Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.98 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng
chế, nó có vị trí đặc biệt trong tố tụng hình sự ở nước ta. Những BPNC mang tính
cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người
phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Từ đó,
tạo các điều kiện thuận lợi nhất cho sự hoạt động hiệu quả của các cơ quan tố tụng.
Tạm giam là một trong các BPNC được BLTTHS năm 2003 quy định. Nó là
BPNC có tính chất nghiêm khắc nhất bởi người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị
cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền công dân.
Do vậy, việc tạm giam oan, sai sẽ xâm phạm tới quyền công dân. Song nếu không
triệt để áp dụng cũng khiến cho bị can, bị cáo tự do ngoài vòng pháp luật, tiếp tục
phạm tội hay có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như gây
thiệt hại đến quyền lợi của các công dân khác và của toàn xã hội. Đây là vấn đề
được đặt ra từ khi có sự công nhận BPNC tạm giam trong BLTTHS năm 1988. Qua
quá trình thực hiện biện pháp tạm giam cũng đã được sửa đổi, bổ sung một cách cụ
thể và rõ ràng để phù hợp với từng giai đoạn. Song trên thực tế, việc áp dụng biện
pháp này vẫn còn cho thấy nhiều sai phạm, gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc khắc phục những tồn tại này em xin chọn đề tài:
“Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng biện pháp này”.

2


NỘI DUNG
1. Các quy định chung về biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình


sự Việt Nam
1.1. Khái niệm BPNC tạm giam.
Tạm giam là một BPNC được sử dụng trong tố tụng hình sự. Nền tư pháp của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã có sự ghi nhận đối với BPNC tạm giam. Song
các quy định còn chung chung, chưa cụ thể. Nó chỉ trở thành một chế định thực sự
khi được ghi nhận trong BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua tại Quốc hội khóa VIII. Trong bộ luật này, BPNC tạm giam được
quy định khá chi tiết tại Điều 70 đến 73 song các quy định này còn những hạn chế
như: vấn đề thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam chưa được quy định trong một
điều luật cụ thể; quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; một số vấn
đề thủ tục tạm giam còn chưa được quy đinh cụ thể, rõ rang… Các hạn chế này đã
được khắc phục và bổ sung tại BLTTHS năm 2003.
BLTTHS năm 2003 đã có các quy định rõ ràng và cụ thể về BPNC tạm giam
tại Điều 88, 89 và 90. Tuy nhiên trong các quy định này, cũng như các văn bản
hướng dẫn thi hành bộ luật này vẫn chưa đưa ra được một khái niệm cụ thể về biện
pháp tạm giam. Song với các quy định như trên, xét các phương diện về bản chất
của tạm giam, thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, thủ tục, căn cứ và mục đích
áp dụng ta có thể đưa ra một khai niệm về BPNC tạm giam như sau:
Tạm giam là BPNC trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm
trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người
đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội.
1.2. Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam.
Là một BPNC mang tính nghiêm khắc nhất trong số các BPNC sử dụng trong
tố tụng hình sự, do vậy đối tượng của tạm giam cũng là một số các đối tượng nhất

3



định. Theo quy định tại khoản 1 Điều 88 thì đởi tượng của BPNC tạm giam là bị
can, bị cáo. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử. Song không phải tất cả các bị can, bj cáo đều bị áp dụng
biện pháp tạm giam, chỉ các bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật mới bị áp
dụng BPNC tạm giam. Các trường hợp bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam
được quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003 theo đó các trường hợp bị
can bị, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm:


Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;



Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật

hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Xuất phát từ tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung và của
luật tố tụng hình sự nói riêng, khoản 2 Điều BLTTHS quy định một số trường hợp
không áp dụng biện pháp tạm giam, các trường hợp đó là: Bị can, bị cáo là phụ nữ
có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi; người già yếu, người bị bệnh
nặng. Những trường hợp trên phải có thêm một điều kiện khác đó là có nơi cư trú rõ
ràng. Trong trường hợp không có nơi cư trú hoặc không xác định được nơi cư trú, có
nhiều nơi cư trú, nơi cư trú quá xa nơi tiến hành điều tra hoặc trong trường hợp tại
điểm a, b, c Điều luật này thì vẫn phải áp dụng biện pháp tạm giam. Những trường
hợp đó là:


Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;




Bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý

gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;


Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng

nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Ngoài ra, tạm giam còn được áp dụng đối với tội phạm chưa thành niên theo
quy định tại Điều 303 BLTTHS.
1.3. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.
Tạm giam là một BPNC trong tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 không có các quy định cụ thể về căn cứ để chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện

4


pháp tạm giam. Song Điều 79 BLTTHS năm 2003 lại quy định các căn cứ áp dụng
các BPNC nói chung. Các căn cứ được ghi nhận tại Điều 79 bao gồm: Đề kịp thời
ngăn chặn tội phạm; Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử; Sẽ tiếp tục phạm tội; Đảm bảo thi hành án.
Xét các căn cứ trên ta nhận thấy rằng, chỉ có căn cứ thứ nhất: “Đề kịp thời
ngăn chặn tội phạm” không phải là căn cứ để có thể áp dụng biện pháp tạm giam.
Vì đối tượng của biện pháp tạm giam là bị can, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội,
tức hành vi phạm tội đã được thực hiện trên thực tế nên căn cứ “kịp thời ngăn chặn
tội phạm” là không hợp lí. Các quy định còn lại đều phù hợp với bản chất của BPNC
tạm giam nên có thể coi đó là các căn cứ để áp dụng BPNC này. Như vậy, các căn

cứ để áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm:


Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy

tố, xét xử;


Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội;



Đảm bảo thi hành án.
1.4. Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam.
Khoản 3 Điều 88 quy định: “Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được

quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của
những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được
Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”. Với quy định trên ta xác định
được chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm:


Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân

sự các cấp;


Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;




Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án

nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;


Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
Xét các chủ thể trên ta có thể nhận thấy rằng, mỗi chủ thể nói trên sẽ áp dụng

biện pháp tạm giam trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, phù hợp với chức năng

5


nhiệm vụ của họ. Cụ thể, giai đoạn điều tra Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
điều tra các cấp là người có quyền áp dụng, thay đổi hủy bỏ biện pháp tạm giam.
Song các quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải
được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp theo quy định của khoản 3 Điều 88
nói trên. Giai đoạn truy tố quyền này thuộc về Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp. Giai đoạn xét xử, thẩm quyền
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ tạm giam lại thuộc về Chánh án, Phó Chánh án Toà án
nhân dân và Toà án quân sự các cấp và Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó
Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử. Ngoài ra, Tòa
án sẽ quyết định việc áp dụng tạm giam với bị cáo sau khi tuyên án theo quy định tại
Điều 228 BLTTHS.
1.5. Thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam.
Tạm giam là được coi là một BPNC mang tính nghiêm khắc nhất vì nó hạn
chế quyền tự do của con người trong một khoản thời gian ngất định. Do vậy, việc
thủ tục cho việc áp dụng biện pháp này được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Theo
quy định của BLTTHS khi áp dụng biện pháp tạm giam cơ quan ra lệnh tạm giam

phải áp dụng một số các thủ tục sau:


Việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam phải ghi

rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị
tạm giam và lý do tạm giam, phải có chữ kí của người ra lệnh tạm giam và đóng
dấu.


Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và

thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị
trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết. (Khoản
4 Điều 88 BLTTHS)


Tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù do vậy,

nơi tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác
được thực hiện theo quy định của Chính phủ. (Điều 89 BLTTHS)


Phải có chế độ chăm sóc đối với con chưa đủ 14 tuổi, người thân thích là

người tàn tật, già yếu của bị can, bị cáo người bị tạm giam. Đồng thời phải áp dụng

6



những biện pháp trông nom bảo quản đối với tài sản của người bị tạm giam. (Khoản
1, 2 Điều 90 BLTTHS)


Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm

giữ, tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng. (Khoản 3 Điều 90 BLTTHS)
1.6. Thời hạn tạm giam.
Thời hạn tạm giam được áp dụng khác nhau trong từng gia đoạn tố tụng, do
vậy nó không được quy định ở một điều luật cụ thể mà nằm ở các điều luật quy định
các giai đoạn của tố tụng hình sự. Cụ thể, BLTTHS đã quy định thời hạn tạm giam
cho các giai đoạn: điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm và thi hành án.
Thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 120 BLTTHS, theo đó
“Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít
nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn
tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Cơ
quan điều tra được yêu cầu Viện kiểm sát gia hạn tạm giam với thời hạn quy định
định tại khoản 2 Điều này.
Thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn truy tố được quy định
tại khoản 2 Điều 166 BLTTHS với thời gian 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm
trong, tội phạm nghiêm trọng và 30 ngày với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng. Viện kiểm sát được gia hạn thời hạn này với thời gian không quá 10
ngày cho tội phạm nghiêm trọng, ít nghiêm trọng và 15 ngày với tội phạm rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam để xét xử sơ thẩm không được quá thời
hạn chuẩn bị xét xử (Điều 177). Thời hạn xét xử được quy định tại Điều 166
BLTTHS theo đó thời hạn tạm giam trong giai đoạn này là 30 ngày đối với tội phạm
ít nghiêm trong, 45 ngày với tội phạm nghiêm trọng và 60 ngày với tội phạm rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Chánh án được gia hạn thời hạn này với thời
gian không quá 15 ngày cho tội phạm nghiêm trọng, ít nghiêm trọng và 30 ngày với

tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Tương tự như thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giam để xét
xử phúc thẩm không vượt quá thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm được quy định tại

7


Điều 242 BLTTHS. Theo đó, thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm tại Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân là sáu mươi ngày; Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong
thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
Sau khi xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm Hội đồng xét xử có thể quyết
định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo bị áp
dụng biện pháp tạm giam theo các trường hợp quy định tại khoản 1, 2 Điều 228
BLTTHS và thời hạn tạm giam sau khi tuyên án này là 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
(Khoản 3 Điều 228 BLTTHS)
Tại phiên tòa phúc thẩm, khoản 3 Điều 243 BLTTHS quy định: “Đối với bị
cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm
giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi
hành án, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ
luật này”. Và “thời hạn tạm giam là 45 ngày, kể từ ngày tuyên án”.
1.7. Ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Với ý nghĩa là một biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, tạm giam có ý
nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh, phòng và chống các loại tội phạm cũng như việc
đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân. Các ý nghĩa đó thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, tạm giam là phương pháp hữu hiệu để đảm bảo các hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Đảm bảo sự có mặt của bị
can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng, ngăn ngừa đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc
xóa bỏ dấu vết phạm tội. Ngoài ra, còn đảm bảo việc thi hành án đúng với sự quy
định của pháp luật.

Thứ hai. việc quy định biện pháp tam giam thể hiện sự cưỡng chế của Nhà
nước trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm góp phần nâng cao hiệu lực quản lý
của Nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế XHCN.
Thứ ba, việc quy định BPNC tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp phần
bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân theo quy định của hiến pháp.
Khi việc tạm giam được áp dụng không đúng pháp luật công dân có quyền khiếu nại
đến cơ quan có thẩm quyền.

8


Thứ tư, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Pháp luật XHCN
không cho phép bất cứ hành vi nào xâm hại tới quyền và lợi ích chính đáng của công
dân luôn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện
pháp ngăn chặn tạm giam.
Hiện nay, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm coi là
nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Để tiếp tục thực hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư
pháp, ngày 02 tháng 01 năm 2002 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TƯ về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49NQ/TƯ ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Các nghị
quyết trên đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của tố tụng hình sự cần phải được nghiên
cứu một cách toàn diện để thể chế hóa vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS), tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án hình sự. Trong đó, quy định về các BPNC nói chung và BPNC tạm giam
nói riêng cũng cần có các sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn hiện nay. Sau
đây là một số các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp ngăn
chặn tạm giam:
Thứ nhất, cần có những sửa đổi bổ sung đối với các quy định pháp luật hiện

hành về BPNC tạm giam trong BLTTHS cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tuy các văn bản pháp luật đã quy định khá chi tiết về BPNC tạm giam song lại chưa
có văn bản nào định nghĩa được một cách chính xác về BPNC tạm giam. Nội dung
các căn cứ tạm giam quy định trong BLTTHS chưa phản ánh được bản chất của tạm
giam và còn có những bất hợp lý, thiếu sót. Các quy định khác về thủ tục, thời hạn
cũng cần có những thay đổi hợp lý để tránh những sai sót không đáng có trong việc
áp dụng biện pháp tạm giam dẫn đến vi phạm quyền công dân, làm sa sút uy tín của
cơ quan nhà nước.
Thứ hai, cần nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của các
chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Cụ thể:

9


Đối với Cơ điều tra cần nâng cao chất lượng đội ngũ điều tra viên bằng việc
thường xuyên mở các lớp huấn luyện nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình độ
nghiệp vụ cho Điều tra viên nhất là trong công tác điều tra trực tiếp, lập hồ sơ vu án
Trong tình hình hiện nay khi tội phạm ngày càng tinh vi hơn với nhiều thủ đoạn
phạm tội chuyên nghiệp thì trình độ nghiệp vụ của điều tra viên là điều cần thiết để
xem xét sự thật khách quan của vụ án từ đó quyết định đưa ra các BPNC hợp lý.
Viện kiểm sát với chức năng là kiểm sát hoạt động tố tụng nói chung. Trong
hoạt động tố tụng cũng bao gồm việc kiểm sát việc áp dụng các BPNC trong đó có
tạm giam nhất là việc kiểm sát hoạt động áp dụng tạm giam của Cơ quan điều tra. Vì
vậy, yêu cầu với cơ quan kiểm sát là phải kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng tạm giam,
xem xét kĩ lưỡng trước việc phê chuẩn lệnh tạm giam để đảm bảo không có oan sai
dẫn đến vi phạm quyền của người bị áp dụng tạm giam. Muốn vậy, Viện kiểm sát
cần kiện toàn đội ngũ kiểm sát viên, đồng thời tăng cường việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhằm đảm bảo một cách tốt nhất
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của
công dân, kịp thời phát hiện và xử lí những trường hợp cố tình vi phạm các quy định

của pháp luật về tạm giam.
Đối với Tòa án cần tiến hành việc tập huấn nghiệp vụ cho các Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân về vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm
giam. Cần phải có văn bản hướng dẫn chi tiết về các trường hợp áp dụng, thẩm
quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam của Chánh án, Phó Chánh án và của hội
đồng xét xử.
Thứ ba, cần tăng cường hơn nữa việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất,
đảm bảo một chế độ hợp lí cho đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Hiện nay Nghị định 89/CP ngày 7/11/1998 về chế độ tạm giữ, tạm giam và Nghị
định 09/2011/NĐ-CP sửa đổi chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam đã và đang
thực hiện khá tốt về chế độ với người bị tạm giam ở nhiều địa phương. Song việc vi
phạm chế độ tạm giam là vẫn chưa được giải quyết triệt để. Hiện tượng quá tải đối
với các trại tạm giam là điều thường thấy ở các thành phố như Hà Nội, Hồ Chí Minh
và đặc biệt ở Hải Phòng nơi có tình trạng tội phạm diễn ra khá nhiều và tính chất

10


phức tạp. Sự hạn chế về diện tích cũng như xuống cấp của trại tạm giam cũng làm
cho công tác quản lí của trại trở nên khó khăn. Việc vi phạm kỷ luật nơi tạm giam
diễn ra khá phổ biến. Hơn nữa, bản chất của chế độ tạm giam không phải là chế độ
chấp hành hình phạt tù, người bị tạm giam phải được đảm bảo các nhu cầu tối thiểu
về sinh hoạt theo quy định của pháp luật. Do vậy đòi hỏi phải xúc tiến việc nâng cao
cơ sở vật chất của các trại tạm giam Đề việc quản lý các đối tượng tạm giam và chế
độ đối với các đối tượng tạm giam được tốt hơn.

KẾT LUẬN
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là sự thể hiện rõ nét các biện
pháp cưỡng chế nhà nước, nó là phương tiện hữ hiệu đã góp phần đắc lực cho quá
trình giải quyết các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên trong

quá trình áp dụng thì còn có những bất cập, vướng mắc cần khắc phục. Với các bật
cập như vậy đòi hỏi các nhà làm luật phải hoàm thiện các quy định pháp luật về vấn
đề này. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các chủ thể có thẩm
quyền phải triệt để tuân thủ pháp luật trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đặc biệt là đối với biện pháp ngăn chặn tạm giam. Có như vậy mới không để
xảy ra các sai phạm đáng tiếc, qua đó đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật,
uy tín của nhà nước, cơ quan nhà nước đối với nhân dân.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2007, 2008.
2. Trần Quang Tiệp, Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự,
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình
sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2000.
4. Võ Khánh Vinh, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2004.
5. Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005.
6. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2003.
7. Nghị đinh của Chính phủ số 89/1998/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 1998 ban
hành quy chế về tậm giữ, tạm giam.
8. Nghị định sửa đổi, bổ sung chế độ ăn và khám, chữa bệnh đối với người bị
tạm giam, tạm giữ quy định tại Điều 26 và Điều 28 quy chế về tạm giam, tạm
giữ ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm
1998 của Chính phủ.


12



×