiện sau thời điểm hợp đồng được ký kết. Điều này có vẻ trái với lý
thuyết về tự do ý chí cũng như nguyên tắc giải thích hợp đồng
Như vậy cần quy định rõ ràng hơn về điều kiện hình thức để hợp đồng có hiệu
lực và cần đề cao ý chí của các chủ thế trong điều kiện hình thức hợp đồng của họ
ví dụ như để họ tự thỏa thuận. Chúng ta có thể sửa đổi một số quy định như:
Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005: Hợp
đồng có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể, hoặc
bằng các hình thức vật chất khác có thể diễn đạt được ý chí của các bên và chứng
minh được sự tồn tại của hợp đồng, hoặc bằng sự kết hợp của hai hay nhiều hình

thức kể trên”.
Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005: Trong
trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định hợp đồng phải
được thể hiện bằng hình thức nhất định thì hợp đồng phải được giao kết theo
đúng hình thức đó
Bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401 và bổ sung qui định hình thức là điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định.
Đó là một số bất cập và một số giải pháp về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
để chế định về hợp đồng trong luật Việt Nam được nâng cao hơn và bên cạnh đó là
nâng cao hiệu quả pháp lí, để đảm bảo cho các chủ thể giao kết hợp đồng có lợi ích
nhất định.

KẾT LUẬN
Tóm lại điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là tổng hợp những yêu cầu pháp lý
nhằm đảm bảo cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó. Đây là
những điều kiện cần và cũng là tiền đề pháp lý nhằm đảm bảo cho hợp đồng được


xác lập hợp pháp và có hiệu lực ràng buộc đối với các bên. Theo pháp luật Việt
Nam hiện hành thì có bốn điều kiện để một hợp đồng có hiệu lực, khi hợp đồng
không tuân thủ các điều kiện này thì hợp đồng có thể bị vo hiệu không thực hiện
được. Tuy nhiên các điều luật về vấn đề này trong pháp luật Việt Nam còn có nhiều
bất cập, các nhà làm luật cần hoàn thiện hơn nữa về chế định này để cho luật hợp
đồng của chúng ta đầy đủ và rõ ràng hơn nữa để đúng là hành lang pháp lí an toàn
cho các bên khi giao kết hợp đồng dân sự.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội,Giáo trình luật Dân sự Việt Nam, Tập 2,
Nxb.CAND, Hà Nội, 2009

2.ThS.TS Lê Kim Giang, Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường gặp,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội- 2008
3. Thạc sĩ luật học Đặng Văn Được, Luật gia Tạ Thị Hồng Vân, Hướng dẫn
pháp luật hợp đồng dân sự và cơ chế giải quyết tranh chấp trong bộ luật tố tụng
dân sự. Nxb. Lao động – Xã hội. Hà Nội -2008
4. Bộ luật Dân sự năm 2005
5. Tòa án nhân dân tối cao, Các quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao năm 2005, Hà Nội – 2008
6. Luận án Tiến sĩ luật học - Lê Minh Hùng , “Hiệu lực của hợp đồng theo quy
định của pháp luật Việt Nam” Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Thành
phố Hồ Chí Minh -2010
7. Khóa luận tốt nghiệp – Trần Thị Nhường “ Điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành” Hà Nội – 2010
8. Tạp chí khoa học. Đại học quốc gia Hà Nội, Chế định hợp đồng dân sự vô
hiệu trước yêu cầu sửa đổi, Bổ sung bộ luật dân sự năm 2005,ThS, Bùi Thị Thanh
Hằng – Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội
9. Tưởng Duy Lượng, Xử lý các tranh chấp trong một số án dân sự, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội – 2008
10. TS. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam Bản án và bình luận bản án,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2008.
9.



×