Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Trọng tài thương mại – một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.2 KB, 16 trang )

Bài t ậ
p họ
c k ỳLu ậ
t Th ươ
ng m ạ
i 2 – Tr ọ
ng tài th ươ
ng m ạ
i
JUNE 23, 2012 BY LILYNNVIETNAM
1
Đề bài: Trọng tài thương mại – một hình thức giải quyết tranh chấp thương
mại.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong
hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả
của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế
nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt
động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định
cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Có thể hiểu: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột)
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương
mại. Các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các
thương nhân với nhau; ngoài ra trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ
chức (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương
mại như: tranh chấp giữa công ty và thành viên công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau… Trên thế giới cũng như ở Việt Nam tồn tại 4 phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm:Thương lượng; Hòa giải; Trọng tài
thương mại và Tòa án.
Cả 4 phương thức này đều có những ưu điểm và tầm quan trọng riêng của nó.
Trong phạm vi bài tập lớn học kỳ, trên cơ sở giáo trình, tài liệu tham khảo và kiến
thức từ bài giảng của thầy cô, em xin đi sâu tìm hiểu 1 trong 4 phương thức trên


với đề bài: “Trọng tài thương mại – một hình thức giải quyết tranh chấp thương
mại”. Sau đây là toàn bộ nội dung chính trong bài làm của em.
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Khi xảy ra tranh chấp trong kinh doanh, doanh nghiệp sẽ cần đến việc phân xử.
Hiện nay có 2 phương pháp giải quyết bằng tài phán là tòa án và trọng tài thương
mại. Trên thế giới, tại các nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thường sử dụng
phương pháp trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Vậy chúng ta cần phải hiểu trọng tài thương mại là gì? Khoản 1 Điều 3 Luật trọng
tài thương mại 2010 đưa ra định nghĩa: “Trọng tài thương mại là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của pháp


luật”Tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, pháp luật quy định nguyên
tắc loại trừ thẩm quyền của tòa án khi các bên đã lựa chọn trọng tài.
2. Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài
ad-hoc) và trọng tài thường trực.
2.1/ Trọng tài vụ việc:
Có thể định nghĩa rằng, trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh
chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài vụ
việc sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Đây là hình thức
trọng tài xuất hiện sớm nhất và được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới.
Từ định nghĩa trên, ta có thể rút ra được một số đặc điểm của trọng tài vụ việc như
sau:
ü Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
ü Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều
hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn
hoặc được chỉ định có thể là người có tên hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của

bất cứ trung tâm trọng tài nào.
ü Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy
tắc tố tựng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố
tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở
trong nước và quốc tế.
Ở Việt Nam, hình thức trọng tài vụ việc lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh
trọng tài thương mại 2003 và mới đây nhất là Luật trọng tài thương mại 2010 một
cách cụ thể, rõ ràng về cách thức hình thành, quy trình tố tụng cũng như giá trị của
pháp quyết và cơ chế đảm bảo thi hành quyết định của trọng tài vụ việc.
2.2/ Trọng tài thường trực:
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới những
hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện
trọng tài nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng
tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung
tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp, có thẩm quyền


giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà các bên tranh
chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh, có tư cách pháp nhân, có con
dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định. (Giáo trình Luật Hành chính
– Đại học Luật Hà Nội)
Từ khái niệm về trung tâm trọng tài trên, ta có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản
về hình thức trọng tài này như sau:
ü Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức xã hội – nghề nghiệp theo quy định
về quy chế pháp lý của các tổ chức xã hội. Theo đó, Trung tâm trọng tài mang đầy
đủ đặc điểm của một tổ chức xã hội – nghề nghiệp: Hoạt động mang tính tự quản,
cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ chức do tổ chức quyết định, hoạt động không
mang tính quyền lực nhà nước, đảm bảo nguyên tức tự nguyện khi hình thành tổ

chức…
ü Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
ü Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ
cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung
tâm.
ü Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc
tố tụng riêng.
ü Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng
tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết
tranh chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy,
hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên
của chính trung tâm.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
3.1/ Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài:
Nguyên tắc này được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết tại
trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực.
Theo điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010, nếu không có thỏa thuận trọng tài
hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải quyết thì quyết
định của hội đồng sẽ bị hủy. Đây là nguyên tắc quan trọng và có tính quyết định
đối với việc có hay không áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Nếu không có nguyên tắc này thì những nguyên tắc sau cũng trở thành vô nghĩa và
không cần thiết. Chính vì vậy mà nó được đưa lên làm nguyên tắc đầu tiên và cũng
là nguyên tắc cần áp dụng trước tiên khi tiến hành xem xét một vụ tranh chấp bằng
hình thức trọng tài thương mại.


3.2/ Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan:
Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng họ đang
và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kỳ sự kiện hoặc

chi tiết nào có thể khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Điều này cho
thấy, việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng, tính độc lập của các trọng tài
viên đối với các bên là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Trọng tài viên phải có đủ
cách điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ độc lập, vô tư, khách quan trong việc
giải quyết tranh chấp. Để trở thành một trọng tài viên của một trung tâm trọng tài,
công dân Việt Nam cần hội tụ đầy đủ những điều kiện quy định tại điều 20 Luật
trọng tài thương mại 2010
Khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải thật sự là người
thứ ba độc lập, vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như không
có bất kỳ lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó. Nếu vi phạm những quy định
trên, trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp hoặc các bên có quyền yêu
cầu đổi trọng tài viên vụ tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải căn cứ vào các tình tiết
của vụ tranh chấp, xác mình sự việc nếu thấy cần thiết và phải căn cứ vào các
chứng cứ mà mình thu thập được chứ không thể bị chi phố bởi bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào. Không ai có quyền can thiệp, chỉ đạo vào việc giải quyết tranh chấp của
trọng tài viên. Quyết định của trọng tài viên phải đúng với sự thật khách quan.
Tại điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010 còn quy định: Nếu trọng tài viên không
vô tư, không khách quan trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, vi phạm
nghĩa vụ của trọng tài viên thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng tài viên
đó sẽ bị hủy bỏ.
3.3/ Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật:
Đây được coi là một nguyên tắc rất quan trọng trong mọi thủ tục tố tụng cũng như
giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội trong điều kiện nhà nước pháp quyền. Vì
vậy, để giải quyết tranh chấp thương mại một cách công bằng, hợp lý, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của các bên; trọng tài viên – người được các bên có
tranh chấp lựa chọn để giải quyết tranh chấp phải căn cứ theo pháp luật.
Nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi
phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài. Tư
tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật, trọng



tài viên mới giải quyết được các tranh chấp một cách vô tư, khách quan. Có như
vậy mới được các nhà kinh doanh tín nhiệm.
3.4/ Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên:
Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến
thủ tục giải quyết tranh chấp mà trọng tài viên phải tôn trọng, nếu không sẽ dẫn
đến hậu quả là quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của
các bên.
Có thể thấy rằng, thông qua thỏa thuận trọng tài, quyền hạn của hội đồng trọng tài
trong việc giải quyết tranh chấp là do các bên giao cho họ. Cụ thể như:
ü Các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng nào nào, hình thức trọng tài nào thì chỉ
có trung tâm trọng tài đó và hình thức trọng tài đó có thẩm quyền giải quyết.
ü Các bên lựa chọn trọng tài viên nào thì trọng tài viên đó có quyền giải quyết.
ü Các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết thì
chỉ có trọng tài viên duy nhất đó có quyền giải quyết.
ü Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp.
ü Các bên có quyền thỏa thuận thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc
giải quyết.
ü Các bên có quyền thỏa thuận thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp.
Như vậy, có thể thấy nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tham gia tranh
chấp là một trong những nguyên nhắc tiên quyết của việc áp dụng hình thức trọng
tài thương mại. Và chỉ có trong tố tụng trọng tài – hình thức giải quyết tranh chấp
do các bên lựa chọn, các bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đề như vậy và
trọng tài viên bắt buộc phải tuân theo.
3.5/ Nguyên tắc giải quyết một lần:
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc giải quyết tranh chấp thương
mại là nhanh chóng, tránh dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy mà ngày nay, để các tranh chấp thương
mại giữa các nhà kinh doanh có thể được giải quyết nhanh chóng và dứt điểm, các



tổ chức trọng tài phi chính phủ đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đó của các nhà kinh
doanh.
Với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có cơ quan
cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án, cũng không có
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết,
tức là các tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài.
Nếu quyết định của trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của một
trong các bên mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì sau thời hạn 30
ngày, kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, bên được thi hành quyết
định trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở,
nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài.
4. Thẩm quyền của trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương mại.
Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa
thuận trọng tài này có hiệu lực.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ
việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân định
thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa thuận
của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của trọng
tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa
thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ,
không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng
không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không
phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải
quyết nếu các bên có thỏa thuận trọng tài.
Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường trọng

tài, tức là họ đã trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và
phủ định thẩm quyền xét xử đó của tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc
các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
Nói tóm lại, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào
được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại, tranh chấp này phát sinh trong


hoạt động thương mại giữa cá nhân kinh doanh và tổ chức kinh doanh và các bên
có thỏa thuận trọng tài. Nếu thiếu 1 trong 2 điều kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc
thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
Sau đây, trên cơ sở Luật trọng tài thương mại 2010 và các văn bản pháp luật hiện
hành có liên quan, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu hơn về thẩm quyền của trọng tài
thương mại thông qua 2 điều kiện trên:
4.1/ Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại phải là
tranh chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh
Như ta đã biết, trong hoạt động giao kết hợp đồng giữa 1 bên là thương nhân với
một bên là các cá nhân, tổ chức (không phải là thương nhân), nếu có phát sinh
tranh chấp thì Luật thương mại 2005 cho phép bên có hoạt động không nhằm mục
đích sinh lợi (bên có hành vi dân sự) có thể chọn áp dụng Luật thương mại để giải
quyết.
Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch
với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy nhưng bên không
nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật thương mại thì quan hệ này trở thành
quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ này phải được
quan niệm là tranh chấp thương mại. Ví dụ như: tranh chấp giữa công ty với thành
viên công ty hay tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau thực chất là tranh
chấp thương mại hiểu theo nghĩa rộng vì tranh chấp này phát sinh từ hoạt động đầu
tư với mục đích sinh lợi.
Tóm lại, trọng tài thương mại Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các bên là cá nhân kinh doanh

hoặc tổ chức kinh doanh. Như vậy, so với pháp luật một số nước trên thế giới, pháp
luật Việt Nam ta không mở rộng hoàn toàn thẩm quyền của trọng tài thương mại.
4.2/ Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài hợp lệ
4.2.1/ Thỏa thuận trọng tài:
Trước hết, có thể hiểu thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải
quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong
hoạt động thương mại. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có
tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa
án – cơ quan tài phán nhà nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi
ích hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết
mà không cần có sự thỏa thuận trước, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi


hỏi phải có sự thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận
giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.
Thỏa thuận trọng tài có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong hợp
đồng và phải được lập thành văn bản. Các hình thức thỏa thuận qua thư, điện báo,
Telex, Fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện ý chí của các bên giải
quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài đều được coi là thỏa thuận trọng tài. Ngay cả
khi hợp đồng giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận trọng
tài vẫn phải lập thành văn bản. Khi nộp đơn kiện cho trung tâm trọng tài, nguyên
đơn phải nộp kèm theo thỏa thuận trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài,
trung tâm trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết.
4.2.2/ Thỏa thuận trọng tài hợp lệ:
Thỏa thuận trọng tài hợp lệ là thỏa thuận trọng tài đó không bị vô hiệu. Điều này
có nghĩa là, ngay cả khi có thỏa thuận trọng tài nhưng nếu thỏa thuận trọng tài đó
vô hiệu thì trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết. Các trường hợp thỏa
thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010
như sau:
1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài

quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy
định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của
Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Như vậy, thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu khi thỏa thuận đó không thể hiện
đầy đủ, thể hiện không đúng ý chí của các bên hoặc ý chí của các bên không phù
hợp quy định của pháp luật. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu không tạo ra thẩm quyền
cho trọng tài. Khi đó vụ việc sẽ thuộc thẩm quyền của tòa án.
II. Thực trạng việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải
quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và khá thông
dụng trên thế giới, song tại Việt Nam trọng tài thương mại lại rất mờ nhạt. Con
đường tài phán này hiện không nhận được sự quan tâm của doanh nghiệp. Điểm


qua hoạt động của các trung tâm trọng tài trong thời gian gần đây, ta có thể rút ra
được một số thực trạng tiêu biểu về tình hình áp dụng hình thức trọng tài thương
mại trong việc giải quyết các tranh chấp ở Việt Nam ta hiện nay, đó là:
- Thứ nhất, về phía các trung tâm trọng tài: Theo kết quả nghiên cứu về sự cần
thiết và việc sử dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại Việt Nam do
Bộ tư pháp tiến hành mới đây cho thấy có đến 75% ý kiến cho rằng cần thiết thành
lập trung tâm trọng tài, tuy nhiên, hiện nay trên cả nước mới có 6 trung tâm trọng
tài (3 trung tâm tại Hà Nội, 2 trung tâm tại Thành phố Hồ Chí Minh, 1 trung tâm
tại Cần Thơ). Thực ra trước đó cũng có 1 trung tâm trọng tài tại Bắc Giang, tuy

nhiên trung tâm này thành lập ra do khó khăn về trụ sở rồi cũng giải tán. Tuy
nhiên, ngoài Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (bên cạnh Phòng Thương mại
và công nghiệp Việt Nam) là còn có doanh nghiệp gõ cửa, các trung tâm trọng tài
khác hầu như “ngồi chơi xơi nước”.
Bên cạnh đó, theo thứ trưởng Bộ tư pháp Hoàng Thế Liên: Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC) mỗi năm chỉ xử lý được 20 – 25 vụ. Các trung tâm
trọng tài khác khoảng 5 đến 7 vụ, thậm chí có trung tâm trọng tài không có vụ nào.
Như vậy, trước vận hội mới, khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
WTO thì các trung tâm trọng tài thương mại đang đứng trước tình hình “nước sôi
lửa bỏng”. Các tổ chức trọng tài thương mại hiện nay thực sự yếu cả về tổ chức,
chất lượng cũng như năng lực trọng tài viên. “Nếu không có sự hỗ trợ của Nhà
nước, cứ để các trung tâm trọng tài tự “bơi” trong hoạt động như các văn phòng
luật sư hoặc các trung tâm, câu lạc bộ… thì sẽ đến ngày… sập tiệm”2.
- Thứ hai, về phía các doanh nghiệp: Theo tài liệu thống kê, có tới 84% doanh
nghiệp không biết đến việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này cũng dễ
hiệu bởi còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh theo lối cũ, khi xảy ra tranh
chấp thì “nhờ” cơ quan chủ quản hoặc Bộ chủ quản giải quyết.
Bên cạnh đó, theo thông kê của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, trong
khoảng 2 năm trở lại đây, trong các vụ tranh chấp thương mại, có đến gần 60% vụ
việc xảy ra giữa các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài. Và
doanh nghiệp Việt Nam thường thua thiệt trước các doanh
nghiệp nước ngoài do thiếu kinh nghiệm thương trường và kém hiểu biết về trọng
tài thương mại. Có thể xem qua 2 ví dụ sau đây như một điển hình cho việc thiếu
hiểu biết về trọng tài thương mại3):

Ví dụ 1: VIAC đã từng phải từ chối giải quyết tranh chấp mua bán hàng hóa
giữa một công ty Đài Loan và chi nhánh công ty A có trụ sở tại Bà Rịa – Vũng
Tàu với lý do điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp trong hợp đồng ghi



rất chung chung là “nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tài Việt Nam giải quyết”. Do
mất nhiều thời gian để nhờ trọng tài phân xử, cuối cùng vụ việc được đưa ra Tòa
án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giải quyết nhưng cũng bị đình chỉ vì đã quá
thời hiệu khởi kiện.

Ví dụ 2: Vừa qua, công ty Dâu tằm tơ Việt Nam đã bị trọng tài Geneva
(Thụy Sĩ) buộc phải thanh toán gần nửa triệu USD cho công ty Kyunggi Silk
(Hàn Quốc) trong một vụ tranh chấp kéo dài 3 năm, kèm theo đó Công ty Dâu
tằm tơ Việt Nam phải thanh toán gần 40.000 USD tiền phí trọng tài.
Thông thường, các điều khoản về giá cả, chất lượng hàng hóa, thời gian giao hàng,
phương thức thanh toán… vẫn được các doanh nghiệp chú trọng hơn là các điều
khoản về giải quyết tranh chấp. Chính tâm lý đó đã tạo ra những sai sót không
đáng có cho các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong nhiều hợp
đồng, doanh nghiệp viết là: “nếu có tranh chấp thì sẽ nhờ công an giải
quyết” hoặc “nhờ Ủy ban nhân dân”chứng tỏ doanh nghiệp chỉ hiểu một cách
nôm na, đại khái về trọng tài thương mại. Có trường hợp có thỏa thuận về trọng tài
nhưng lại ghi là “nếu không đồng ý với phán quyết của trọng tài thì có thể nhờ Tòa
án giải quyết”. Trong trường hợp này thì cả trọng tài và tòa án đều “bó tay”.
Cũng đã có những trường hợp doanh nghiệp đã chọn chính xác VIAC nhưng quy
tắc tố tựng trong hợp đồng thì doanh nghiệp lại chọn theo quy tắc của trọng tài
thương mại Pari. VIAC đã từ chối không thụ lý vì nếu theo quy tắc tố tụng của
trọng tài thương mại Pari thì rất khó trong việc chọn trọng tài viên, quy tắc tố tụng,
gặp rắc rối trong phí trọng tài và một số vấn đề về địa điểm xử lý tranh chấp.
- Thứ ba, về phía các trọng tài viên: Các trọng tài viên hiện nay đều là những
người kiêm nhiệm trong các lĩnh vực thương mại. Vì vậy, một số trọng tài viên còn
chưa chuyên nghiệp, ví dụ như yêu cầu về quy tắc tố tụng. Điều này một số trọng
tài viên còn chưa nắm được.
Cùng với đó, các tranh chấp ngày càng sâu và phức tạp, nhất là những tranh chấp
có yếu tố nước ngoài. Hiện nay cũng tồn tại thực trạng có một số ít trọng tài viên
chưa nắm chắc kiến thức pháp luật quốc tế bao gồm luật các nước và các điều ước

quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên hoặc sắp là thành viên, từ đó sẽ ảnh hưởng
đến chất lượng xét xử.
III. Một số giải pháp chung để hoàn thiện hình thức trọng tài thương mại
trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại
- Thứ nhất, một số nhà chuyên môn cho rằng không có cơ sở khoa học nào lí giải
cho việc thu hẹp phạm vi thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương
mại của trọng tài so với tòa án. Vì vậy, việc sửa đổi pháp luật trọng tài trong thời
gian tới nên mở rộng thẩm quyền cho trọng tài, tạo điều kiện cho các bên được


quyền tự do lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với pháp luật và thông
lệ quốc tế.
- Thứ hai, các doanh nghiệp cần phải trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về
trọng tài thương mại. Khi ký kết hợp đồng cần lưu ý phải ghi rõ trung tâm trọng tài
nào sẽ xử lý khi tranh chấp xảy ra. Các thỏa thuận càng chi tiết càng tốt. Ví dụ như:
Luật áp dụng cho thủ tục tố tụng là luật nào? Luật áp dụng cho nội dung vụ tranh
chấp là luật nào? Ngôn ngữ xử lý?… Nhưng doanh nghiệp cần lưu ý, trọng tài viên
không phải luật sư của mình mà sẽ là người công tâm đứng ra giải quyết vụ việc và
chỉ tuân theo pháp luật.
- Thứ ba, để cơ chế trọng tài trở thành một thành tố không thể thiếu trong hoạt
động thương mại thời gian tới, các trung tâm trọng tài nói chung và VIAC nói
riêng vẫn cần phải liên tục khẳng định năng lực xét xử của mình. Các trung tâm
trong tài cần tiến tới không chỉ là chỗ dựa tin cậy của doanh nghiệp Việt Nam mà
có thể còn là sự lựa chọn của các doanh nghiệp nước ngoài trong các giao thương
quốc tế.
- Thứ tư, cần nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực của các trọng tài viên, tăng
cường tập huấn, đào tạo thêm kỹ năng nghiệp vụ về tố tụng trọng tài. Đồng thời
tranh thủ và tận dụng sự hỗ trợ của nhà nước về kinh phí, trụ sở…
Trên đây là một số các giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện các vấn đề liên quan
đến hoạt động trọng tài thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp kinh

doanh, thương mại. Hy vọng với những giải pháp này, trong tương lai các trung
tâm trọng tài sẽ ngày càng trở nên phát triển, sẽ có nhiều những vụ án được giải
quyết bằng thủ tục trọng tài với thời gian ngắn và hiệu quả cao hơn.
KẾT LUẬN
Ở Việt Nam ta, trong điều kiện đầu tư nước ngoài vào nước ta ngày càng gia tăng,
hoạt động thương mại càng sôi nổi thì tranh chấp thương mại giữa các nhà đầu tư
và thương gia ngày càng nhiều hơn. Đây cũng là điều bình thường trọng đời sống
thương mại. Theo thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Tiến Liên, điều quan trọng nhất là
Nhà nước phải tạo hành lang pháp lý giải quyết các tranh chấp này. Đáp ứng được
nhu cầu này, Đảng và Nhà nước ta đã cho ban hành một số các văn bản quy định
về các hoạt động tranh chấp, giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và hoạt
động trọng tài thương mại nói riêng. Những văn bản này đã tạo điều kiện cho các
trung tâm trọng tài hoạt động và phát triển đúng hướng, cũng như tạo điều kiện các
doanh nghiệp tìm hiểu và tiếp cận với hình thức giải quyết tranh chấp này.

2 Theo luật sư Nguyễn Hồng Khởi phát biểu trong cuộc họp toạ đàm về sử dụng
trọng tài thương mại tại Việt Nam do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 20/12/2006.





3 Theo lời phát biểu của ông Nguyễn Minh Chí – Chủ tịch trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC) trong cuộc phỏng vấn với phóng viên báo Hải quan
Share this:
Twitter
Facebook




Like this:
Like
Be the first to like this.
This entry was posted in Thương mại 2 and tagged bài tập lớn học kỳ, Luật
Thương mại 2. Bookmark thepermalink.
Post navigation
← Cách làm sữa chua mít
Bài tập học kỳ Luật Hành chính – Đề 2 – Hình thức công dân tham gia vào quản
lý hành chính nhà nước →
ONE THOUGHT ON “BÀI TẬP HỌC KỲ LUẬT THƯƠNG MẠI 2 –
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI”

1.

lilynnvietnam June 23, 2012 at 6:38 pm
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại Tập II, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an
nhân dân Hà Nội – 2006.
2. Luật thương mại 2005.
3. Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
4. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
5. Pháp lệnh thi hành án.
6. Nghị định số 25/2004/NĐ – CP của Chính phủ ngày 15/1/2004 quy định chi tiết
thi hành một số điều của pháp lệnh trọng tài thương mại.
7. Nghị quyết số 04/NQ – HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
ngày 27/5/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án kinh tế.
8. Nghị quyết số 05/2003/NQ – HĐTP của Hội đồng thẩm thán Tòa án nhân dân
tối cao ngày 31/7/2003 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh trọng tài
Thương mại.

9. Bài viết “Cần phải có Luật trọng tài Thương mại” của phóng viên Minh Huệ,


đăng trên trang web – trang web chính thức của Trung tâm trọng
tài quốc tế Việt Nam, bên cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
10. Bài viết “Vì sao bỏ qua trọng tài?” của phóng viên Minh Tú, đăng trên trang
web .
11. Bài viết “Trọng tài thương mại “chạy đua” với hội nhập” của phóng viên Thanh
Lan, đăng trên trang web ngày 29/1/2007.
12. Bài viết “Trọng tài kinh tế mới chỉ là “trang sức” của phóng viên Vũ Hạnh,
đăng trên trang web http://www/vovnews.vn ngày 1/12/2007



×