Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tình hình tội phạm ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.46 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………...…………………
NỘI DUNG……………………………………………………………………...
I. Một số vấn đề lý luận chung về tình hình tội phạm…………………………...
1. Khái niệm tình hình tội phạm………………………………………………...
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tình hình tội phạm……………………………
II. Các nội dung của tình hình tội phạm…………………………………………
1. Thực trạng của tình hình tội phạm……………………………………………
1.1. Tội phạm rõ (Cleared crime)………………………………………………
1.2. Tội phạm ẩn (Dark figure of crime)………………………………………...
1.3. Chỉ số tội phạm……………………………………………………………..
1.4. Thông số về nạn nhân……………………………………………………....
2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm………………………………...
3. Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm…………………………………
III. Tình hình tội phạm ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp……...
1. Thực trạng tình hình tội phạm ở Việt Nam…………………………………...
2. Nguyên nhân………………………………………………………………….
3. Giải pháp……………………………………………………………………...
KẾT LUẬN……………………………………………………………………...

1


MỞ ĐẦU
Một trong những nhiệm vụ đặt ra đối với ngành tội phạm học là đưa ra được
những biện pháp ngăn chặn tội phạm và khống chế được tình hình tội phạm. Tuy
nhiên, bản thân của thuật ngữ "tình hình tội phạm" vẫn còn nhiều tranh cãi khác
nhau xung quanh định nghĩa của nó. Trong phạm vi bài nghiên cứu của mình, em
xin được trình bày nhận thức của mình về tình hình tội phạm.
NỘI DUNG


I. Một số vấn đề lý luận chung về tình hình tội phạm
1. Khái niệm tình hình tội phạm
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “tình hình” được hiểu là: “Trạng thái, xu thế
phát triển của sự vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi ở trong
đó”. Từ đó, chúng ta có thể hiểu tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động
của hiện tượng tội phạm. Đồng thời, nói đến tình hình tội phạm thì bao giờ cũng
gắn với nó một khoảng không gian và thời gian cụ thể, vì tội phạm luôn xảy ra trong
không gian, thời gian xác định. Do vậy, có thể định nghĩa được tình hình tội phạm
như sau: “Tình hình tội phạm là thực trạng và diễn biến của tình hình tội phạm đã
xảy ra trong đơn vị không gian và đơn vị thời gian nhất định”.
Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu tội phạm học ở Việt Nam hiện
nay còn có rất nhiều các quan điểm khác nhau khi trình bày về khái niệm tình hình
tội phạm.Và giữa các khái niệm đó cũng có những điểm tương đồng và khác biệt
nhất định, tùy thuộc theo quan điểm và cơ sở lập luận của mỗi nhà nghiên cứu. Để
tìm hiểu về vấn đề này, em xin được đưa ra những quan điểm khác nhau về tình
hình tội phạm trong một số giáo trình tội phạm học khác nhau:
* Có nhiều quan điểm cho rằng tình hình tội phạm mang tính giai cấp:
“Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội pháp lý tiêu cực, được thay đổi
về mặt lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội
phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian
nhất định” (Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội năm 1994)
“Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lí - hình sự được thay
đổi về mặt lịch sử, mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các
tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian
nhất định” (Giáo trình tội phạm học của Đại học Huế, Trung tâm đào tạo từ xa,
Nxb. Giáo dục năm 1999).
“ Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực mang thuộc tính xã hội,
thường xuyên thay đổi, giai cấp , pháp luật hình sự và được phản ánh bằng toàn bộ
2



tình hình, cơ cấu, diễn biến của tổng thể các loại hoặc một loại tội phạm đã xảy ra
trong một khoảng thời gian nhất định và trong một phạm vi nhất định” (Giáo trình
tội phạm học của Đại học quốc gia Hà nội, Nxb ĐHQGHN năm 1999).
“Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực mang tính lịch sử cụ
thể và pháp lý hình sự, có tính giai cấp và được biểu hiện thông qua tổng thể các
tội phạm cùng các chủ thể thực hiện các tội phạm đó trong một đơn vị hành chính
lãnh thổ nhất định và trong một thời gian cụ thể nhất định”. (TS. Phạm Văn Tỉnh,
Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2007, tr10)
Với những quan điểm này, theo em là không hợp lý, bởi vì không phải hầu hết
các tội phạm trong xã hội đều nảy sinh do xung đột quyền lợi giai cấp. Có rất nhiều
tội phạm trong xã hội phát sinh không do xung đột quyền lợi giữa các giai cấp đối
kháng – giữa giai cấp thống trị và bị trị. Ví dụ: các tội phạm về công nghệ cao, tội
mua bán người phát sinh phát sinh trong xã hội không có liên quan gì đến vấn đề
xung đột quyền lợi giai cấp; do vậy, tình hình tội phạm về công nghệ cao hay tình
hình tội phạm mua bán người không thể mang tính giai cấp.
 Do đó, không thể khẳng định chung, thống nhất tình hình tội phạm mang
tính giai cấp.
* Mặt khác, lại có quan điểm cho rằng tình hình tội phạm mang tính chất trái
pháp luật hình sự:
“ Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực, trái pháp luật hình sự,
mang tính giai cấp và thay đổi theo quá trình lịch sử được thể hiện ở tổng hợp các
tội phạm cụ thể đã xảy ra trong xã hội và trong khoảng thời gian nhất định” (Giáo
trình tội phạm học của Đại học Luật Hà Nội Nxb. Công an nhân dân, Hà nội năm
2006).
Nếu cho rằng tình hình tội phạm mang tính trái pháp luật hình sự thì cũng
không đúng vì như vậy có thể hiểu là có sự đồng nhất tội phạm với tình hình tội
phạm. Được coi là trái pháp luật hình sự khi có đủ hai điều kiện: một là, được quy

định trong bộ luật hình sự, hai là không có căn cứ hợp pháp.
Do đó, chỉ có tội phạm mới là hành vi trái pháp luật hình sự, còn tình hình tội
phạm là “ bức tranh” phản ánh hiện tượng tiêu cực của xã hội bị Nhà nước và xã hội
lên án. Tình hình tội phạm là một thuật ngữ của tội phạm học và tìm hiểu về tình
hình tội phạm thì phải tiếp cận dưới góc độ tội phạm học chứ không phải dưới góc
độ luật hình sự và với góc độ tội phạm học thì không thể nói đến dấu hiệu về hình
thức hay nội dung của tình hình tội phạm.
 Như vậy, tình hình tội phạm không thể nào có tính trái pháp luật hình sự.
3


* Trong số các quan điểm đưa ra, em chọn quan điểm của GS.TS. Nguyễn
Ngọc Hòa:
“ Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của (các) tội phạm (hoặc
nhóm tội phạm hoặc một loại tội phạm) đã xảy ra trong một đơn vị không gian và
đơn vị thời gian nhất định” (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội
phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà nội năm 2006).
Quan điểm này phù hợp với định nghĩa mà ta đã khẳng định ở trên, đồng thời
nó là quan điểm đã lột tả được một cách rõ nét nhất bản chất của tình hình tội phạm,
giúp ta phân biệt rõ ràng giữa tội phạm và tình hình tội phạm cũng như cách nhìn
nhận về tình hình tội phạm dưới góc độ tội phạm học. kế thừa và phát triển quan
điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, PGS. TS Dương Tuyết Miên đã cho chúng ta
cách nhìn nhận toàn diện hơn về tình hình tội phạm:
“ Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận động của (các) tội phạm (hoặc
nhóm tội phạm hoặc một loại tội phạm) đã xảy ra trong một đơn vị không gian và
đơn vị thời gian nhất định. Tình hình tội phạm được thể hiện thông qua thực trạng,
diễn biến, cơ cấu, tính chất của tình hình tội phạm, trên cơ sở đó giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền xây dựng được biện pháp phòng ngừa tội phạm sát với thực
tiễn”.
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tình hình tội phạm

Tình hình tội phạm là nội dung quan trọng của tội phạm học trong việc hoạch
định các chính sách phòng ngừa tội phạm. Nhằm kiểm soát tội phạm trước hết phải
dựa trên cơ sở nghiên cứu toàn diện về tình hình tội phạm.
Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm cho chúng ta “bức tranh” toàn cảnh về
tội phạm đã xảy ra trong thực tế, đời sống xã hội, hay nói cách khác bản thân nó là
sự cảnh báo cho xã hội về một trong các khía cạnh của xã hội đó là “tội phạm”, qua
đó đánh giá đầy đủ và toàn diện về tội phạm.
Các điểm đặc trưng của tình hình tội phạm thông qua thông số về thực trạng,
diễn biến, cơ cấu, tính chất của tình tội phạm chính là cơ sở để các nhà nghiên cứu,
các nhà chuyên môn giải thích, phát hiện nguyên nhân tội phạm, từ đó hoạch định
chính sách phòng ngừa tội phạm, ngăn chặn kịp thời sự gia tăng tỷ lệ tội phạm,
kiểm soát tội phạm có hiệu quả.
II. Các nội dung của tình hình tội phạm
Các bộ phận hợp thành của tình hình tội phạm bao gồm: Thực trạng của tình
hình tội phạm, diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm, cơ cấu của tình hình tội
phạm và tính chất của tình hình tội phạm. Trong đó, thực trạng và diễn biến của tình
hình tội phạm cho ta biết những thông số về “lượng” của tình hình tội phạm. Còn cơ
4


cấu, tính chất của tình hình tội phạm thuộc cho ta biết những thông số về “chất” của
tình hình tội phạm.
1. Thực trạng của tình hình tội phạm
Thực trạng của tình hình tội phạm là tổng hợp các số liệu về vụ phạm tội đã
xảy ra, số lượng người thực hiện các tội đó và thông số về nạn nhân trên một địa
bàn nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Đặc biệt khi nghiên cứu về vấn
đề này, ta cần làm sáng tỏ vấn đề “tội phạm rõ” và “tội phạm ẩn”, bởi vì không phải
mọi tội phạm xảy ra trên thực tế đều bị phát hiện và xử lí về hình sự. Có khá nhiều
tội phạm xảy ra trên thực tế nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên không bị
phát hiện và do vậy không bị xử lí về hình sự.1

1.1. Tội phạm rõ (Cleared crime)
* Về khái niệm: Theo giáo trình tội phạm học của Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2012, “tội phạm rõ là tội phạm đã được xử lí về hình sự và đã được đưa
vào thống kê tội phạm”2. Còn theo giáo trình Tội phạm học do PGS.TS Dương
Tuyết Miên chủ biên, một tội phạm được coi là tội phạm rõ khi có đủ 3 nhân tố: Có
người chứng kiến hoặc phát hiện ra tội phạm; tội phạm đã được tường thuật (tố
cáo) với cảnh sát; Cơ quan cảnh sát hoặc cơ quan áp dụng luật khác khẳng định đó
là hành vi vi phạm Luật Hình sự. Thời điểm được coi là tội phạm rõ khá sớm ngay
từ khi cơ quan cảnh sát nhận được tin báo về tội phạm và có sự xác nhận của cơ
quan cảnh sát hoặc cơ quan áp dụng luật khác là hành vi đó vi phạm pháp luật 3
Như vậy, có thể thấy hai khái niệm trên đã có quan điểm khác nhau về thời
điểm để xác định hay còn gọi là cơ sở xác định tội phạm rõ.
* Về cơ sở xác định tội phạm rõ:
Theo khái niệm đầu tiên, cơ sở để xác định tội phạm rõ là tội phạm đã được
xử lí về hình sự bao gồm: tội phạm đã có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật (kể
cả được miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt), những trường hợp đã được xác
định là tội phạm nhưng vì nhiều lí do khác nhau mà không được đưa ra xét xử như
đã hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự, chủ thể thực hiện đã chết v.v… Như
vậy thời điểm xác định tội phạm rõ là khi tội phạm bị đưa ra xét xử về hình sự và có
trong thống kê hình sự chính thức của cơ quan Tòa án. Bởi lẽ, thống kê xét xử hình
sự của Tòa án có tính chính xác cao, ổn định vì đây là giai đoạn cuối cùng của quá
trình chứng minh, mặt khác số người bị Tòa án xét xử oan cũng là hãn hữu. Đây
cũng là quan điểm được rất nhiều giáo trình tội phạm học khác thừa nhận.
1

Tiến sĩ Dương Tuyết Miên (chủ biên), giáo trình Tội phạm học, Nxb. Giáo dục Việt Nam, năm 2010,tr.80.
Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Tội phạm học, Nxb.CAND, Hà Nội, năm 2012, tr 102.
3
Tiến sĩ Dương Tuyết Miên (chủ biên), giáo trình Tội phạm học, Nxb. Giáo dục Việt Nam, năm 2010,tr.80
2


5


Nhưng, giáo trình Tội phạm học do TS Dương Tuyết Miên (chủ biên) lại cho
rằng: để xác định tội phạm rõ phải dựa trên thông số về số vụ xảy ra trên thực tế, và
chỉ khi làm như vậy mới phản ánh chính xác về thực trạng của tình hình tội phạm.
Thông số về số vụ án xảy ra được lưu trữ ở cơ quan cảnh sát là đầy đủ nhất, vì
thông thường khi có tội phạm xảy ra, người dân thường báo cho cơ quan cảnh sát
biết. Và khi xác nhận là có tội phạm, cơ quan cảnh sát sẽ lập hồ sơ. Thống kê của cơ
quan cảnh sát phản ánh đầy đủ, bao quát hơn số liệu xét xử của Tòa án, vì nhân tố
quan trọng nhất phản ánh thực trạng của tình hình tội phạm chính là số vụ án xảy ra
trên thực tế. Bởi vì không phải mọi vụ án xảy ra thì đều được các cơ quan chức
năng truy tìm ra thủ phạm và tất cả các bị cáo đều được đưa ra xét xử. Thực tế cho
thấy số vụ án hình sự đã tìm ra thủ phạm và bị đưa ra xét xử có độ chênh vênh khá
lớn. Con số vụ án hình sự tìm ra thủ phạm và bị đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ thấp hơn
nhiều so với con số vụ án hình sự xảy ra trên thực tế. Do vậy nếu đánh giá tình hình
tội phạm mà chỉ dựa vào số liệu xét xử của Tòa án thì chắc chắn phản ánh không
đúng số lượng của tội phạm trên thực tế. Đó là chưa kể số liệu xét xử của Tòa án về
số vụ sẽ không thể khớp về thời gian so với số vụ xảy ra trên thực tế, bởi vì nhiều
vụ phạm tội xảy ra thời gian khá lâu sau mới được đưa ra xét xử, hoặc phát hiện ra
thủ phạm nhưng vì yếu tố khách quan nên án bị tồn đọng và xét xử chậm.
Như vậy, theo em, Tác giả - PGS. TS Dương Tuyết Miên đã tìm ra một
hướng đi mới trong cách xác định Tội phạm rõ, quan điểm này cũng đã có sự lý giải
một cách khoa học, hợp lí hơn về thời điểm xác định tội phạm rõ. Bởi vì, trên thực
đã có những vụ án đã xảy ra nhưng chưa truy tìm được thủ phạm và do vậy chưa thể
đưa ra xét xử hoặc có những vụ án tuy người phạm tội có tội nhưng sau đó được
viện kiểm sát xác định miễn trách nhiệm hình sự… Đồng thời có những vụ án chưa
thể và không được đưa vào thống kê tội phạm mặc dù nó đã xảy ra trên thực tế.
Chính vì vậy, cơ sở để xác định tình hình Tội phạm rõ của PGS.TS.Dương Tuyết

Miên có cơ sở khoa học và xác suất đánh giá đúng về thực trạng tình hình tội phạm
rõ có thể mang tính chính xác cao hơn.
1.2. Tội phạm ẩn (Dark figure of crime)
* Về khái niệm: bên cạnh tội phạm rõ, trên thực tế còn nhiều các tội phạm đã
xảy ra nhưng không bị phát hiện. Các nhà tội phạm học gọi đó là tội phạm ẩn. “Tội
phạm ẩn là số lượng tội phạm và người phạm tội đã thực hiện trên thực tế nhưng
không được tường thuật với cơ quan có thẩm quyền hoặc chưa bị phát hiện (một
cách chính thức) và do vậy chưa bị đưa ra xét xử, chưa có trong thống kê hình sự
chính thức.4
4

Tiến sĩ Dương Tuyết Miên, Tội phạm học nhập môn, Nxb.CAND, Hà Nội,2009, tr.192.

6


Trên thực tế, số lượng tội phạm ẩn chiếm một tỷ lệ không hề nhỏ trong tổng
số tội phạm. Theo GS.TS Tymothy Mason, số lượng tội phạm ẩn lớn hơn 6 đến 10
lần tội phạm rõ. Còn theo cuộc điều tra về tội phạm ẩn ở Anh tiến hành năm 2000,
tội phạm ẩn chiếm khoảng 70% tổng số vụ phạm tội. 5 Ở Việt Nam, số lượng tội
phạm ẩn rất cao nhưng nước ta không đánh giá được cụ thể con số chính xác vì
chưa có cơ quan có thẩm quyền nào của nhà nước đứng ra đánh giá,thống kê số
lượng tội phạm ẩn. Hơn nữa, việc đánh giá về tội phạm ẩn đòi hỏi những kỹ năng và
trình độ cao, các cán bộ có thẩm quyền ở Việt Nam chưa được đào tạo chuyên môn
về vấn đề này. Ngoài ra chính nhà nước cũng chưa nhận thức được tầm quan trọng
của việc nghiên cứu tội phạm ẩn. Phải nghiên cứu tội phạm ẩn mới có thể đánh giá
đầy đủ “bức tranh” về tình hình tội phạm từ đó mới để ra được các biện pháp phòng
ngừa tội phạm hiệu quả.
* Phân loại tội phạm ẩn: Có hai loại tội phạm ẩn đó là tội phạm ẩn khách
quan và tội phạm ẩn chủ quan.

- Tội phạm ẩn khách quan: là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế,
nhưng do nguyên nhân khách quan, cơ quan chức năng không phát hiện ra vụ phạm
tội – không có thông tin về vụ án.
- Tội phạm ẩn chủ quan: là trường hợp tội phạm đã xảy ra trên thực tế, cán bộ
hoặc cơ quan chức năng đã nắm được vụ việc nhưng do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà vụ án không được thụ lí, xử lí hình sự và do đó không có trong số liệu
thống kê
* Nguyên nhân dẫn tới tội phạm ẩn:
- Nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội phạm. Nạn nhân không tố cáo về vụ
phạm tội có thể là do: bị người phạm tội (hoặc người nhà người phạm tội) đe dọa;
không tin tưởng vào cơ quan bảo vệ pháp luật; sợ phiền hà hoặc sợ công khai bí mật
đời tư v.v…
- Nhóm nguyên nhân từ phía người phạm tội. Người phạm tội thực hiện tội
phạm bằng thủ đoạn quá tinh vi xảo quyệt, hoặc người phạm tội đã đe dọa nạn
nhân, người làm chứng hoặc người phạm tội đã đưa hối lộ v.v…
- Nhóm nguyên nhân từ phía cơ quan chức năng như thái độ thiếu tinh thần
trách nhiệm, cán bộ có hành vi nhận hối lộ để không xử lí vụ việc hoặc do nể nang,
quen biết nên bao che không xử lí vụ việc v.v…
- Nhóm nguyên nhân từ phía người làm chứng. Người làm chứng không dám
tố cáo hoặc đứng ra làm chứng vụ việc do nhiều nguyên nhân khác nhau như: sợ bị
5

Theo các tài liệu khoa học được thống kê trong cuốn, TS Dương Tuyết Miên, Tội phạm học nhập môn, Nxb.CAND,
Hà Nội, 2009, tr.202.

7


trả thù, sợ liên lụy khó khăn cho bản thân, quen biết hoặc là người thân của người
phạm tội v.v…

* Phương pháp xác định tội phạm ẩn: Phương pháp xác định tội phạm ẩn
hiện nay mới chỉ được các nhà tội phạm học trên thế giới áp dụng. Còn ở Việt Nam,
như chúng ta đã biết, vấn đề nghiên cứu tội phạm ẩn ở Việt Nam còn gặp nhiều hạn
chế, và hiện nay chúng ta cũng không tiến hành áp dụng các phương pháp để xác
định số lượng tội phạm ẩn tại Việt Nam. Các nhà tội phạm học trên thế giới thường
áp dụng hai phương pháp điều tra cơ bản sau:
- Điều tra về tội phạm tự tường thuật: đó là phương pháp điều tra thông qua
việc người tham gia tự tường thuật về tội phạm mà họ đã thực hiện. Để tiến hành
phương pháp này, các nhà nghiên cứu phải cam kết giữa bí mật danh tính của người
tham gia tự tường thuật để đảm bảo họ không phải lo lắng về sự tiết lộ thông tin
hành vi phạm tội của mình và cũng không sợ hãi sẽ bị bắt giữ và bị xử lý về hình sự
do đã thực hiện tội phạm.
- Điều tra về nạn nhân của tội phạm: đây là phương pháp điều tra thông qua
việc nạn nhân tham gia tự tường thuật về tội phạm đã xảy ra đối với mình. Với loại
điều tra này, các nhà nghiên cứu cũng phải cam kết giữ bí mật danh tính của người
tham gia vì sự tiết lộ danh tính của họ trong nhiều trường hợp có thể gây bất lợi cho
nạn nhân.
Ngoài ra, việc xác định tội phạm ẩn còn có thể dựa vào một số nguồn khác
như: số liệu từ bệnh viện, trạm y tế để xác định tội phạm ẩn như tội phạm giao
thông, tội cố ý gây thương tích. Số liệu từ các trung tâm tư vấn, trợ giúp pháp lí,
trung tâm hỗ trợ nạn nhân, nhà tạm lánh để xác định tội phạm ẩn đối với một số tội
như nhóm tội phạm tình dục, tội phạm bạo lực gia đình… 6
1.3. Chỉ số tội phạm
Chỉ số tội phạm được xác định để tìm hiểu mức độ phổ biến tội phạm trong
dân cư. Chỉ số tội phạm được tính theo tỷ lệ số tội phạm (hoặc vụ phạm tội) trên
100.000 người dân (hoặc 10.000 dân) và luôn được xác định gắn liền với một địa
bàn nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ: Dân số của tỉnh Y
năm 2010 là 600.000 người. Số vụ trộm cắp trên địa bàn tỉnh Y năm 2010 là 320
vụ. Chỉ số tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Y năm 2010 sẽ là: (320 x 100.000) :
600.000 = 53,33. Theo ví dụ trên thì đó là một chỉ số cao. Thông thường chỉ số an

toàn chỉ dưới 1.
1.4. Thông số về nạn nhân
6

Theo Tiến sĩ Dương Tuyết Miên, Tội phạm học nhập môn, Nxb.CAND, Hà Nội,2009, tr.203, 204, 205, 206.

8


Thông số về nạn nhân chỉ được đặt ra khi nghiên cứu về thực trạng của tình
hình tội phạm đối với những tội có nạn nhân. Để làm sáng tỏ thông số về nạn nhân
cần làm rõ một số vấn đề đó là: số lượng nạn nhân, thông tin về đặc điểm nhân thân
của nạn nhân; thiệt hại mà nạn nhân phải gánh chịu như thiệt hại về thể chất, vật
chất, tâm lý; tình huống trở thành nạn nhân. Thông số về nạn nhân đóng vai trò
quan trọng trong việc mô tả thực trạng của tình hình tội phạm và giúp các cơ quan
hoạch định chính sách đưa ra những giải pháp phòng ngừa phù hợp với thực tế cũng
như có biện pháp cảnh báo người dân để họ chủ động phòng tránh không trở thành
nạn nhân của tội phạm.
2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm
Diễn biến của tình hình tội phạm là sự phản ánh xu hướng tăng, giảm hoặc ổn
định tương đối của tội phạm nói chung (hoặc một tội hoặc nhóm tội phạm) xảy ra
trong khoảng thời gian nhất định và trên một địa bàn nhất định. Diễn biến của tình
hình tội phạm có thể là diễn biến của tình hình tội phạm nói chung, diễn biến của
tình hình tội phạm một nhóm tội cụ thể hoặc một tội phạm cụ thể nào đó. Có hai
yếu tố tác động dẫn tới sự thay đổi của diễn biến của tình hình tội phạm. Đó là:
- Các yếu tố xã hội như: sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế; vấn đề
di dân, sự gia tăng dân số ở các thành phố lớn, sự chênh lệch về mức sống của
người dân...
- Sự thay đổi về mặt pháp lí trong đó, sự thay đổi của pháp luật hình sự trong
việc mở rộng hoặc thu hẹp tội phạm cũng như biện pháp xử lí hình sự cũng ảnh

hưởng đáng kể đến xu hướng vận động của tội phạm.
Phụ thuộc vào mục đích, nhiệm vụ của người nghiên cứu mà việc đáng giá
diễn biến của tình hình tội phạm được đặt ra trong khoảng thời gian ngắn hoặc dài.
Để có những nhận định mang độ chính xác tương đối cao, thực tế cho thấy, việc
nghiên cứu diễn biến của tình hình tội phạm thường đặt ra trong khoảng thời gian 5
năm (hoặc 10 năm). Nghiên cứu diễn biến của tình hình tội phạm trong khoảng thời
gian dài sẽ giúp cho việc tìm ra được quy luật vận động của tội phạm. Để tìm ra quy
luật này, trước tiên, người nghiên cứu sẽ chọn năm thứ nhất của đơn vị thời gian
nghiên cứu là năm gốc và số liệu liên quan đến số vụ án và người phạm tội xảy ra
trong năm này là số liệu gốc (coi là 100%), sau đó sẽ lấy số liệu của những năn tiếp
theo đối chiếu với số liệu gốc để tìm ra xu thế tăng hay giảm của năm tiếp theo (tính
theo tỉ lệ %). Các con số phản ánh diễn biến của tình hình tội phạm cần được thực
hiện trên các bảng thống kê và sau đó cần được biểu đạt bằng đồ thị. Với đồ thị,
diễn biến của tình hình tội phạm sẽ được thể hiện sinh động, rõ nét, làm cho người
9


đọc có thể nhận biết được ngay xu hướng tăng hay giảm của tình hình tội phạm
trong quãng thời gian nhất định.
3. Cơ cấu và tính chất của tình hình tội phạm
Trong công tác phòng ngừa tội phạm, ngoài việc xác định được nguyên nhân
của tội phạm là gì, chúng ta còn cần dựa vào những đặc điểm nổi bật của tình hình
tội phạm để có thể đưa ra những biện pháp hiệu quả, sát với thực tế. Những đặc
điểm đặc trưng, nổi bật đó chính là tính chất của tình hình phạm tội. Mặt khác, tình
hình tội phạm chỉ có thể khái quát, rút ra được dựa trên cơ sở là cơ cấu của tình hình
tội phạm. Đây là hai thông số thuộc về mặt chất của tình hình tội phạm và có mối
liên hệ mật thiết với nhau.
 Cơ cấu của tình hình tội phạm: Cơ cấu của tình hình tội phạm được thể
hiện trong mối tương quan, tỉ trọng giữa nhân tố bộ phận và tổng thể của tình hình
tội phạm trong một phạm vị địa lý nhất định, trong một giai đoạn xác định. Nhân tố

bộ phận và nhân tố tổng thể được xác định tùy theo từng mục đích nghiên cứu khác
nhau, bởi vậy, cơ cấu của tội phạm cũng được xác định dựa vào những tiêu chí khác
nhau:
* Với mục đích nghiên cứu tình hình tội phạm nói chung, ta có thể xác
định cơ cấu tội phạm theo tiêu chí:
- Theo tên chương các tội phạm của Bộ luật hình sự (BLHS): Tỉ trọng giữa
nhân tố bộ phận là số tội phạm đã thực hiện thuộc từng chương với số tội phạm tổng
thể chính là cơ cấu của tội phạm trong trường hợp này.
- Theo hậu quả, thiệt hại của tội phạm: Theo cơ cấu này, tỉ trọng cần tìm là tỉ
trọng giữa số vụ có thiệt hại về thể chất, về tài sản so với tổng số các vụ án đã xảy
ra.
* Với mục đích nghiên cứu tình hình tội phạm của một nhóm tội hoặc
một tội danh cụ thể nào đó, ta có thể xác định cơ cấu tội phạm theo tiêu chí:
- Theo các tội danh cụ thể của BLHS: Theo cơ cấu này, tỉ trọng cần xác định
là tỉ trọng giữa số tội phạm đã thực hiện (cũng như số người phạm tội) thuộc từng
tội danh cụ thể so với tổng số các tội thuộc nhóm tội phạm đó trong tổng thể.
- Theo loại động cơ phạm tội: người nghiên cứu cần tìm ra được tỷ trọng giữa
số vụ việc xảy ra do từng động cơ khác nhau so với tổng số các vụ việc thuộc một
nhóm tội hoặc một tội phạm cụ thể nào đó.
- Theo một số đặc điểm của hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, thơi
gian...: Khi nghiên cứu một tội danh cụ thể, người nghiên cứu cần xác định số vụ
việc theo một trong các yếu tố trên chiếm tỉ bao nhiêu % so với tổng số vụ việc.
10


- Theo đặc điểm mối quan hệ của nạn nhân với người phạm tội: Nhân tố bộ
phận theo tiêu chí này là số vụ phạm tội phân loại theo một trong những loại qua
giữa nạn nhân và người phạm tội so với tổng số vụ việc trong tổng thể.
* Với những tiêu chí có thể sử dụng cho cả nghiên cứu tình hình tội
phạm nói chung và nghiên cứu tình hình tội phạm của một nhóm tội hoặc một

tội danh cụ thể nói riêng:
- Theo bốn loại tội tại khoản 3 Điều 8 BLHS – Tội ít nghiêm trọng, tội
nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng: Theo cơ cấu này,
chúng ta cần xác định tỉ trọng của số tội phạm đã thực hiện (cũng như số người
phạm tội) thuộc từng loại tội so với tổng thể cả bốn loại tội.
- Theo hình thức lỗi - cố ý hoặc vô ý: Cơ cấu này được tính theo tỉ trọng của
số tội phạm đã thực hiện (cũng như số người phạm tội) thuộc từng loại lỗi so với
tổng số cả lỗi.
- Theo địa bàn xảy ra tội phạm: Đơn vị địa lý được chọn lấy nhân tố bộ phận
và đơn vị địa lý được chọn lấy nhân tố tổng thể để tính tỉ trọng hoàn toàn phụ thuộc
vào yêu cầu của nghiên cứu.
- Theo loại (mức) hình phạt đã tuyên đối với người phạm tội: Loại cơ cấu này
được xác định dựa trên tỉ trọng giữa từng loại (mức) hình phạt được áp dụng so với
tổng số hình phạt được áp dụng.
- Theo một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội: Số vụ việc do người
phạm tội là người chưa thành niên, là người tái phạm, tái phạm nguy hiểm; hoặc là
đặc điểm về nghề nghiệp, về địa vị xã hội, về trình độ văn hóa, về hoàn cảnh gia
đình,… chiếm tỉ lệ bao nhiêu % trong tổng số người phạm tội.
 Tính chất của tình hình tội phạm
Như đã nói ở trên, tính chất của tình hình tội phạm là những đặc điểm đặc
trưng, nổi bật nhất của tình hình tội phạm. Việc nghiên cứu tính chất của tình hình
tội phạm giúp chúng ta nắm được đặc trưng nào của tội phạm là phổ biến nhất, đặc
trưng nào của tội phạm là nguy hiểm nhất, giúp có định hướng tập trung trong việc
xác định, làm rõ nguyên nhân của tội phạm. Từ đó, đưa ra được những biện pháp
phòng ngừa tội phạm một cách hiệu quả, đánh vào trọng tâm, giải quyết được dứt
điểm vấn đề tội phạm.
Chúng ta chỉ có thể rút ra những tính chất này sau khi đã có sự nghiên cứu về
cơ cấu của tình hình tội phạm. Nghiên cứu cơ cấu tội phạm theo những tiêu chí càng
đa dạng càng giúp làm định hình rõ nét tính chất của tình hình phạm tội.
III. Tình hình tội phạm ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp.

1. Thực trạng tình hình tội phạm ở Việt Nam
11


Nhìn chung, tình hình tội phạm ở Việt Nam hiện nay vẫn diễn biến phức tạp,
số người phạm tội là người chưa thành niên chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Hoạt động
của tội phạm có tổ chức, đâm thuê, chém mướn, đòi nợ thuê, trộm cướp có sử dụng
“vũ khí nóng”, tội phạm sử dụng công nghệ cao, chống người thi hành công vụ, giết
người do mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân gia tăng.
Những năm gần đây, mỗi năm phát hiện trung bình trên 70 ngàn vụ phạm tội
các loại, trong đó khoảng 50 ngàn vụ phạm tội về trật tự xã hội, trên 10 ngàn vụ phạm
tội về kinh tế và gần 10 ngàn vụ phạm tội về ma tuý. So với các nước trên thế giới và
trong khu vực thì tình hình tội phạm ở Việt Nam chỉ ở mức trung bình thấp, nhưng
tính chất phức tạp. Đáng lưu ý, tỷ lệ tội phạm ẩn ở nước ta cao, đặc biệt là trong lĩnh
vực tội phạm về kinh tế, ma tuý.
Tội phạm tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã, thị trấn (chiếm 70%).
Các tuyến, địa bàn tội phạm xảy ra nhiều: năm thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ (chiếm 25% - 30% tổng số vụ phạm tội
trên toàn quốc hàng năm); các tuyến Hà Nội và các tỉnh Đông Bắc (Hải Dương, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang…).
* Một số đặc điểm về tình hình tội phạm ở Việt Nam hiện nay
- Sự hình thành các tổ chức, băng, nhóm tội phạm có chiều hướng gia tăng
Để tồn tại và tiếp tục hoạt động, tránh được sự phát hiện, điều tra, xử lý của
các cơ quan bảo vệ pháp luật, bọn tội phạm thường tìm cách móc nối, liên kết, hỗ
trợ nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình hoạt động phạm pháp, tạo thành các tổ
chức, băng, nhóm tội phạm. Đây là một xu hướng phát triển của tội phạm hiện nay
không chỉ ở nước ta mà còn ở hầu hết các nước trên thế giới như: Liên bang Nga,
Mỹ, Italia, Đức, Pháp, Nhật Bản, Đài Loan, Ma Cao… Bọn tội phạm đã liên kết
hình thành các tổ chức tội phạm, thâm nhập sâu rộng vào nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội ở nhiều nước và đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, trở thành những tổ

chức tội phạm mang tính chất quốc tế như: cái băng “Hội Tam Hoàng”, “Trúc Liên
Bồng”, “Tai Huen Chai”, Hội 14K ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Koong, “Quân
đội đỏ Nhật Bản” ở Nhật Bản…
Hoạt động của tội phạm có tổ chức không chỉ diễn ra trong một số lĩnh vực
nhất định mà đã thâm nhập sâu rộng vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là
trong lĩnh vực buôn bán ma túy, buôn lậu, giết người, bảo kê, cố ý gây thương tích,
… Sự liên kết, trở thành các tổ chức, băng, nhóm tội phạm xảy ra không chỉ trong
một xã, phường, thị trấn, thị xã hay một quận, huyện… mà đã diễn ra trong phạm vi
rộng hơn nhiều, trở thành những tổ chức, băng, nhóm tội phạm hoạt động liên tỉnh,
12


trong phạm vi cả nước. Một số trường hợp còn vượt ra khỏi biên giới quốc gia, trở
thành tội phạm xuyên quốc gia, đa quốc gia, tội phạm mang tính quốc tế,…
- Tính chất các loại tội phạm ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, hậu quả
của tội phạm ngày càng lớn
Xu hướng các loại tội phạm xảy ra với tính chất ngày càng phức tạp, thủ đoạn
hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Bọn tội phạm luôn tìm mọi cách để thực
hiện hành vi phạm tội một cách nhanh gọn, tránh sự phát hiện, điều tra, xử lý của
các cơ quan chuyên môn. Chúng dùng cả kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và ứng dụng
các thành tựu của khoa học – công nghệ vào quá trình phạm tội. Có trường hợp,
chúng còn giả tạo hiện trường, đánh lạc hướng sự điều tra của các cơ quan chuyên
môn, hoặc tự tử, thủ tiêu, giết người bịt đầu mối,…
Hậu quả, tác hại do tội phạm gây ra ngày một lớn hơn so với trước, nhất là
trong các vụ phạm tội kinh tế. những năm trước, trong các vụ án, hậu quả xảy ra
không nhiều, thiệt hại không lớn (chỉ vài chục triệu đồng hoặc vài trăm triệu đồng),
nhưng những năm gần đây, số vụ phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra ngày
càng nhiều, có vụ gây thiệt hại đến hàng nghìn tỷ đồng như vụ EPCO – Minh
Phụng, Tân Trường Sanh (khoảng trên 7 ngàn tỷ đồng)…
- Tội phạm sử dụng thành tựu của khoa học – công nghệ vào quá trình

phạm tội ngày càng nhiều, số người phạm tội là người có trình độ học vấn cao
ngày càng gia tăng
Trong điều kiện khoa học – công nghệ phát triển ở mức cao, trình độ nhận
thức của người dân được nâng lên, khoa học phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
ngày càng phát triển. Các cơ quan điều tra tội phạm được trang bị nhiều công cụ,
phương tiện, kỹ thuật hiện đại, nhất là trong quá trình nghiên cứu, phát hiện, thu,
bảo quản, giám định các loại dấu vết hình sự. mọi dấu vết do tội phạm gây ra đều có
thể được phát hiện, nghiên cứu, khai thác, sử dụng nhằm chứng minh tội phạm. do
đó, để thực hiện hành vi phạm tội, tránh được sự phát hiện, điều tra, xử lý của các
cơ quan chuyên môn, bọn tội phạm thương nghiên cứu sử dụng các thành tựu của
khoa học – công nghệ để thực hiện hành vi phạm tội một cách trót lọt, đạt đươc mục
đích và khó bị phát hiện. hơn nữa, chúng còn sử dụng thành tựu của khoa học –
công nghệ để tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho quá trình điều tra. Số người
phạm tội có trình độ học vấn cao ngày càng tăng, nhất là trong các vụ phạm tội về
kinh tế, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, giết người, cố ý gây thương tích,

- Tội phạm ngày càng gắn với tệ nạn ma túy
13


Phần lớn các vụ phạm tội đều liên quan tới ma túy và các đối tượng nghiện
ma túy, đặc biệt là các vụ trộm cắp, giết người, cướp của, cướp giật tài sản,…
Tổng kết cho thấy: 70% - 80% số vụ phạm tội ít nhiều có liên quan đến ma
túy và người nghiện ma túy. Riêng tội phạm cướp, cướp giật có tới 95% số vụ do
các đối tượng nghiện ma túy gây ra.
- Tính xã hội của tội phạm ngày càng thể hiện rõ nét, thể hiện những đặc
trưng riêng của nên kinh tế thị trường phát triển
Phần lớn các vụ việc phạm tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội điều có
nguyên nhân từ các mâu thuẫn, tranh chấp, thù tức, ghen tuông, xích mích (nguyên
nhân xã hội)… các vấn đề này thường nảy sinh nhiều trong cuộc sống, đặc biệt

trong điều kiện kinh tế thị trường đang phát triển như hiện nay, nếu không được giải
quyết kịp thời thường dẫn đến những hành vi phạm tội nghiêm trọng. Riêng trong
các vụ án giết người thì giết người do nguyên nhân xã hội chiếm tỉ lệ cao (khoảng
90%), có nhiều vụ nguyên nhân rất đơn giản chỉ vì mâu thuẫn, cãi, chửi nhau dẫn
đến phạm tội giết người. trong đó 81% là do mâu thuẫn thù tức; 1,54% do mê tín dị
đoan; 3,6% để bị đầu mối… Đáng chú ý là tình trạng người thân trong gia đình giết
hại lẫn nhau, như vợ giết chồng, chồng giết vợ, bố giết con, con giết bố… có xu
hướng tăng chiếm 15% - 20% tổng số vụ xảy ra. Điều này phản ánh những hiện
tượng tâm lý không bình thường của một bộ phận dân cư trong xã hội. số vụ giết
người để cướp tài sản chỉ chiếm khoảng 10%.
Một số loại tội phạm về kinh tế gắn liền với việc thực hiện các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Hầu như khi ban hành một
chính sách mới, sẽ xuất hiện một loại tội phạm đặc trưng, nếu chúng ta không kịp
thời phát hiện, bổ sung, hoàn chỉnh những sơ hở thiết sót ngay từ khi ban hành cũng
như trong quá trình thực hiện. Ví dụ, khi chúng ta áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng
(VAT), liền sau đó hàng loạt hành vi lợi dụng quy trình hoàn thuế, lập hồ sơ khống
để lừa đảo rút tiền của Nhà nước gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng.
2. Nguyên nhân
Về nguyên nhân khách quan, Chính phủ cho rằng, tội phạm và vi phạm pháp luật
phức tạp do tình hình thế giới, trong đó có tác động hậu suy thoái kinh tế, nhiều
doanh nghiệp phá sản. Tác động mặt trái kinh tế thị trường, phân tầng xã hội, lối sống
thực dụng, đạo đức xuống cấp, tác động văn hóa phẩm đồi trụy, trò chơi bạo lực,
internet. Trong khi đó, công tác tuyên truyền có lúc chưa khách quan, nặng về tuyên
truyền sai phạm, gây tâm lý bức xúc. Yếu tố tiềm ẩn nguy cơ gây nảy sinh tội phạm
chưa được giải quyết. Văn bản pháp luật bất cập, nhiều quy định về chế tài xử lý một
số tội phạm không phù hợp.
14


Nguyên nhân chủ quan, công tác quản lý nhà nước về an ninh - trật tự còn sơ

hở. Trong năm 2011, do tập trung nhiều công tác lớn dẫn đến phòng ngừa xã hội,
phòng ngừa nghiệp vụ chưa được quan tâm đúng mức. Tình hình tội phạm phức tạp
nhưng một số nơi việc trấn áp chưa đủ mạnh, lực lượng ở cơ sở còn thiếu.
3. Giải pháp
Đối với thực trạng tội phạm hiện nay, em xin đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, dạy nghề, hướng nghiệp tạo việc làm ổn định và nâng cao đời sống
cho nhân dân.
Nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, khắc phục tình
trạng sa sút trong xã hội. Ngoài ra, cần chú ý hơn nữa công tác đào tạo nghề, hướng
nghiệp tạo việc làm cho những đối tượng sau khi ra tù, trại cai nghiện… Họ là
những đối tượng dễ sa vào con đường vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội.
Thứ hai, tiến hành giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm ngày càng gia tăng
là do trình độ dân trí thấp, sự am hiểu về pháp luật của quần chúng nhân dân còn rất
nhiều hạn chế. Do vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần phối hợp thường xuyên tổ
chức các chương trình tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về ý thức chấp hành
pháp luật, đưa việc giảng dạy pháp luật vào chương trình đào tạo trong các nhà
trường. Đồng thời, cần hình thành tình cảm và lòng tin của nhân dân đối với pháp
luật, vào sự nghiêm minh của pháp luật, vào hiệu quả hoạt động của các cơ quan
bảo vệ pháp luật.
Để làm được điều đó cần mở rộng tính dân chủ, công khai, tạo điều kiện cho
nhân dân tham gia tích cực đông đảo vào hoạt động này. Bên cạnh đó, cần phải đẩy
mạnh công tác bồi dưỡng cán bộ có đủ năng lực và trình độ, phẩm chất đạo đức
phục vụ cho công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho nhân dân. Các cơ quan
bảo vệ pháp luật đặc biệt là Toà án nhân dân cần đẩy mạnh công tác giáo dục và
tuyên truyền bằng mọi biện pháp cách thức như: Tổ chức các phiên toà xét xử lưu
động tại các địa bàn thường xuyên xảy ra tội cướp tài sản nhằm răn đe ngăn ngừa ý
thức pháp luật củng cố tinh thần đoàn kết đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan này là đấu tranh kịp thời với tội phạm. Tức là

khi có tội phạm xảy ra phải nhanh chóng điều tra khám phá, bắt giữ kẻ phạm tội,
khắc phục hậu quả do kẻ phạm tội gây ra, tuyên truyền giáo dục pháp luật thường
xuyên cho nhân dân, xử lý nghiêm minh kẻ phạm tội để quần chúng tin tưởng vào
pháp luật và cơ quan bảo vệ pháp luật.
15


Thứ tư, phát huy sức mạnh quần chúng trong hoạt động đấu tranh phòng
chống tội phạm
Cần khuyến khích và động viên kịp thời sự tham gia của quần chúng, giáo dục
cho quần chúng thấy rõ được lợi ích chung của toàn xã hội trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm để họ thực sự là tai mắt của các cơ quan nhà nước. Đồng thời
có chế độ khen thưởng thích đáng đối với những người có công trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Thứ năm, kịp thời xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật
Các vụ án cần phải được thụ lý, giải quyết trong thời hạn luật định, đảm bảo
chất lượng, xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Không xử oan người vô tội,
đảm bảo tính giáo dục và răn đe nhưng đồng thời cũng phải cứng rắn và cương
quyết. Cần phải tăng cường công tác tuần tra canh gác kết hợp với tiếp nhận kịp
thời việc trình báo của quần chúng nhân dân thực hiện việc kiểm tra thường xuyên
các tụ điểm ăn chơi, nhà hàng, vũ trường trên địa phương… Vì đó, thường là những
nơi tụ tập của bọn tội phạm sau khi gây án. Các cơ quan tổ chức chính quyền địa
phương phải thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra hộ tịch, hộ khẩu, quản lý
chặt chẽ các đối tượng tạm trú tạm vắng. Có như vậy, mới có thể góp phần ổn định
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn hạn chế và phòng ngừa có hiệu
quả tội phạm, tạo điều kiện cho các cơ quan tổ chức và quần chúng nhân dân yên
tâm lao động sản xuất.
Đặc biệt, cần chủ động phòng ngừa, lấy phòng ngừa làm cơ bản, tạo thế chủ
động tấn công trấn áp tội phạm. Công tác phòng chống tội phạm phải được thực
hiện trong sự lồng ghép chặt chẽ với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của Đảng

và Nhà nước.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu về tình hình tội phạm có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với xã hội. Tình hình tội phạm là bức tranh mô tả rõ nét về hiện tượng tiêu
cực trong xã hội, nội dung của bức tranh đó có thể bị thay đổi bởi nhiều yếu tố trong
đó có yếu tố pháp luật. Mỗi một cá nhân trong xã hội cần có ý thức hơn để tự mình
thay đổi bức tranh đó theo chiều hướng tích cực. Hiểu được rõ bản chất của tình
hình tội phạm là nền tảng giúp chúng ta nắm được toàn cảnh bức tranh về tội phạm.
Điều này vô cùng có ý nghĩa trong công tác phòng chống, ngăn ngừa, bài trừ tội
phạm, bảo đảm an toàn cho nhân dân trong bất cứ giai đoạn nào.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
16


1. Giáo trình Tội phạm học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, Hà nội năm 2006
2. Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội năm 1994
3. Giáo trình tội phạm học của Đại học Huế, Trung tâm đào tạo từ xa, Nxb.
Giáo dục năm 1999
4. Giáo trình tội phạm học của Đại học Quốc gia Hà nội, Nxb ĐHQGHN năm
1999
5. TS. Phạm Văn Tỉnh, Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt
Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007
6. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, Hà nội năm 2006
7. Giáo trình Tội phạm học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.CAND, năm
2012
8. Giáo trình Tội phạm học, TS Dương Tuyết Miên (chủ biên), Nxb.GDVN,

2010
9. Tội phạm học nhập môn, TS.Dương Tuyết Miên, Nxb.CAND, 2009
10. Tình hình tội phạm ở Việt Nam (Trích từ Sổ tay phòng chống tội phạm)
/>
17



×