Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.85 KB, 21 trang )

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

MỞ ĐẦU
Thờ cúng tổ tiên là phong tục của người dân Việt Nam đã có từ rất xa
xưa và hiện nay vẫn còn được coi trọng. Việc thờ cúng được thực hiện trên
cơ sở quan niệm mang tính chất đạo đức và văn hóa, tôn trọng và biết ơn
công sinh thành, dưỡng dục, mỗi con người đều có nguồn cội, tổ tong, vì vậy
con cháu phải tôn trọng và biết ơn những thế hệ đi trước mình.
Trong thờ cúng tổ tiên thì di sản thờ cúng có ý nghĩa và vai trò hết sức
quan trọng, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất mà còn có ý nghĩa về
mặt tinh thần. Vì vậy, đối với di sản thờ cúng thường có những quy định
pháp luật cụ thể để công nhận và bảo vệ quyền của cá nhân được để lại di
sản dùng vào việc thờ cúng.
Nhận thấy được đây là một vấn đề quan trọng nhưng cũng vẫn còn nhiều
hạn chế trong thực tế cuộc sống, và để nâng cao vốn hiểu biết của mình về
vấn đề này, em xin chọn đề tài khai thác cho bài tập cuối kì là: “ Di sản
dùng vào việc thờ cúng và di tặng”. Để có thể làm rõ được vấn đề này em
xin trình bày nội dung chính theo những bước sau: thứ nhất, nêu đặc điểm,
nguồn gốc và những quy định của các bộ luật trước về di sản dùng vào việc
thờ cúng và di tặng ; thứ hai, phân tích và nêu rõ các quy định của pháp luật
hiện hành về di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng ; thứ ba, nêu ra những
thiếu sót, hạn chế và giải pháp trong việc quy định cũng như thực hiện theo
quy định của pháp luật về vấn đề này.

NỘI DUNG
I. DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

1



LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

1.Khái quát nguồn gốc và đặc điểm
Di sản là tài sản của người chết để lại sau khi thanh toán các nghĩa vụ,
phần còn lại chia cho người thừa kế. Tuy nhiên, có trường hợp người để lại
thừa kế lập di chúc dành một phần để thờ cúng hoặc di tặng cho người khác,
cho nên di sản có thể phân thành các loại như di sản thờ cúng, di sản để di
tặng và di sản thừa kế. Thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên là một truyền thống
tốt đẹp của nhân dân ta, biểu hiện lòng tôn kính của thế hệ sau đối với thế hệ
trước, đây là truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam. Để
phát huy truyền thống tốt đẹp đó, trong luật cổ Việt Nam đã ghi nhận và
điều chỉnh việc thờ cúng người chết. Quy định này mang tính pháp lý và tính
đạo lý,ràng buộc thế hệ sau với những người đã khuất.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật
về di sản dung vào việc thờ cúng, giúp cho việc nhận thức đầy đủ về bản
chất của thờ cúng là một truyền thống tốt đẹp, một bản sắc văn hoá của dân
ta. Mặt khác, giúp cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định về di sản được
dùng vào việc thờ cúng phù hợp với phong tục, tập quán của dân ta.
Ở nước ta, việc thờ cúng tổ tiên trở thành nét văn hoá độc đáo từ ngàn đời
xưa, cho nên pháp luật phong kiến đã điều chỉnh việc tế tự như một nghĩa vụ
bắt buộc. Điều 389 Luật Hồng Đức quy định:
“ Các quan đại thần cùng các quan viên cho đến dân thường, phàm con cháu,
giữ việc phụng sự hương hoả, thì không kể lớn nhỏ, phẩm chất thấp cao phải
tuân theo lệ thường, uỷ quyền cho con trưởng của vợ cả, nếu người con
trưởng chết trước, thì lấy người cháu trưởng, nếu không có cháu trưởng thì
mới lấy con thứ. Nếu người vợ cả không có con trai nào thì mới chọn lấy
người con nào tốt của vợ lẽ. Việc thờ cúng ông bà, cha mẹ là nghiã vụ hiếu
thảo của con cháu, do vậy không phân biệt thân phận giàu nghèo, địa vị xã


Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

2


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

hội, mọi người phải thờ cúng những người thân thuộc trong gia đình đã
khuất. Người nào vi phạm điều này thì sẽ bị khép vào tội bất hiếu.”
Theo tư tưởng phong kiến, trong gia đình của người Việt Nam có người
nắm quyền gia trưởng, trong dòng họ có người trưởng họ và nội tộc có tôn
trưởng. Những người nắm quyền gia trưởng, tôn trưởng sẽ quản lý tài sản
của người chưa thành niên, quản lý một phần di sản của người chết để lại
thực hiện việc thờ cúng người đó và những người đã chết trong gia đình,
dòng tộc. Trường hợp cha mẹ đều mất cả, có ruộng đất chưa kịp làm chúc
thư, thì anh em trong gia đình phải lấy một phần hai mươi số ruộng đất làm
phần hương hoả và giao cho người con trai trưởng giữ. Người con trai
trưởng sau này chết, thì người cháu trưởng sẽ giữ hương hoả và phần hươg
hoả được tính như sau: lấy điền sản là hương hoả của ông nội đem nhập vào
phần điền sản của cha, sau đó dành một phần hai mươi toàn bộ điền sản đó
để lại làm hương hoả và lưu truyền cho các thế hệ sau. Nếu cha mẹ có chúc
thư lập hương hoả, thì con cháu phải theo đúng chúc thư đó để thực hiện,
người nào vi phạm thì mất phần đất được hưởng. Khi đã thiết lập hương hoả,
dù con, cháu có nghèo đói cũng không được bán, nếu bán thì vi phạm vào tội
bất hiếu. Trường hợp không còn các cháu trai, trong họ sẽ thoả thuận cử
người thừa tự giữu phần hương hoả.
Khác với Luật Hồng Đức, Luật Gia Long không có quy định cụ thể về
hương hoả. Tuy nhiên, vấn đề trưởng tử và và thừa tự được quy định rải rác
trong các mục 4, 10, 11 Quyển 6 – Hộ luật.
Trong Luật Gia Long, con trai trưởng trong gia đình là người nối dõi việc

thờ cúng bố, mẹ, ông, bà. Trường hợp không có con trai thì lập người đồng
tông thừa tự. Luật Gia Long cũng quy định tài sản của bố mẹ không chia cho
các con mà giao cho con trưởng để thừa kế nối dõi nghiệp của cha ông.
Trường hợp mà chia gia tài thì chia đều cho tất cả các con không phân biệt
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

3


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

con trai, con gái, con vợ cả hay con vợ lẽ, tỉ thiếp, mỗi người được hưởng
một phần bằng nhau.
Sự khác biệt cơ bản giữa Luật Gia Long và Luật Hồng Đức về vấn đề
hương hỏa là:
- Trong Luật Gia Long không quy định cụ thể về hương hỏa.
- Sau khi cha mẹ chết, tài sản của cha mẹ không chia, được giao cho
con trưởng tử quản lý. Trưởng tử là người nối dõi sự nghiệp của cha
mẹ, giữ gìn phát triển nền thịnh vượng chung của gia đình, chăm lo
phần mộ và thờ cúng ông bà, cha mẹ.
Như vậy, luật cổ Việt Nam rất coi trọng việc thờ cúng cha mẹ, ông bà,
cha mẹ. Di sản dùng vào việc thờ cúng chủ yếu là điền sản. Người nối dõi
hoặc người thừa tự có quyền sử dụng hương hỏa, lấy hoa lợi, lợi tức dùng để
thờ cúng người đã khuất, phần còn lại sẽ thuộc về mình.
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, nhân dân miền Bắc bắt tay
vào công cuộc cải tạo XHCN và chi viện sức người, sức của cho nhân dân
miền Nam đấu tranh chống giặc Mỹ xâm lược. Nhân dân miền Bắc thực hiện
chính sách tiết kiệm để xây dựng XNXH, vì vậy các phong tục tập quán thờ
cúng được đơn giản hóa nhưng vẫn giữ được tính tôn nghiêm. Pháp luật
trong thời kì này không điều chỉnh về hương hỏa nhưng thực tế một số tập

quán của nhân dân ta từ thời kì phong kiến còn tồn tại, cho nên pháp luật
điều chỉnh về thừa tự và lập tự, coi người thừa tự như con nuôi của người lập
tự, do vậy được hưởng di sản của người lập tự. Những năm 80 của thế kỷ
XX, ở miền Bắc phong tục thờ cúng cha mẹ, ông bà, tổ tiên được duy trì ở
từng gia đình, dòng họ với nhiều mức độ khác nhau. Điều này phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, tập quán của từng địa phương nhưng đều có chung một
điểm là dùng hương hỏa để thờ cúng. Việc thờ cúng này tuy có đạm bạc,
nhưng thể hiện lòng thành của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Ở
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

4


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

nước ta, trong những năm đầu của công cuộc đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp xây dựng cơ chế thị trường theo định hướng XHCN,
thu nhập quốc dân tăng lên, đời sống nhân dân đã có phần dư dật, cho nên
việc thờ cúng ông bà, cha mẹ không những có ý nghĩa tư tưởng nhớ đến
người đã khuất và còn là ngày anh em, con cháu sum họp quây quần bên
nhau ôn lại những kỉ niệm trong gia đình.
2. Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về di sản dùng vào
việc thờ cúng.
Để phát huy truyền thống tốt đẹp của nhân dân là uống nước nhớ nguồn
và tạo điều kiện cho các thế hệ sau thực hiện việc thờ cúng được tốt hơn,
đồng thời tạo cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong đó có
di sản dùng vào việc thờ cúng, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thừa kế
ngày 30/08/1990.
Di sản dùng vào việc thờ cúng có thể là tiền, vàng, nhà ở, hoa màu do người
chết để lại và được giao cho người thừa kế giữ. Người thừa kế khai thác

công dụng của tài sản thu hoa lợi, lợi tức và lấy một phần tài sản hoặc hoa
lợi tức để duy trì việc thờ cúng người quá cố và tổ tiên. Việc khai thác lợi
ích của tài sản như thế nào do những người thừa kế thỏa thuận. Trường hợp
việc thờ cúng không được thực hiện thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng
sẽ chia cho những người thừa kế hàng thứ nhất của người để lại di sản thờ
cúng. Nếu những người thừa kế hàng thứ nhất đều đã chết và thời hiệu về
thừa kế đã hết, thì di sản thuộc về người thừa kế được quy định tại các Điều
25, Điều 26 Pháp lệnh Thừa kế đang quản lý hợp pháp di sản đó.
Thờ cúng là một nghĩa vụ mang tính đạo đức, thể hiện lòng thành kính của
con cháu đối với ông bà, cha mẹ, thể hiện lòng tôn kính của nhân dân, của
dân tộc đối với những người đã hy sinh trong các cuộc đấu tranh chống thù
trong giặc ngoài đem lại sự bình yên cho đất nước. Nghĩa vụ này là của mọi
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

5


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

người mà không phải của riêng ai, việc thờ cúng mang tính tượng trưng
không nhất thiết phải bằng hiện vật. Nếu thờ cúng, ăn uống linh đình sẽ tốn
kém, gây lãng phí không cần thiết. Điều quan trọng là con cháu muốn đền
ơn đáp nghĩa ông bà thì phải đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau trong
mọi lĩnh vực của đời sống, cho nên pháp luật quy định di sản dùng vào việc
thờ cúng có thể được đem chia nếu có thỏa thuận của những người thừa kế
và thời hạn quản lý di sản là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, sau thời
gian đó di sản sẽ được xử lý theo pháp luật quy định. Tuy nhiên, quy định
thời hạn là 10 năm chưa phù hợp với phong tục tập quán của nhân dân ta, vì
lẽ thờ cúng là một việc làm thường xuyên và lâu dài từ đời này qua đời khác.
Mặt khác, di sản thờ cúng là nhà ở và đất đai, đây là những bất động sản tồn

tại lâu dài, do vậy quy định thời hiệu: như Pháp lệnh Thừa kế không phù
hợp, cần quy định thời hạn lâu hơn nữa để buộc người quản lý di sản phải
thực hiện nghĩa vụ thờ cúng và quản lý di sản có hiệu quả hơn.
Kế thừa và phát triển Pháp lệnh Thừa kế 1990, Điều 670 BLDS quy định
về di sản dùng vào việc thờ cúng là di sản không chia và giao cho người
được chỉ định trong di chúc. Trường hợp, di chúc không chỉ định người quản
lý di sản dùng vào việc thờ cúng thì những người thừa kế thỏa thuận giao di
sản dùng vào việc thờ cúng cho một người thừa kế trông coi, sử dụng:
Người quản lý di sản có thể là con hoặc cháu của người đã chết, họ có điều
kiện trông coi, quản lý, duy trì, phát triển di sản dùng vào việc thờ cúng.
Người quản lý di sản thờ cúng sẽ thực hiện việc thờ cúng người có tài sản
chết vào ngày giỗ, tết. Việc thờ cúng này được thực hiện theo tập quán của
từng địa phương, pháp luật không quy định cụ thể về người thực hiện việc
thờ cúng và người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng. Đây cũng chính là
sự khác biệt giữa pháp luật của Nhà nước ta và pháp luật thời phong kiến
thuộc địa và luật cổ Việt Nam.
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

6


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

Nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, cho nên trong Pháp
lệnh Thừa kế năm 1990 và Điều 670 BLDS năm 2005 đã quy định người lập
di chúc có quyền chỉ định người thừa kế thực hiện việc thờ cúng.
Điều 670 BLDS quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau:
“ 1. Trong trường hợp người lập di chúc có thể để lại một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao
cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ

cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không
theo thỏa thuận của những người thừa kế, thì những người thừa kế có quyền
giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ
cúng…”.
Một vấn đề được đặt ra là thế nào là một phần di sản,vấn đề này có thể giải
thích dựa vào lịch sử lập pháp và theo tư duy logic:
- Theo pháp luật dân sự của nhà nước phong kiến Việt Nam, như Luật
Hồng Đức, hương hỏa là 1/20 điền sản, theo Luật Bắc Kỳ năm 1931
và Luật Trung Kỳ năm 1936, hương hỏa là 1/5 điền sản( ruộng đất).
Hương hỏa được giao cho tôn trưởng quản lý dùng vào việc phụng tự.
Như vậy, hương hỏa chỉ là một phần nhỏ điền sản của người chết để
lại cho cháu, con sử dụng, thu hoa lợi dùng vào việc thờ cúng.
-

Theo logic, nếu khối di sản được chia thành hai hay nhiều phần, thì
chỉ được dùng một phần đó để thờ cúng, phần còn lại chia thừa kế
theo di chúc hoặc theo pháp luật.

Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản
thờ cúng, thì những người thừa kế cử một người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp này tuy người lập di chúc không chỉ định một người quản lý di
sản thờ cúng nhưng trong di chúc vẫn xác định rõ dành một phần di sản cho

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

7


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1


việc thờ cúng thì những người thừa kế phải cử một người để quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết, thì
phần di sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di
sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Thờ cúng là một nếp sống văn hóa lâu đời của nhân dân ta, thể hiện lòng
tôn kính đối với người đã chết. Giáo dục người xung quanh kính trọng
những người bậc trên đã chết và nhớ công ơn của họ. Vì vậy, Nhà nước tôn
trọng và bảo hộ các truyền thống tốt đẹp đó, cho phép cá nhân dành một
phần tài sản của mình để dùng vào việc thờ cúng. Phần tài sản này không coi
là di sản thừa kế.
Di sản dùng vào việc thờ cúng được để lại theo ý nguyện của người lập di
chúc, di sản này không chia mà được giao cho một người quản lý. Di sản
này có thể là một tài sản cụ thể ( cây lâu năm, nhà ở…). Nếu là tài sản hoặc
cây lâu năm, người quản lý có quyền thu hoa lợi, lợi tức và dùng nó để thực
hiện việc thờ cúng. Người quản lý có quyền thu hoa lợi, lợi tức và dùng nó
để thực hiện việc thờ cúng. Người quản lý không được sử dụng vào mục
đích của riêng mình. Không có quyền định đoạt di sản này. Trường hợp
người đang quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng mà không có điều kiện để
tiếp tục quản lý di sản đó, những người thừa kế sẽ thỏa thuận giao cho người
khác quản lý.
Điều 670 BLDS không có quy định về tính chất của di sản dùng vào việc
thờ cúng, mà chỉ định lượng phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Vì vậy,
người lập di chúc có thể định đoạt bất kì tài sản nào trong khối tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình để dùng vào việc thờ cúng.
3. Một số quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng còn thiếu hoặc bất cập,
ý kiến giải pháp.
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

8



LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

Trong trường hợp người lập di chúc có dành một phần di sản thờ cúng, thì
cần phải trích một phần di sản để làm di sản thờ cúng. Tuy nhiên, phần di
sản thờ cúng chiếm tỉ lệ bao nhiêu so với di sản thì chưa được quy định cụ
thể. Trường hợp, người thừa kế theo pháp luật còn sống và người thừa kế
theo di chúc chết mà họ đang quản lý di sản thờ cúng thì xử lý di sản thờ
cúng đó thế nào, vấn đề này còn nhiều mâu thuẫn, do vậy áp dụng pháp luật
sẽ vướng mắc. Theo Điều 670 BLDS quy định:
“1.Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào
việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho
một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ
cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng theo di chúc hoặc
không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có
quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để
thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lý di
sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì
phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản
đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2.Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng
vào việc thờ cúng.”
- Khoản 1 Điều 670 BLDS quy định, nếu người lập di chúc dành lại một
phần di sản… Như vậy, một phần di sản là bao nhiêu trong tổng di sản thừa
kế. Về vấn đề này có thể hiểu theo hai nghĩa:


Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

9


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

Thứ nhất, luật quy định người lập di chúc dành một phần di sản, vậy có thể
hiểu là không được dùng toàn bộ di sản để thờ cúng, do đó người lập di chúc
có thể dành đến phần lớn di sản để thờ cúng.
Thứ hai là, nếu chia số di sản thành nhiều phần thì người lập di chúc có
quyền dành một phần trong tổng số phần di sản đó. Vậy khi chia di sản
thành nhiều phần thì chia tối đa và tối thiểu là bao nhiêu phần, tối đa là vô
cùng và tối thiểu là 2 phần bằng nhau. Trường hợp này, phần di sản thờ cúng
không quá một phần nếu di sản chia làm hai phần.
Vì những lý do trên cần quy định cụ thể hơn di sản thờ cúng tỉ lệ bao nhiêu
là phù hợp.
- Tại đoạn ba của khoản 1 Điều 670 BLDS quy định tất cả mọi người
thừa kế theo di chúc đều đã chết thì di sản thờ cúng thuộc về người quản
lý di sản. Nội dung của đoạn này có vấn đề chưa hợp lý như sau
Trường hợp người để lại thừa kế có nhiều người thừa kế theo pháp luật
nhưng lập di chúc cho một người hưởng di sản và giao cho người này
quản lý di sản thờ cúng. Nếu người quản lý di sản thờ cúng chết nhưng
thời hiệu của thừa kế chưa hết, theo quy định của điều luật trên, người
thừa kế của người quản lý di sản đang quản lý di sản đó được hưởng di
sản thờ cúng. Vấn đề này trái với thời hiệu là 10 năm. Mặt khác, việc quy
định thờ cúng là nghĩa vụ lâu dài của các con, các cháu, vì thế người
quản lý di sản thờ cúng chết, di sản thờ cúng không thể thuộc người đang
quản lý trong diện những người thừa kế mà phải tiếp tục thực hiện việc

thờ cúng và ít nhất đến hết thời hiệu thừa kế, thì di sản mới thuộc về
người thực tế đang quản lý di sản thờ cúng.
- Khoản 2 Điều 670 BLDS không tương đồng với khoản 2 của Điều 671
BLDS. Theo quy định tại khoản 2 Điều 670 BLDS, pháp luật không cho

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

10


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

phép người lập di chúc dành một phần di sản để làm di sản thờ cúng nếu
người lập di chúc còn nhiều nghĩa vụ có thể lớn hơn tổng tài sản hiện có.
Theo quy định của pháp luật, thì việc lập di chúc có thể được thực hiện
trước hoặc sau thời điểm phát sinh nghĩa vụ, như trường hợp khi lập di chúc
chưa có nghĩa vụ nhưng sau khi lập di chúc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
của người lập di chúc phát sinh. Như vậy, việc lập di chúc độc lập với việc
phát sinh nghĩa vụ, cho nên quy định trên không phù hợp. Do đó, cần phải
hiểu là khi chia thừa kế nếu số di sản còn lại không đủ thực hiện nghĩa vụ thì
dùng di sản thờ cúng để thực hiện nghĩa vụ. Nếu toàn bộ di sản, kể cả di sản
thờ cúng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì không để lại di sản thờ cúng.
Mặt khác, quy định này chưa rõ như: nếu người lập di chúc dành một phần
di sản thờ cúng nhưng có nghĩa vụ thì khi thanh toán các nghĩa vụ sẽ dùng
phần di sản nào để thực hiện nghĩa vụ, phần di sản để chia thừa kế hay phần
di sản thờ cúng hoặc thanh toán xong nghĩa vụ, số di sản còn lại sẽ xác định
một phần là di sản thờ cúng. Vấn đề này không rõ rang, sẽ gây khó khăn cho
việc áp dụng pháp luật.
Đối chiếu với quy định thanh toán nghĩa vụ tại khoản 2 Điều 671 BLDS, ta
thấy quy định rất rõ là người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ trừ

trường hợp di sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ. Có nghĩa là, nếu có nghĩa
vụ thì dùng phần di sản chia thừa kế để thực hiện, nếu không đủ thì dùng
phần di tặng để thực hiện nghĩa vụ. Vậy, cần quy định khoản 2 Điều 670
BLDS cụ thể, rõ ràng hơn để việc áp dụng được thuận lợi.
II. DI TẶNG
1. Khái quát nguồn gốc và đặc điểm
Người để lại thừa kế có thể lập di chúc tặng cho người khác một phần tài
sản sau khi chết, việc tặng cho này gọi là di tặng. Đây là một vấn đề hoàn

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

11


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

toàn mới trong luật dân sự Việt Nam, vì vậy cần phải nghiên cứu một cách
toàn diện.
Trong các loại giao dịch có điều kiện, di chúc là giao dịch có điều kiện phát
sinh hiệu lực. Kể từ thời điểm mở thừa kế, di chúc có hiệu lực pháp luật,
người được chỉ định trong di chúc có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản.
Tuy nhiên, người nhận di sản có thể với tư cách là người thừa kế theo di
chúc hoặc có thể là người được di tặng. Tư cách chủ thể của người được chỉ
định trong di chúc phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc. Người được
chỉ định trong di chúc có thể được hưởng di sản theo di tặng hoặc là người
thừa kế theo di chúc. Về hậu quả pháp lý, hai giao dịch này khác nhau,
nhưng về hình thức thì giống nhau, biểu hiện là người được chỉ định trong di
chúc có quyền hưởng phần di sản được định đoạt theo di tặng, hoặc theo di
chúc. Di tặng là một phần tài sản được định đoạt trong di chúc di tặng cho
một hoặc nhiều người sau khi người tặng cho chết. Hành vi pháp lý này

được thể hiện dưới một hình thức do pháp luật quy định và có giá trị pháp lý
sau khi người có tài sản di tặng chết.
Người lập di chúc có thể chỉ định người thừa kế theo di chúc và chỉ định
người được hưởng tài sản di tặng, vì vậy di tặng có những đặc điểm sau đây:
- Di tặng mang tính chất của một hợp đồng tặng cho.
Theo nguyên tắc của giao kết hợp đồng, các bên phải thỏa thuận về nội
dung của hợp đồng và ký kết dưới một hình thức nhất định. Tuy nhiên trên
thực tế, người tặng cho có thể tự mình quyết định chuyển giao tài sản của
mình cho người tặng cho. Người được tặng cho có thể nhận được nhận hoặc
không nhận tài sản tặng cho đó. Nếu người được tặng cho nhận hợp đồng
tặng cho có hiệu lực và đồng thời chấm dứt hợp đồng.

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

12


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

Đối với di tặng, người lập di chúc thực hiện hành vi pháp lý đơn phương
định đoạt tài sản của mình cho người được di tặng. Sau khi người lập di chúc
chết, thì người được di tặng có quyền nhận hay từ chối nhận di sản.
Vậy, di tặng và cho tặng giống nhau là người lập di chúc chuyển quyền sở
hữu tài sản cho người được di tặng, người được di tặng và cho tặng không có
nghĩa vụ đối với người thứ ba. Điểm khác nhau giữa di tặng và tặng cho là
di tặng do người lập di chúc quyết định, còn việc nhận di sản hay không
nhận là do người được di tặng quyết định, đây là hai quan hệ độc lập, tuy
nhiên tặng cho là là một giao dịch dân sự có sự thỏa thuận của người có tài
sản và người được tặng cho.
- Di tặng là một nội dung của di chúc.

Người có tài sản có quyền lập di chúc để tặng cho người khác tài sản của
mình sau khi chết. Di chúc tặng cho tài sản có giá trị pháp lý khi người lập
di chúc chết. Người lập di chúc có thể vừa định đoạt tài sản cho người khác
hưởng thừa kế theo di chúc và có thể di tặng người khác trong cùng một di
chúc.
- Người hưởng di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ của người chết.
Kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ của
người để lại thừa kế trong phạm vi di sản được hưởng. Ngược lại, người
được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ đó. Pháp luật dự liệu trường hợp
phần di sản để chia thừa kế không đủ để thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người đã chết, thì người được tặng phải trích một phần tài sản di tặng để
thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp này, người được hưởng di tặng có hai tư
cách, trước hết là tư cách của người được tặng cho. Người được di tặng có
quyền sở hữu đối với phần di sản di tặng kể từ thời điểm nhận phần di sản
đó. Tư cách thứ hai là của người thừa kế theo di chúc. Người được di tặng

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

13


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

phải thực hiện nghĩa vụ của người để lại thừa kế nếu toàn bộ di sản không đủ
để thực hiện nghĩa vụ.
Như vậy, khi di sản chưa chia mà người để lại thừa kế có nghĩa vụ, thì
người thừa kế lấy di sản chuyển cho người được di tặng, phần còn lại thực
hiện nghĩa vụ và chia cho những người thừa kế. Nếu di sản đã chia cho
người được di tặng và người được thừa kế, thì những người thừa kế phải
thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản hưởng. Khi toàn bộ di sản không đủ

để thực hiện nghĩa vụ thì người được hưởng di tặng phải dùng một phần di
sản mà mình được hưởng để thực hiện nghĩa vụ đó.
Tóm lại, di tặng là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc nhằm
tặng cho người khác tài sản của mình sau khi chết. Người được di tặng có
quyền nhận toàn bộ số tài sản di tặng được chỉ định trong di chúc, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. Nếu người được di tặng từ chối nhận phần
di sản di tặng, thì phần di sản đó sẽ được chia theo pháp luật.
2. Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về di tặng
Điều 671 BLDS năm 2005 quy định về di tặng như sau:
“ 1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho
người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
2. Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần
được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện
phần nghĩa vụ còn lại của người này. ”
Theo quy định này, căn cứ phát sinh di tặng là do người lập di chúc chỉ định
cho người được di tặng được hưởng di sản trong một bản di chúc có hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên, người được di tặng không phải là người thừa kế theo
di chúc. Mặc dù họ cũng được hưởng một phần di sản của người lập di chúc
giống như người thừa kế theo di chúc, nhưng họ lại không phải thực hiện
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

14


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

nghĩa vụ tài sản đối với phần di sản được tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản
không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di
tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ của người này. Đây là căn

cứ xác định sự khác biệt giữa người được di tặng và người thừa kế theo di
chúc.
Đối tượng di tặng có thể là hiện vật, là khoản tiền mà người lập di chúc di
tặng cho một hoặc nhiều người mang ý nghĩa để kỷ niệm hoặc hàm ơn. Về
giá trị kinh tế thì di tặng có thể không lớn nhưng về ý nghĩa xã hội, nhân văn
thật đáng trân trọng.
3. Một số quy định về di tặng còn thiếu hoặc bất cập, ý kiến giải pháp
-

Điều 671 BLDS không quy định cụ thể điều kiện để một người được

nhận di tặng mà chỉ quy định chung: “ Người lập di chúc được dành một
phần tài sản để di tặng cho người khác ”. Vậy, “người khác” ở đây được hiểu
như thế nào? Chỉ là cá nhân hay có thể bao gồm cả cơ quan, tổ chức?.
Theo cá nhân em, người được di tặng có thể là cá nhân và cũng có thể là
cơ quan, tổ chức. Bởi lẽ, mặc dù không được quy định cụ thể là bao gồm
những ai, nhưng BLDS cũng không quy định người được di tặng chỉ có thể
là cá nhân.
-

Vấn đề nữa được đặt ra ở đây, đó là người được di tặng có cần thỏa mãn

các điều kiện như đối với người thừa kế hay không? Nếu là cá nhân thì cần
điều kiện gì? Nếu là tổ chức thì tổ chức đó có cần phải “tồn tại vào thời điểm
mở thừa kế hay không”? Sở dĩ phải đặt ra vấn đề này bởi vì trong thực tế có
rất nhiều trường hợp người để lại di sản đã lập di chúc định đoạt một phần
tài sản của mình với mục đích tặng cho các quỹ học bổng, quỹ từ thiện…
-

Điều 671 BLDS quy định:


“1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người
khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.”
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

15


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

Trường hợp người lập di chúc có di tặng tài sản của mình, thì trước khi
chia thừa kế phải chia di tặng, phần di sản còn lại chia theo di chúc hoặc
chia theo pháp luật. Tuy nhiên, người lập di chúc dành một phần di tặng thì
phần đó là bao nhiêu cần phải quy định rõ. Hoặc phải có văn bản hướng dẫn
về di tặng, vì đây là một vấn đề hoàn toàn mới trong Luật Dân sự Việt Nam.
Quy định về di tặng có thể bổ sung như sau:
“1. Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản nhưng không quá
một phần năm ( 1/5 ) để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ
trong di chúc.”
Tặng cho là một giao dịch không có đền bù và thường phát sinh giữa
những người có quan hệ tình cảm thân thiết. Di tặng là một giao dịch tặng
cho sau khi chết. Người lập di chúc dành một phần tài sản của mình tặng cho
người khác làm kỉ niệm, vì vậy tài sản tặng cho không thể là toàn bộ di sản.
Cho nên pháp luật quy định người lập di chúc chỉ được dành một phần để di
tặng và một phần được xác định tương tự như di sản thờ cúng.
-

Khoản 2 Điều 671 quy định: “ Người được di tặng không phải thực hiện

nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản

không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di
tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”.
Quy định này dường như đã đồng nhất giữa di sản chia thừa kế với di sản.
Bởi vì: Di sản = phần di sản dành cho người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung di chúc + phần di sản dành cho di tặng + phần di sản dùng vào
việc thờ cúng + phần di sản chia thừa kế. Như vậy, di sản chia thừa kế chỉ là
một thành phần của di sản. Chỉ trong trường hợp không có phần di sản dành
cho người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, di tặng và di sản
dùng vào việc thờ cúng thì di sản chia thừa kế mới bằng di sản thừa kế.
Nhưng quy định rằng: Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

16


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để
thanh toán nghĩa vụ tài sản, thì phải hiểu thế nào là “toàn bộ” di sản? Nếu
hiểu theo công thức trên, thì “toàn bộ” di sản rõ ràng phải bao gồm cả di
tặng. Nhưng nếu như “toàn bộ di sản” đã bao gồm cả di tặng, tức là cả di
tặng cũng đã được đem ra thanh toán nghĩa vụ rồi, thì không thể có quy
định: nếu “toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người
lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn
lại của người này”.
Như vậy, rõ ràng “toàn bộ di sản” được nói tới trong điều luật này không
phải là “toàn bộ di sản thừa kế” mà chính xác phải là “toàn bộ di sản chia
thừa kế”. Điều này đồng nghĩa với việc: nếu có nghĩa vụ tài sản thì phải
dùng phần di sản chia thừa kế để thực hiện nghĩa vụ trước, nếu di sản chia
thừa kế vẫn không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì mới dùng phần di tặng.

Trong trường hợp này, di tặng là phần di sản còn lại sau khi đã thanh toán
xong các nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác liên quan đến thừa kế theo
Điều 683.
Vì vậy, để tạo cách hiểu thống nhất trong trường hợp trên, ta nên thay cụm
từ “di sản” bằng “di sản chia thừa kế”. Cụ thể, khoản 2 Điều 671 nên được
sửa đổi như sau: “Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản
đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản chia thừa kế không
đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng
được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này”.
Với quy định này, sẽ có một cách hiểu thống nhất là: di tặng chỉ được dùng
để thực hiện nghĩa vụ khi toàn bộ di sản chia thừa kế không đủ để thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc. Mặc dù, cùng là người được hưởng di
sản của người chết để lại nhưng kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế
phải thực hiện nghĩa vụ của người để lại thừa kế trong phạm vi di sản được
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

17


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

hưởng. Ngược lại, người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ đó. Chỉ
trong trường hợp toàn bộ di sản chia thừa kế không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người chết để lại, thì phần tài sản là di tặng mới được dùng để
thực hiện phần nghĩa vụ tài sản còn lại này.
-

Vấn đề đặt ra trong trường hợp có cả di tặng và di sản dùng vào việc thờ

cúng, thì phải dùng phần di sản nào để thanh toán nghĩa vụ tài sản trước? Di

tặng hay phần di sản dùng vào việc thờ cúng?
Có ý kiến cho rằng, do tính chất đặc biệt của phần di sản dùng vào việc thờ
cúng – là sự biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên, nếu xếp di
sản dùng vào việc thờ cúng ngang với di sản chia thừa kế hay di tặng đồng
nghĩa với việc “hy sinh truyền thống cổ xưa vì lợi ích của quyền tự do cá
nhân”1. Chính vì vậy, trong trường hợp này, ta phải dùng phần di sản dành
cho di tặng để thanh toán nghĩa vụ trước, nếu không đủ thì mới dùng đến di
sản dùng vào việc thờ cúng.
Ý kiến khác lại cho rằng, phải dùng di sản dùng vào việc thờ cúng để thanh
toán nghĩa vụ trước, nếu không đủ mới dùng đến di tặng, bởi tài sản dành
cho di tặng thường có ý nghĩa đặc biệt với người di tặng cũng như người
được di tặng. Việc để lại di tặng thường nhằm mục đích làm kỷ niệm, lưu
dấu một mối quan hệ tốt đẹp thân thiết giữa người di tặng với người được di
tặng.
Dung hòa cả hai ý kiến trên, ý kiến thứ ba cho rằng, trong trường hợp này
chúng ta phải dùng cả di tặng cũng như di sản dùng vào việc thờ cúng để
thanh toán. Việc cắt giảm hai phần di sản này sẽ được thực hiện theo tỷ lệ.
Theo em, ý kiến này là hợp lý hơn cả. Bởi theo quy định tại Điều 670 và 671
thì hai loại di sản này có địa vị pháp lý tương đối “cân bằng” nhau, bởi cơ sở
để dùng hai loại di sản này để thanh toán nghĩa vụ đều là “toàn bộ di sản của
người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó”. Hơn nữa,
Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

18


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

trong thực tế đời sống, rất khó lý giải nên dùng loại di sản nào để thanh toán
trước trong trường hợp nói trên, vì điều này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu

tố như: tính đa dạng của quan hệ pháp luật về thừa kế, mức chênh lệch về
giá trị di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng, yếu tố tâm lý, sự khác nhau
về phong tục tập quán giữa các vùng, miền trên cả nước

KẾT LUẬN
Ở nước ta, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật quy định về việc
thừa kế nói chung và về di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng nói riêng
có sự khác nhau, nhưng đều có đặc điểm chung là phản ánh phong tục, tập
quán , truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta là “ uống nước nhớ nguồn ”.
Ngày nay, trong cơ chế thị trường, nhiều giá trị đạo đức, phong tục, tập quán
tốt đẹp bị mai một, vì vậy duy trì việc thờ cúng cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên một
cách văn minh, lịch sự là cách giáo dục tốt đối với thế hệ trẻ trong việc giữ
gìn bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam trong xu thế hội nhập.

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

19


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 1
( Trường Đại học Luật Hà Nội – nxb. CAND, 2009 )
2. Bộ luật Dân sự Việt Nam
3. Luật thừa kế Việt Nam
( Phùng Trung Tập – nxb. Hà Nội, 2008 )
4. Bình luận về tặng, cho và di chúc trong luật Dân sự Việt
Nam ( Nguyễn Ngọc Điện, 2001 )

5. Thừa kế theo pháp luật của công dân từ 1945 đến nay
6. Luận án tiến sĩ luật học : “ Di sản thừa kế ”
( Trần Thị Huệ - trường Đại học Luật Hà Nội )

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419

20


LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM 1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………....……1
NỘI DUNG……………………………………………………………….....1
I.Di sản dùng vào việc thờ cúng…………………………………………......2
1. Khái quát nguồn gốc và đặc điểm………………………………………...2
2.Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành
về di sản dùng vào việc thờ cúng………………………………………...…5
3. Một số quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng
còn thiếu hoặc bất cập, ý kiến giải pháp………………………………........9
II. Di tặng…………………………………………………………………..12
1. Khái quát nguồn gốc và đặc điểm……………………………………….12
2.Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành
về di tặng…………………………………………………………………...14
3. Một số quy định về di tặng còn thiếu
hoặc bất cập, ý kiến giải pháp……………………………………………...15
KẾT LUẬN .................................................................................................19

Nguyễn Thị Quỳnh Trâm-MSSV:351419


21



×