Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Cơ sở lý luận hình thành quyền nhân thân theo quy định trong BLDS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.57 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Quyền nhân thân là một trong những quyền dân sự có ý nghĩa vô cùng quan
trọng được pháp luật của các quốc gia trên thế giới ghi nhận và bảo vệ. Kể cả trong
công ước quốc tế là những văn bản pháp lý cấp cao nhất cũng đã đề cập tới vấn đề
quyền nhân thân của con người như tại công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 hay tại bộ luật nhân quyền thế giới…Cùng với các văn bản
pháp luật khác, Bộ luật dân sự ( BLDS ) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ghi nhận và có những cơ chế để bảo vệ quyền nhân thân của chủ thể. Cùng
với quá trình lịch sử lập pháp của nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh
tế thế giới, luật dân sự ( LDS) luôn có xu hướng là ngày càng hoàn thiện để đáp
ứng kịp thời nhu cầu xã hội. Và quyền nhân thân cũng được hoàn thiện ngày càng
phù hợp hơn trong xu hướng đó của LDS. BLDS 2005 sửa đổi bổ sung nhiều quy
định về quyền nhân thân. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng thứ hai sau Hiến pháp để
ghi nhận và bảo vệ quyền nhân thân. Điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế
xã hội của nước ta ngày càng phát triển, các quyền của con người và quyền nhân
thân của con người được coi trọng hơn bao giờ hết. Quyền nhân thân nhìn cả dưới
góc độ lý luận và thực tiễn đều là vấn đề hết sức quan trọng, là cơ sở lý luận xây
dựng và hoàn thiện những quy định về quyền nhân thân. Song cùng với sự hoàn
thiện về quyền nhân thân trên cơ sở lý luận là vấn đề thực tiễn áp dụng và thực
hiện quyền nhân thân ra sao. Do vậy việc nghiên cứu quyền nhân thân theo quy
định của BLDS với những vấn đề lý luận và thực tiễn góp phần quan trọng để mỗi
công dân thực hiện nghiêm túc các quyền nhân thân mà pháp luật quy định nhằm
hoàn thiện và phát huy hết khả năng bản thân, đồng thời là những kinh ngiệm thực
tiễn áp dụng giải quyết các vấn đề có liên quan tới quyền nhân thân ở nước ta hiện
nay.

1


NỘI DUNG


1.Cơ sở lý luận hình thành quyền nhân thân theo quy định trong BLDS
1.1 Cơ sở lý luận
Con người là tổng hòa của các mối quan hệ. Trong mối quan hệ với tự nhiên,
xã hội và con người thì tự nhiên là cái có trước và con người là cái có sau. Con
người không thể thay đổi được tự nhiên mà chỉ có thể thích ứng với tự nhiên và cải
tạo nó. Quá trình cải tạo tự nhiên cũng là quá trình con người tự hoàn thiện mình
và phát huy hết những khả năng vốn có của mình. Con người tạo ra xã hội nhưng
xã hội lại có vai trò quan trọng trong việc hình thành con người vì không thể có
con người sống ngoài xã hội. Do vậy con người vừa là một thực thể sinh học sống,
vừa là một cơ thể sống mang bản chất xã hội. Điều này làm cho con người khác
với các thực thể sinh học khác ở chỗ, chỉ có con người mới được hưởng những
quyền do địa vị làm người mang lại, đó chính là quyền con người, quyền nhân thân
của mỗi con người.
Xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển gắn với quá trình tiến hóa của lịch
sử xã hội loài người, quyền con người được coi là một hiện tượng lịch sử xã hội có
quá trình phát triển lâu dài. Tư tưởng đó cũng gần như xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của xã hội loài người.
Trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển, quyền con người là một khái
niệm rộng lớn, phức tạp thậm chí nhiều lúc là đầy mâu thuẫn, bản chất của quyền
con người vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội. Hai thuộc tính vốn có của
quyền con người tồn tại tất yếu có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với nhau.
Tính tự nhiên cho thấy quyền con người là đặc quyền vốn có của con người, những
quyền này lại bị chi phối và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, bị
chi phối bởi trình độ phát triển của xã hội làm cho nội dung quyền của con người
chứa đựng tính đặc thù, gắn liền với lịch sử phát triển truyền thống của mỗi quốc
gia. Tuy nhiên có những quyền của con người mà dù ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào,
bất cứ quốc gia nào thì nó luôn luôn được đảm bảo đó chính là quyền con người cơ
bản. Sự hiện diện của nó trong hệ thống pháp luật quốc gia là ranh giới khẳng định
có hay không có quyền con người. Trong bản tuyên ngôn độc lập của hợp chủng
quốc Hoa kỳ 1776 khẳng định” con người sinh ra đều bình đẳng, đấng tạo hóa đã

2


dành cho họ một số quyền không thể bị tước đoạt. Trong các quyền đó có quyền
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.” Dù là quyền con người hay
quyền con người cơ bản thì đều là những khái niệm thể hiện xu hướng, yêu cầu,
thể hiện năng lực, khả năng và ý chí. Và một trong những đặc trưng rất quan trọng
của quyền con người đó được đảm bảo bởi Nhà nước và pháp luật. Nhà nước và
pháp luật là công cụ và phương tiện bảo vệ quyền con người. Thông qua việc ban
hành các quy định pháp luật Nhà nước quy định các quyền của công dân trong đó
có quyền nhân thân. Quyền công dân tạo lên địa vị pháp lý của công dân trong xã
hội, thể hiện mối quan hệ về mặt pháp lý giữa một cá nhân và một quốc gia. Mối
liên hệ này sẽ ràng buộc hành vi của công dân vào hệ thống pháp luật quốc gia đầu
tiên là Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác trong đó đặc biệt là BLDS.
1.2 Cơ sở pháp lý
1.2.1 Hiến pháp
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của một quốc gia, là cơ sở hình
thành hệ thống pháp luật và xây dựng các văn bản pháp luật khác. Căn cứ vào quy
định của Hiến pháp các ngành luật cụ thể hóa bằng các quy định để tác động tới
các quan hệ mà nó có nhiệm vụ điều chỉnh.
Đối với LDS nói chung và các quy đinh về quyền nhân thân trong BLDS,
Hiến pháp quy định một các rất khái quát về quyền nhân thân. Hiến pháp năm
1992 quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
giai đoạn đầu thời quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong Hiến pháp năm 1992,
quy định rất nhiều những vấn đề của đất nước, của hệ thống pháp luật và của cả hệ
thống chính trị… Trong đó có chương II và chương V có nhiều quy định liên quan
tới LDS. Đặc biệt trong chương V quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Ngoài những quyền về chính trị xã hội là một loại các quyền công dân được
Hiến pháp ghi nhận như: quyền bình đẳng về năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân, các quyền nhân thân và quyền tài sản….

1.2.2 Bộ luật dân sự
BLDS được đánh giá là có vị trí thứ hai sau Hiến pháp trong việc hình thành
và cụ thể hóa quyền nhân thân của cá nhân. BLDS 2005 là bộ luật lớn nhất của
Nhà nước ta về phạm vi điều chỉnh, số lượng các điều luật, sự rộng rãi trong việc
lấy ý kiến của các cấp, các ngành, thời gian chuẩn bị… BLDS đã thể chế hóa
đường lối phát triển kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam, cụ thể hóa Hiến pháp
3


1992 nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể và đặc biệt là của cá nhân.
BLDS cụ thể hóa các quyền nhân thân của cá nhân mà Hiến pháp ghi nhận, là
chuẩn mực ứng xử pháp lý cho các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự và thực
hiện những quyền nhân thân gắn với mỗi chủ thể. Quyền nhân thân trong BLDS
2005 được quy định từ Điều 24 đền Điều 51. Số lượng các quy định trong BLDS
cũng chiếm một phần đáng kể và tới BLDS 2005 đã đánh dấu những bước phát
triển mới trong việc xây dựng và hoàn thiện về quyền nhân thân của cá nhân.
2. Khái quát về quyền nhân thân
2.1 Khái niệm quyền nhân thân
Để hiểu như thế nào là quyền nhân thân chúng ta cần hiểu về “ nhân
thân”.Hiện nay cũng chưa có khái niệm chính thức về “ nhân thân”. Đây là từ Hán
Việt và nếu chúng ta hiểu rõ khái niệm này thì chúng ta cũng sẽ hiểu rõ khái niệm
quyền nhân thân. Tuy nhiên theo quy định của Điều 24 – BLDS: “ quyền nhân
thân được quy định trong bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”. Theo đó chúng ta có thể hiểu nhân thân là những yếu tố gắn liền với mỗi
con nguời cụ thể, liên quan trực tiếp tới cá nhân như hình dáng, khuôn mặt, hoàn
cảnh gia đình, nghề nghiệp….
Dưới góc độ pháp luật dân sự thì không phải mỗi yếu tố liên quan đến bản
thân mỗi con người đều ảnh hưởng đến việc hưởng quyền nhân thân của họ. Ví dụ:
bất cứ cá nhân nào cũng đều có quyền đối với quốc tịch. Tuy nhiên có nhiều yếu tố

liên quan đến nhân thân của con người lại ảnh hưởng trực tiếp đến việc hưởng
quyền dân sự của họ.
Điều 24 BLDS đã đưa ra những quy định chung nhất về quyền nhân thân, qua
quy định này chúng ta có thể định nghĩa về quyền nhân thân như sau:
- Theo nghĩa khách quan, Quyền nhân thân được hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy định rõ
cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là
cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình.
- Theo nghĩa chủ quan, Quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền
với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể
chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
4


Qua định nghĩa quyền nhân thân chúng ta có thể thấy được đặc điểm của
quyền nhân thân như sau:
-

Quyền nhân thân là một quyền dân sự do luật định.
Quyền nhân thân là một quyền dân sự đặc biệt được pháp luật bảo vệ.
Mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về quyền nhân thân.
Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản.
Quyền nhân thân luôn gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao cho chủ thể
khác.
2.2 Một số đặc trưng cơ bản của quyền nhân thân
2.2.1 Quyền nhân thân gắn liền với chủ thể và nguyên tắc là không thể

dịch chuyển cho chủ thể khác
Quyền nhân thân trở thành một thuộc tính của chủ thể mà không bị phụ

thuộc , chi phối bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ, giới tính,
tôn giáo…. Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân của mỗi cá nhân mà
không thể chuyển dịch cho chủ thể khác, mỗi chủ thể đều bình đẳng về quyền nhân
thân. Các quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng do Nhà nước quy
định cho các chủ thể dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Do vậy về
nguyên tắc quyền nhân thân không thể chuyển giao cho người khác cũng đồng
nghĩa là quyền nhân thân không thể là đối tượng trong các giao dịch mua bán, trao
đổi, tặng cho… Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một số quyền nhân thân có
thể chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Quyền công
bố, phổ biến tác phẩm của tác giả , khi tác giả chết thì quyền này có thể chuyển
giao cho chủ thể khác hay các quyền khác về tinh thần của tác giả đối với tác phẩm
như quyền được tôn trọng tác phẩm…
2.2.2 Quyền nhân thân có tính chất phi tài sản
Quyền nhân thân không bao giờ là tài sản, chỉ có quyền nhân thân gắn với tài
sản hay không gắn với tài sản mà thôi. Vì không phải là tài sản nên quyền nhân
thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi
ngang giá. Do vậy, quyền nhân thân không thể bị định đoạt hay mang ra chuyển
nhượng cho người khác. Một người không thể kê biên quyền nhân thân của con nợ.
Vì sự cụ thể nó thành tài sản, tiền tệ là điều không thể. Thực ra, đây là vấn đề rất
khó trong lý thuyết về quyền nhân thân cũng như áp dụng thực hiện quyền nhân
thân. Thông thường, một quyền nhân thân không thể định đoạt có nghĩa là không
thể là đối tượng giao dịch. Nhưng trên thực tế lại xuất hiện nhiều hợp đồng liên
5


quan tới quyền nhân thân. VÍ dụ: trong lĩnh vực đời tư liên quan tới hình ảnh,
nhiều người được công chúng biết đến như là minh tinh màn bạc ký hợp đồng với
các cơ quan thông tin, xuất bản.Vậy làm thế nào để dung hòa đặc điểm này của
quyền nhân thân với tình trạng giao dịch hợp pháp về hình ảnh ngày càng phát
triển và rầm rộ như hiện nay.

2.2.3 Hành vi xâm hại quyền nhân thân không nhất thiết phải gây ra thiệt hại
Đối mỗi hành vi bị coi là xâm phạm tới quyền nhân thân thì có thể gây ra thiệt
hại hoặc không gây ra thiệt hại. Điều đó có nghĩa là thiệt hại không phải là căn cứ
bắt buộc để xác định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi xâm hại. Trên thực tế,
ngay cả trong trường hợp bị xâm phạm quyền nhân thân không những là không
gây thiệt hại gì cho người bị xâm hại mà thậm chí là còn có lợi cho họ. Nhưng về
nguyên tắc, nếu không có sự đồng ý của cá nhân thì coi là vi phạm.
2.2.4 Thiệt hại về quyền nhân thân không có tiêu chí để định lượng
Trong các quyền nhân thân, quyền nhân thân liên quan tới đời sống tinh thần
của cá nhân luôn chiếm một số lượng lớn. Đó chính là những quyền liên quan tới
đời sống tinh thần của con người, là quyền của cá nhân phát sinh trong sinh hoạt
nội tâm của con người.Do vây, đối với mỗi cá nhân thì giá trị đó không có chuẩn
mức chung để cụ thể nó thành giá trị. Vì thế, thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền
nhân thân không được cân, đo, đong, đếm bằng những đại lượng cụ thể. Đặc trưng
này không loại trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi hành vi xâm hại tới quyền
nhân thân.
3. Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về các quyền nhân thân
Việc hình thành và phát triển của quyền nhân thân luôn xuất phát từ cơ sở của
nó. Và cơ sở pháp lý là điều cốt lõi. Ở nước ta thì Hiến pháp là cơ sở đầu tiên và
quan trọng cho việc hình thành và phát triển của các quyền nhân thân thông qua sự
cụ thể hóa trong LDS. Do vậy quyền nhân thân cũng có sự phát triển gắn liền với
sự ra đời và phát triển của các bản Hiến pháp.
Ở nước ta, quyền nhân thân của cá nhân cũng có những bước phát triển nhất
định. Dưới thời Pháp thuộc, các quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói
riêng được thực dân Pháp quy định nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong
xã hội.
- Giai đoạn 1945 – 1959
Quyền nhân thân được thể hiện trong Hiến pháp 1946.
6



Trong bối cảnh đất nước vừa thoát khỏi chế độ xã hội cũ – xã hội mà mọi
người đều phải chịu sự kiểm soát, bắt bớ tù đày với những lý do bất kỳ – thì quy
định của Hiến pháp 1946 về quyền nhân thân được đánh giá là sự tiến bộ của Nhà
nước ta lúc bấy giờ. Đây là sự lỗ lực, cố gắng của Nhà nước ta trong viêc phấn đấu
giành quyền tự do dân chủ cho con người như : “… nhà ở và thư tín của công dân
Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật” hay các quy định của
pháp luật liên quan tới quyền bầu cử và ứng cử( Điều 18)….Trên cơ sở quy định
của Hiến pháp 1946, các văn bản pháp luật có hiệu lực sau Hiến pháp giai đoạn
này cũng đã cụ thể hóa quyền nhân thân, trong đó có luật báo chí ngày 20/5/1957.
Quyền tự do ngôn luận là một nội dung quan trọng được quy định cụ thể trong đó
hay khi báo chí đăng tin sai sự thật, vu khống thì phải xin lỗi và tùy mức độ người
bị vi phạm có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Giai đoạn 1959 – 1980
Giai đoạn này là giai đoạn đánh dấu sự ra đời và phát triển của nền lập pháp
với bản Hiến pháp 1959 ra đời tiếp nối và kế thừa Hiến pháp 1946. Hiến pháp đã
giành chương II với tiêu đề” quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, trong đó
là các quy định quyền dân sự vói chung và quyền nhân thân nói riêng( từ Điều 22
đến Điều 42 ). Cùng với sự biến động của hoàn cành lịch sử đất nước, quyền nhân
thân của cá nhân được quy định trong Hiến pháp có ý nghĩa lịch sử xã hội sâu sắc.
Các quy định về quyền nhân thân trong Hiến pháp 1959 một mặt tạo niềm tin cho
con người mới xã hội chủ nghĩa, một mặt động viên, khích lệ tinh thần đấu tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân ta.
- Giai đoạn 1980 – 1992
Trên cơ sở ban hành Hiến pháp 1980, Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều các
văn bản pháp luật để cụ thể hóa các quy định liên quan đến việc ghi nhận và thực
hiện quyền nhân thân của cá nhân. Bên cạnh các quy định của pháp luật quốc gia
liên quan tới các quyền nhân thân, Nhà nước ta đã có những nỗ lực quan trọng
trong việc ký kết và tham gia các công ước quốc tế trong lĩnh vực quyền con
người.Nói là vậy, nhưng thực sự là một số quyền dân sự cũng như quyền nhân thân

của cá nhân được quy định trong Hiến pháp 1980 không có tính khả thi và không
thể thực hiện được nó trong thực tiễn lúc bấy giờ như tại Điều 60, Điều 61… Theo
đó thì Nhà nước đảm bảo thực hiện chế độ học không phải trả tiền hay chế độ

7


khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền lúc bấy giờ thì hoàn toàn là không thể
và tới bây giờ ở nước ta cũng là chưa thể.
- Giai đoạn 1992 – nay
BLDS 1995 ra đời đã đề cập tới các quyền nhân thân một cách đa dạng, bao
gồm các quy định từ Điều 26 đến Điều 47. Có thể nói lần đầu tiên một văn bản
pháp lý có hiệu lực cao nhất trong lĩnh vực dân sự đã ghi nhận các quyền nhân thân
của chủ thể cũng như các phương thức để bảo vệ quyền nhân thân. Đây chính là cơ
sở pháp lý và là nền tảng để các cá nhân thực hiện quyền nhân thân của mình.
Qua gần 10 năm áp dụng vào thực tiễn để bảo vệ và lợi ích hợp pháp cho các
chủ thể khi thực hiện quyền của mình nói chung, quyền nhân thân nói riêng. BLDS
1995 ra đời là một nhu cầu thiết yếu nhưng cũng đã bộc lộ một khiếm khuyết nhất
định cần phải sửa đổi bổ sung. BLDS2005 ra đời đã sửa đổi bổ sung một số quy
định của BLDS 1995, trong đó có các quy định về quyền nhân thân. So với BLDS
1995, khi quy định về quyền nhân thân, BLDS 2005 quy định quyền được khai
sinh, quyền được khai tử là quyền nhân thân của cá nhân. Ngoài ra, BLDS 2005
lần đầu tiên đưa vào một số quyền nhân thân liên quan tới đạo đức sinh học đó là
các quyền: quyền hiến bộ phận cơ thể (Điều 33), quyền hiến xác, bộ phận cơ thể
sau khi chết( Điều 34), Quyền nhận bộ phận cơ thể( Điều 35), quyền xác định lại
giới tính( Điều 36)…
Ngoài việc thêm mới một số quyền nhân thân, hầu hết các quyền nhân thân
được quy định trong BLDS1995 được kế thừa có chọn lọc và sửa đổi bổ sung cho
phù hợp như quyền thay đổi họ tên (Điều 27), quyền xác định dân tộc( Điều 28),
Điều 31, Điều 32, Điều 37, Điều 38…

4. Nội dung cơ bản của các quyền nhân thân được quy định trong BLDS
2005
BLDS 2005 quy định về quyền nhân thân từ Điều 24 đến Điều 51.Ngoài quy
định chung về quyền nhân thân ( Điều 24), bảo vệ quyền nhân thân ( Điều 25),
trong các quyền nhân thân được BLDS quy định cụ thể,dựa vào đối tượng của
quyền nhân thân,các quyền nhân thân được quy định trong BLDS 2005 có thể phân
chia thành các nhóm quyền nhân thân sau đây:
4.1 Nhóm quyền nhân thân gắn liền với chủ thể trong quan hệ hôn nhân
gia đình.
8


Trong quan hệ hôn nhân gia đình, một trong những mối quan hệ rất đặc biệt
của đời sống xã hội, các quyền nhân thân của cá nhân luôn đặt trong mối quan hệ
mật thiết giữa cá nhân đó với tư cách là một thành viên trong gia đình với các chủ
thể có liên quan trong mối quan hệ gia đình; giữa các thành viên đó với tư cách là
một thành viên trong xã hôi với các chủ thể khác với mục đích không chỉ bảo vệ
quyền và lợi ích của họ mà còn của cả các thành viên trong gia đình và toàn xã hội.
Các quyền đó do pháp luật quy định bao gồm: quyền kết hôn ( Điều 39 ); quyền
bình đẳng của vợ chồng( Điều40); quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành
viên trong gia đình( Điều 41); quyền ly hôn( Điều 42); quyền nhận, không nhận
cha, mẹ,con ( Điều 43), quyền được nuôi con nuôi và được nhận làm con
nuôi( Điều 44).Quyền kết hôn là quyền nhân thân gắn liền với nhân thân của chủ
thể không thể chuyển giao cho người khác. Đảm bảo quyền tự do kết hôn của cá
nhân luôn được pháp luật hướng tới; nhưng cá nhân chỉ có thể thực hiện quyền kết
hôn khi đáp ứng được một số điều kiện nhất định hay là không được kết hôn trong
những trường hợp pháp luật cấm như nam phải từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở
lên mới được quyền kết hôn… vấn đề này đã được luật hôn nhân gia đình quy định
cụ thể. Nói vậy không có nghĩa là quyền kết hôn bị hạn chế mà nhằm đảm bảo sự
phát triển bền vững, đảm thuần phong mỹ tục và hạn chế bớt hậu quả xảy ra trong

việc kết hôn tùy tiện. Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng Điều 40 BLDS quy định”
vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mội mặt trong
gia đình, và trong quan hệ dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc bền vững”. Thực chất đây là quyền cũng đồng thời là nghĩa vụ
của chồng. Vợ chồng cùng nhau thực hiện các quyền này cũng đồng thời chung tay
cùng với cộng đồng xây dựng một xã hội phồn vinh. Bởi khi thực hiện các quyền
này thì sẽ xây dựng một gia đình tốt. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình tốt thì
xã hội mới tốt được. Điều 42 quy định về ly hôn, quyền này được đặt trong mối
quan hệ hôn nhân gia đình là quyền nhân thân gắn với vợ chồng. Sự bình đẳng của
quyền ly hôn thể hiện trong việc cả hai vợ chồng, hoặc vợ, hoặc chồng có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Xét về hậu quả của ly hôn là không thể
lường trước được, do vậy để sự tự do ly hôn thực sự là sự giải thoát cho vợ chồng,
sự bần cùng mới cần sử dụng tới, Luật hôn nhân gia đình cũng đã quy định những
vấn đề cần thiết liên quan tới việc ly hôn.
Đối với những quyền nhân thân liên quan tới mối quan hệ giữa cha,mẹ và các
thành viên khác trong gia đình như tại Điều 41, Điều43, Điều 44. Cụ thể hóa các
9


điều luật này đã được Luật hôn nhân gia đình Việt Nam thực hiện và bảo đảm thực
hiện nó trên thực tế một các chi tiết và đồng bộ. Đối với quyền nhận, không nhận
cha mẹ con theo Điều 43 và Điều 41 BLDS. Theo đó,người con có quyền được xác
định cha mẹ và được cha mẹ mình chăm sóc và bảo vệ. Đây là một quyền nhân
thân đặc biệt và quan trọng trong các quyền cơ bản đối với trẻ em. Một khi trẻ em
được sinh ra mà không được cha mẹ, hoặc cha, hoặc mẹ không thừa nhận thì trẻ
em đó có thể bảo vệ quyền của mình bằng các phương thức khác nhau theo Điều
43 đã quy định. Trong thực tế, nhóm quyền đặc biệt này của người con luôn bị
xâm hại, không đảm bảo được quyền của trẻ em nói chung và quyền của người con
nói riêng. Việc này cho dù là có những chế tài hay không thì nhóm quyền nhân
thân này đôi lúc là rất khó đảm bảo. Hoặc khi đã thực hiện quyền đó rồi thì xác

định vấn đề trách nhiệm của cha mẹ trong một quãng thời gian dài đã chốn tránh
trách nhiệm với người con như thế nào. Đây thực sự là vấn đề mà pháp luật dân sự
cũng như pháp luật hôn nhân gia đình của nước ta đã và đang bị bỏ ngỏ. Do vậy
pháp luật của chúng ta trong thời gian tới cần bổ sung vấn đề về hậu quả pháp lý
đối với việc xác định cha, mẹ, cho con để giảm bớt tình trạng thiếu trách nhiệm
của một số ông bố, bà mẹ như hiện nay. Ngoài ra, quyền được nuôi con nuôi và
quyền được nhận làm con nuôi quy định tại Điều 44 BLDS. Theo đó thì những
quyền này đã được pháp luật bảo hộ và công nhận. Và để được pháp luật bảo hộ
những quyền và lợi ích liên quan của người nhận nuôi con nuôi và người được
nhận nuôi con nuôi thì việc nhận nuôi con nuôi phải được thực hiện theo quy định
của pháp luật. Quyền được nuôi con nuôi đã tạo ra quyền làm cha, làm mẹ của
người nhận nuôi con nuôi nhằm tạo ra sự gắn bó tình cảm giữa người nhận nuôi và
người được nhận nuôi trong quan hệ cha mẹ và con. Ngoài các quyền nhân thân
được quy định trong BLDS 2005 liên quan đến quan hệ hôn nhân gia đình, Luật
hôn nhân gia đình đã chi tiết hóa các quyền này như quyền xác định cha mẹ và
con, cha mẹ có quyền đại diện, giám hộ cho con theo quy định của pháp luật. Bên
cạnh đó là các quyền nhân thân giữa các thành viên trong gia đình.
Tóm lại, BLDS 2005 đã có nhiều quy định cụ thể về quyền nhân thân trong
nhóm quan hệ này. Ngoài ra là luật hôn nhân gia đình 2000, cũng đã quy định chi
tiết các quyền nhân thân thuộc nhóm này. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các
cá nhân trong mối quan hệ hôn nhân gia đình được tôn trọng và bảo vệ.
4.2 Nhóm các quyền liên quan tới sự cá biệt hóa cá nhân
10


Các quyền nhân thân thuộc nhóm này được BLDS ghi nhận bao gồm : quyền
đối với họ tên ( Điều 26), quyền thay đổi họ tên ( Điều 27 ),quyền được khai
sinh( Điều 29), quyền được khai tử ( Điều 30 ),quyền của cá nhân đối với hình ảnh
( Điều31), Quyền xác định dân tộc( Điều 28), quyền xác định lại giới
tính( Điều36), quyền đối với quốc tịch ( Điều45). Trong tất cả các quyền nhân thân

mà BLDS đã ghi nhận thì quyền nhân thân thuộc nhóm quyền này thể hiện rõ nhất
đặc trưng của LDS. Việc phân biệt cá nhân này với cá nhân khác và phân biệt cá
nhân với những chủ thể của quan hệ pháp luật không những có ý nghĩa trong việc
xác định quyền và nghĩa vụ của chủ thể mà còn có ý nghĩa trong việc xác định
trách nhiệm pháp lý của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật nói chung và quan
hệ pháp luật dân sự nói riêng. Những quyền nhân thân liên quan tới sự cá biệt hóa
cá nhân là những quyền năng cơ bản và thể hiện rõ sự cá biệt gắn liền với chủ thể
và không thể chuyển giao cho người khác.
Mỗi người sinh ra đều có một tên gọi của mình do cha mẹ hoặc ai đó đăt cho
để phân biệt cá nhân này với cá nhân khác.Trên thực tế thì quyền này mặc nhiên là
có để mỗi chúng ta có thể phân biệt nhau.Điều 26 và Điều 27 quy định quyền đối
với họ tên và quyền thay đổi họ tên. Đây là là quyền dân sự cơ bản gắn liền với
nhân thân của mỗi cá nhân. Việc xác lập họ tên là rất quan trọng và gắn liền với
chủ thể đó tới suốt đời. Mặc dù mỗi cá nhân có thể có nhiều tên gọi khác nhau
như :bí danh, tên thường gọi,biệt danh, tên khai sinh…. Họ tên không chỉ đơn
thuần là yếu tố về mặt nhân thân, mà nó còn là yếu tố pháp lý quan trọng để cá
nhân xác lập thực hiện quyền cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý nhân danh
chính mình. Do vậy họ tên của một người cần phải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận bằng việc cấp giấy đăng ký khai sinh cho một người. Và cá nhân
khi tham gia vào quan hệ pháp luật chỉ được công nhận mang một tên riêng để
phân biệt với các chủ thể khác. Đó chính là tên được ghi trong giấy khai sinh.
Quyền đối với họ tên là quyền nhân thân của cá nhân, cá nhân có quyền này kể từ
khi sinh ra. Tuy nhiên việc thực hiện quyền này lại không do chính họ thực hiện
mà lại hoàn toàn phụ thuộc vào người có quyền và trách nhiệm đi khai sinh. Rõ
ràng quyền và lợi ích của cá nhân đã bị phân tán. Trong trường hợp người có
quyền và nghĩa vụ đi khai sinh cho trẻ mà không thực hiện vậy ai sẽ chịu trách
nhiệm, không những thế nếu trẻ chưa được đăng ký khai sinh đã lớn và đã có đầy
đủ năng lực hành vi dân sự thì có thể tự mình đi đăng ký khai sinh được không?
Đây là một câu hỏi mà đã gặp khá nhiều ở nhà nước ta hiện nay và vẫn là một vấn
11



đề còn bỏ ngỏ. Do vậy pháp luật dân sự cẩn bổ sung và hoàn thiện quyền nhân thân
này để bao trùm hết cả trường hợp trên.
Quyền xác định lại dân tộc là quyền nhân thân của cá nhân được pháp luật
bảo vệ. Theo quy định của BLDS,tại Điều 28 quy định thì quyền xác định dân tộc
của cá nhân lại khá là ngược so với quyền đối với họ tên. Nước ta hiện nay có 54
dân tộc cùng sinh sống. Việc xác định dân tộc cho cá nhân hoàn toàn phụ thuộc
vào dân tộc của cha hoặc của mẹ chứ cá nhân mỗi người lại không có quyền tự xác
định dân tộc của mình. Và việc xác định dân tộc của cá nhân cũng được ghi vào
trong giấy khai sinh của cá nhân. Mặc dù vậy nhưng theo quy định tại khoản 3
Điều16 nghị định 15 của Chính phủ về hướng dẫn đăng ký hộ tịch thì trong trường
hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi thì phần cha, me, dân tộc được bỏ trống. Như vậy
thì trong trường hợp mà trẻ không thể xác định được cha, mẹ của mình thì quyền
nhân thân này của trẻ mãi không được đảm bảo. Đối với trường hợp này chúng ta
nên quy định một dân tộc nào đó hoặc một dân tộc mà chiếm đa số tại nơi trẻ được
phát hiện. Ngoài việc quy định xác định dân tộc là một quyền nhân thân thì là
quyền được xác định lại dân tộc. Nhưng việc xác định lại dân tộc phải thỏa mãn
các điều kiện do pháp luật quy định và trong những trường hợp nhất định.
Quyền cá nhân đối với hình ảnh được quy định tại Điều 31 BLDS 2005 đã thể
hiện sự tiến bộ của pháp luật dân sự Việt Nam, bởi vì không phải quốc gia nào
quyền cá nhân đối với hình ảnh cũng được quy định cụ thể trong BLDS. Trước hết
chúng ta cần hiểu rằng khái niệm hình ảnh của cá nhân bao gồm mọi hình thức
nghệ thuật ghi lại hình dáng của con người như chụp ảnh, ảnh vẽ, ảnh chép và suy
rộng ra là có thể bao gồm cả tượng của cá nhân và hình ảnh có được do ghi hình.
Theo quy định của pháp luật thì việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được sự
đồng ý của cá nhân đó. Tuy nhiên pháp luật không quy định như thế nào là”đồng
ý”. Nhưng chúng ta có thể hiểu là việc sử dụng hình ảnh của cá nhân vào bất cứ
mục đích gì mà không có sự đồng ý của cá nhân đó đều coi là vi phạm pháp luật.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân là một vấn đề nhậy cảm và khá phức tạp trong

cuộc sống. Để tránh việc sử dụng tùy tiện hình ảnh của cá nhân và đảm bảo cho
quyền nhân thân đó, pháp luật cần quy định rõ những trường hợp nào thì pháp luật
cho phép sử dụng hình ảnh của cá nhân và quy định chặt chẽ về sử dụng hình ảnh
của cá nhân trong những trường hợp cụ thể.
Quyền xác định lại giới tính được BLDS 2005 quy định tại Điều 36. Đây là
quyền nhân thân của cá nhân và là quy định bổ sung cho quy định về quyền nhân
12


thân của BLDS 1995. Như chúng ta đã biết thì chuyển đổi giới tính là vấn đề mới
và rất phức tạp về mặt xã hội, mới chỉ xảy ra một số ít các trường hợp và chưa có
tình phổ biến. Do vậy cần có thời gian để tìm hiểu thực tế và nghiên cứu thêm kinh
nghiệm của các nước trên thề giới. Như vậy, BLDS 2005 quy định việc xác định
lại giới tính của một người chỉ được thực hiện trong trường hợp giưos tính của
người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can
thiệp của Y học, nhằm xác định rõ về giới tính. Quyền thay đổi giới tính không thể
thực hiện một cách tùy tiện. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với tình hình xã
hội và truyền thống đạo đức của xã hội ta hiện nay. Nhưng trong các quy định hiện
hành thì chưa có quy định cụ thể như thế nào đối với trường hợp những người
được chuyển đổi giới tính này ra sao. Đặc biệt là trong trường hợp này liên quan
tới quyền lợi của họ trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.
4.3 Nhóm các quyền liên quan tới thân thể của cá nhân
Trong nhóm quyền liên quan tới thân thể của cá nhân bao gồm: quyền được
đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể ( Điều 32), quyền hiến bộ phận
cơ thể( Điều 33), Quyền hiến xác,nhận bộ phận cơ thể sau khi chết( Điều34),
Quyền nhận bộ phận cơ thể người( Điều 35). Theo đó thì có những quyền thì cá
nhân có thể tự mình thực hiện khi cá nhân đó còn sống, có những quyền lại có mối
quan hệ với nhau như tại Điều 33 và Điều 35 và có những quyền thì chỉ thực hiện
được khi cá nhân đó không còn sống.
Quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là

quyền nhân thân của cá nhân, thể hiện sự tự định đoạt của họ đối với các bộ phận
cơ thể, xác của mình sau khi chết do vậy cần thiết phải có hành lang pháp lý để
điều chỉnh vấn đề này. Và BLDS 2005 ra đời, với quy định mới này đã bổ sung kịp
thời cho sự hạn chế và thiếu sót của BLDS 1995. Với tư cách là quyền nhân thân,
quyền hiến bộ phận cơ thể mang những đặc điểm chung của quyền nhân thân đó
chính là tính cá nhân tuyệt đối, tính không xác định được bằng tiền và không vì
mục đích thương mại.Tuy nhiên việc quy định quyền nhân thân mới này trong
BLDS 2005 cũng mang những đặc điểm riêng biệt của chúng. Khi cá nhân thực
hiện quyền này lại không mang lại mục đích cho họ mà lại mang lại lợi ích cho
người khác, lợi ích cho toàn xã hội mà mục đích căn bản của quyền này là chữa
bệnh nhân đạo cứu người hoặc phục vụ giảng dạy trong các trường hoặc là dùng
cho nghiên cứu khoa học. Nhưng nó vần được ghi nhận là một quyền nhân thân
của cá nhân.Ghi nhận quyền này chính là một bảo đảm cho sự tự lựa chọn hành
13


động của mình trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. Vì đây là một vấn
đề còn rất mới mẻ ở nước ta, trong thực tế thì phát sinh chưa phổ biến rộng rãi nên
BLDS chỉ quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc, với tính chất là một quyền
dân sự về nhân thân, còn các vấn đề cụ thể về trình tự, thủ tục hiến bộ phận của cơ
thể, sử dụng xác của người chết sẽ được quy định tại các văn bản riêng. Pháp luật
đa số các nước không cho phép mua bán bộ phận cơ thể như một tài sản. Nếu cân
nhắc giữa việc bảo vệ trật tự công cộng và lợi ích của xã hội với việc bảo đảm sự
tự do ý trí của cá nhân thì rõ ràng là bảo đảm trật tự xã hội phải đặt nên hàng đầu.
Quyền hiến bộ phận cơ thể và nhận bộ phận cơ thể thực chất là hai mặt của
một vấn đề, một bên có quyền nhân, một bên có quyền hiến. Quyền hiến là tiền đề
cho quyền nhận. Trên thực tế thì quyền nhận sẽ thực hiện phức tạp, nhạy cảm hơn
quyền hiến, nếu không thực hiện tốt thì vấn đề này thực sự trở thành bức bối cho
xã hội.Cùng với Điều 34, quyền hiến xác,bộ phận cơ thể sau khi chết. Đây được
xem là những quy định rất mới mẻ ở VIệt Nam, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp

của chúng ta quy định cho cá nhân có quyền hiến, nhận bộ phận cơ thể khi còn
sống và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể khi chết bên cạnh quyền được đảm bảo an
toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể.Quy định này là bước đột phá và được coi là
cuộc cách mạng trong quan niệm về sự sống, cái chết của con người trong một xã
hội đang phát triển mà trong lòng xã hội đó còn chứa nhiều quan điểm khác nhau
về sự sống và sự chết của cá nhân.
Hiện nay, xuất phát từ sự thay đổi trong nhận thức của mỗi người, số có
người mong muốn hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác đang ngày càng gia tăng.
Chúng ta đã có rất nhiều tấm gương cao cả tự nguyện hiến cho người khác. Bên
cạnh đó, còn rất nhiều người muốn hiến mô, hiến bộ phận cơ thể của mình mà
không biết hiến ở đâu, hiến bằng cách nào. Ví dụ trường hợp của anh Nguyễn Lê
Minh Anh, sinh năm 1986 quê ở Nha Trang và hiện đang làm nghề bốc vác tại một
cảng ở TPHCM. Trong thư anh gửi cho báo điện tử Vietnamnet ngày 5/7/2006,
anh viết” tôi đã nghe và đọc rất nhiều những thông tin về nỗi khổ của những người
đang phải chạy thận nhân đạo, không biết ở Việt Nam chúng ta đã ghép thận được
hay chưa? Tôi thiết nghĩ có hiến máu nhân đạo thì cũng có chương trình hiến thận
cho những người đã và đang vật nộn tùng ngày từng giờ với căn bệnh đó. Tôi có
ước nguyện được hiến quả thận của mình cho những người đang phải chống chọi
từng ngày với căn bệnh đau khổ đó. Thế nên tôi không biết làm cách nào làm được
với suy nghĩ của tôi”. Đây là một thực tế đã cho thấy sự hoàn thiện quy định của
14


pháp luật chưa tốt và chưa thiết thực để mỗi cá nhân có thể dễ dàng thực hiện được
quyền nhân thân của mình, đặc biệt là những quyền khá nhạy cảm này.
4.4 Nhóm các quyền liên quan tới giá trị tinh thần của chủ thể
Trong nhóm này được LDS quy định bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự.
nhân phẩm, uy tín( Điều37); quyền bí mật đời tư( Điều 38), quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở( Điều 46); quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo( Điều 47);quyền tự do
đi lại, tự do cư trú( Điều 48); quyền lao động (Điều 49); quyền tự do kinh

doanh( Điều 50); quyền tự do nghiên cứu sáng tạo( Điều 51). Đây là những quyền
đã được Hiến định và quy định tại các văn bản pháp luật khác.Đây là những quyền
nhân thân của cá nhân gắn với những lợi ích và giá trị tinh thần của mỗi cá nhân.
Mặc dù là các quyền này đã được Hiến định và được các văn bản pháp luật khác cụ
thể hóa nhưng tất cả vẫn còn những khiếm khuyết cần phải nhìn nhận. Tại Điều 37
quy định về quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín” danh dự, nhân phẩm,
uy tín của được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”.Pháp luật bảo vệ quyền nhân
thân này nhưng cũng không có văn bản pháp luật nào nêu khái niệm của nó là
gì.Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu”danh dự “ là sự đánh giá của xã hội đối với
một cá nhân dựa trên phẩm chất chính trị, năng lực…của cá nhân đó hay chính là
danh tiếng đi kèm với tài năng.”Nhân phẩm” là phẩm giá của con người, là giá trị
tinh thần của một cá nhân với tư cách là một con người.”Uy tín” là việc cá nhân
được biết đến theo chiều hướng tích cực thông qua hoạt động thực tiễn của
mình.Một khi hành vi xâm phạm tới các quyền liên quan tới lợi ích tinh thần của
cá nhân, biện pháp đầu tiên là cá nhân đó tự bảo vệ.Sau đó thì cá nhân có thể yêu
cầu cơ quan tổ chức bảo vệ quyền lợi cho mình. Cá nhân có quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín, có quyền buộc bên xâm hại phải chấm dứt hành vi
xâm hại, phải xin lỗi, cải chính công khai, buộc bên xâm hại phải thực hiện thực
hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại.Trên thực tế, BLDS chỉ quy định
cách thức xác định thiệt hại khi xâm phạm quyền được bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, uy tín trong phần xác định thiệt hại mà không quy định bồi thường thiệt hại
do hành vi xâm hại tới quyền được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm uy tín.
Do vậy BLDS cần quy định đây là một trong trường hợp bồi thường thiệt hại cụ
thể trong phần” bồi thường thiệt hại trong một số trường hợp cụ thể”( từ Điều 613
đến Điều 630). Điều này gây khó khăn trong thực tiễn xác định hành vi xâm phạm.
Những năm gần đây, số lượng những vụ việc xâm phạm quyền được bảo vệ
danh dự,nhân phẩm, uy tín được giải quyết tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
15



tăng lên đáng kể đặc biệt là số vụ được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại tòa án.
Mặc dù những vụ việc này chủ yếu được giải quyết tại một số thành phố lớn như
Hà Nội, TPHCM liên quan tới cá nhân, tổ chức hoạt động văn hóa nghệ thuật. Tuy
nhiên điều này chứng tỏ mức độ nhận thức cao hơn của cá nhân, tổ chức về quyền
được bảo vệ danh dự, nhân phẩm,uy tín. Khị quyền này bị xâm hại, gây ra những
hậu quả nghiêm trọng cho sự tồn tại và phát triển của bên bị xâm hại. Chính vì vậy,
cần phải hoàn thiện các quy đinh pháp luật liên quan tới quyền được bảo vệ danh
dự, nhân phẩm, uy tín.
Quyền tự do đi lại( Điều48), quyền lao động( Điều 49), quyền tự do kinh
doanh( Điều 50), quyền tự do sáng tạo, nghiên cứu( Điều 51). Đây là những quyền
nhân thân của cá nhận, trực tiếp tạo cơ hội và điều kiện cho các cá nhân phát huy
khả năng vốn có của mình. Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế như hiện nay thì
việc quy định những quyền nhân thân này có ý nghĩa hơn bao giờ hết.Thực hiện
các quyền nhân thân và hoàn thiện nó là yêu cầu được đặt ra cho hệ thống pháp
luật của chúng ta. Hoàn thiện và tạo cơ hôi cho cá nhân thực hiện nó chính là cơ
hội tạo ra những hạt nhân và nhân tố quan trọng cho sự tồn tại và phát triển bền
vững của đất nước trong thời kỳ này.
4.5 Nhóm các quyền nhân thân đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
Bao gồm: quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền tác giả, quyền liên quan tới
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng.
Xuất phát từ các giá trị tinh thần ban đầu, các chủ thể sẽ được hưởng các lợi
ích vật chất từ việc chuyển quyền đối với kết quả hoạt động sáng tạo.Đối với kết
quả của hoạt động sáng tạo tinh thần đã được luật sở hữu trí tuệ quy định và bảo vệ
khá toàn diện. Khi chuyển giao các đối tượng này thì người nhận chuyển giao có
thể thanh toán một lợi ích vật chất cho người chuyển giao.Tuy nhiên giá trị tinh
thần trong các quyền nhân thân thì không thể chuyển giao trong giao lưu dân
sự.Việc buộc chủ thể xâm phạm quyền nhân thân phải bồi thường thiệt hại chỉ
nhằm bù đắp phần nào tổn thất tinh thần đã xảy ra cho người bị thiệt hại.
Qua việc tìm hiểu và phân tích những nội dung cơ bản của quyền nhân thân
theo quy định của LDS thì việc thực tiễn thực hiện quyền nhân thân cũng được đề

cập tới.Và chúng ta cũng đã phần nào nhân thấy được những mặt tích cực và mặt
hạn chế cần được sửa đổi bổ sung về quyền nhân thân theo quy định của LDS hiện
hành.
16


5. Bảo vệ quyền nhân thân
Quy định theo pháp luật hiện hành về quyền nhân thân, thực hiện các quyền
này không tách rời cơ chế bảo vệ quyền nhân thân. Do đó, nói lý luận có như thế
nào thì bảo vệ quyền nhân thân là một vấn đề quan trọng trong việc hiện thực hóa
các quyền nhân thân của cá nhân. Về nguyên tắc, khi thực hiện quyền nhân thân
của mình không được xâm phạm tới quyền và lợi ích của người khác.Nhưng trên
thực tế của đời sống xã hội do sự nhận thức của mỗi người là khác nhau nên việc
xâm phạm quyền nhân thân là điều không thể tránh khỏi. Việc này không những
gây ảnh hưởng cho những người thực hiện quyền nhân thân mà còn ảnh hưởng tới
trật tự pháp lý của xã hội. Bảo vệ quyền nhân thân chính là việc cá nhân có quyền
nhân thân bị xâm hại, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật thực hiện các biện pháp, phương thức do pháp luật quy định để ngăn chặn kịp
thời các hành vi xâm hại trái pháp luật đến quyền nhân thân của cá nhân, buộc phải
chấm dứt hành vi và phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình theo quy định của
pháp luật. Có 2 phương thức bảo vệ quyền nhân thân đó là cá nhân tự bảo vệ và
bảo vệ quyền nhân thân bởi các cơ quan nhà nước.Bảo vệ quyền nhân thân có thể
thực hiện bằng nhiều biện pháp của nhiều nghành luật với vai trò khác nhau: Biện
pháp hành chính, biện pháp kỷ luật, biện pháp hình sự, biện pháp dân sự. Việc bảo
vệ quyền nhân thân theo biện pháp dân sự được thực hiện theo Điều 25 BLDS.
Quyền nhân thân tuy đã được pháp luật bảo vệ khá hoàn thiện nhưng những năm
gần đây số lượng những vụ việc liên quan tới quyền nhân thân tăng lên đáng kể.
6 Tìm hiểu một vụ việc thực tiễn liên quan tới quyền nhân thân
Vụ việc: Minh Khôi là ca sĩ nhí được nhiều người yêu mến và có nhiều bức
ảnh với khuôn mặt bầu bĩnh, nụ cười hồn nhiên, kháu khỉnh, đúng với tính chất trẻ

thơ. Công ty Biti’s liên tục sử dụng những bức hình của bé mà không có sự đồng ý
của bé và gia đình bé. Những hình ảnh đó thường xuyên xuất hiện trên bìa lịch,
pano, áp phích, tạp quảng cáo. Sự việc lên đỉnh điểm khi những bức ảnh của bé
Minh Khôi được in trên nhãn mác các sản phẩm của công ty và những bức hình bị
xé ngang xé dọc, vứt vương vãi khắp những cửa hiệu của công ty Biti’s.Đền đầu
năm 2004, gia đình bé Minh Khôi khởi kiện công ty Biti’s vì hành vi sử dụng hình
ảnh của bé một cách tùy tiện vào mục đích quảng cáo của công ty và vi phạm
nghiêm trọng quyền nhân thân của cá nhân bé Minh Khôi. Gia đình yêu cầu công
ty phải bồi thường thiệt hại là 154 triệu đồng, đồng thời công ty phải xin lỗi công
khai gia đình bé trên các phương tiện thông tin đại chúng và chấm dứt việc sử dụng
17


hình ảnh của bé để quảng cáo. Đơn kiện của gia đình bé đã được TAND quận 6
TPHCM thụ lý giải quyết. TAND quận 6 TPHCM ra quyết định buộc Công ty
Biti’s phải xin lỗi công khai gia đình bé Minh khôi, chấm dứt vô điều kiện việc sử
dụng trái phép ảnh của bé, bồi thường thiệt hại cho bé và gia đình gần 3 triệu đồng.
Cách giải quyết của tòa án: về cơ bản, cách giải quyết của tòa án là hợp
lý.Theo quy định của pháp luật thì chưa có quy định cụ thể như thế nào là đồng ý
của cá nhân có hình ảnh.Do vậy, khẳng định là công ty Biti’s vi phạm Điều 31
quyền của cá nhân đối với hình ảnh là chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng.Và quy định
quyền của cá nhân đối với hình ảnh không có trường hợp quy định trong trường
hợp nào thì được sử dụng hình ảnh cá nhân.Vậy nên, việc công ty Biti’s sử dụng
liều hình ảnh của bé vào mục đích thương mại nhằm quảng bá hình ảnh cho
thương hiệu của mình là điều khó tránh khỏi.Nhưng theo cách hiểu thông thường
thì tòa án xác định là công y Biti’s đã có hành vi xâm hại quyền của hình ảnh của
bé Minh khôi( theo quy định tại điều31 BLDS) là hợp tình.Tòa án ra quyết định
yêu cầu công ty Biti’s phải công khai xin lỗi gia đình bé Minh khôi, chấm dứt vô
điều kiện việc sử dụng trái phép hình ảnh của bé và bồi thường thiệt hại cho bé và
gia đình là việc bảo vệ quyền nhân thân theo biện pháp dân sự là hoàn toàn hợp lý

theo Điều 25 BLDS.Nhưng mà việc Tòa àn giảm mức bồi thường từ 154 triệu
đồng xuống còn gần 3 triệu đồng là không hợp lý. Theo quy định của pháp luật thì
bên vi phạm được xin phép giảm tiền bồi thường trong các các trường hợp vi phạm
không chú ý và mức bồi thường quá lớn so với khả năng tài chính của bị đơn mà
làm cho bên bị đơn không trả được. Trong trường hợp này thì công ty Biti’s hoàn
toàn có thừa khả năng tài chính để bồi thường cho gia đình bé Minh khôi và công
ty đã sử dụng hình ảnh của bé để quảng bà cho thương hiệu của mình,do vậy đây
hoàn toàn do chủ ý. Do vậy Tòa án quyết định giảm mức bồi thường thiệt hại từ
154 triệu đồng xuống 3 triệu đồng là một sai lầm chửa thỏa đáng.
Quyền hình ảnh đối với cá nhân xuất phát từ án lệ. Lần đầu tiên năm 1858
trong một vụ việc nổi tiếng. Đó là một vụ sao chép lại hình ảnh của một nữ diễn
viên nổi tiếng Rachelle trên giường bệnh trước khi bà ta chết.Tòa án dân sự sơ
thẩm Lasine đã kết án hành vi sao chép này.Và quyền của cá nhân đối với hình ảnh
đã được bảo vệ từ đó.Ở nước ta quyền cá nhân đối với hình ảnh đã được quy định
khá nhiều trong các bộ luật quan trong tiêu biểu như: Hiến pháp 1992, Luật dân sự
Việt Nam 2005,Luật tố tụng dân sự Việt Nam 2003…Hiện nay, việc vi phạm
quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền đối với hình ảnh của cá nhân nói
18


riêng diễn ra ngày càng phổ biến.Hình như việc này chở thành một thói quen và ăn
sâu vào tiềm thức của mỗi người. Qua ví dụ trên thì chúng ta có thể nhận thấy việc
xử lý việc xâm phạm quyền nhân thân theo biện pháp dân sự thì hệ thống pháp luật
dân sự của chúng ta đã chưa thực sự cụ thể hóa hết và nhiều quy định còn ở mức
chung chung và khái quát nên việc áp dụng việc thực hiện còn nhiều bất cập và
khó thực hiện.Vậy nên việc đảm bảo quyền nhân thân của cá nhân còn nhiều
vướng mắc.Vì vậy yêu cầu đặt ra là phải có phương hướng hoàn thiện quy định của
pháp luật về quyền nhân thân.
7. Một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định trong bộ
luật dân sự về quyền nhân thân

Hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự nói chung , hoàn thiện các quy định của
pháp luật về quyền nhân thân nói riêng là một trong những nội dung luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm.BLDS 2005 ra đời là một bước phát triển khá mạnh
mẽ trong các quy định về quyền nhân thân. Tuy nhiên chúng ta càng tự hào thì
chúng ta sẽ càng lạc hậu với chính xã hội và với các nước khác trên thế giới. Để
luôn kịp đáp ứng những nhu cầu và xã hội ngày càng phát triển như hiện nay thì
những quy định về quyền nhân thân cần được hoàn thiện trên một số phương diện
sau: Thứ nhất, các quy định về quyền nhân thân trong BLDS luôn xuất phát từ
mục tiêu vì lợi ích của con người, coi con người là trung tâm. Thứ hai, hoàn thiện
quy định của pháp luật về quyền nhân thân cần tính đến một số quan hệ mới phát
sinh như vấn đề về quyền được chết, vấn đề mang thai hộ, vấn đề chuyển đổi giới
tính… mà một số các quốc gia trên thế giới đã đề cập tới.Thứ ba, hoàn thiện các
quy định về quyền nhân thân phải luôn đặt trong mối quan hệ tổng thể với hệ thống
pháp luật nói chung, các quy định pháp luật chuyên nghành nói riêng để đảm bảo
hệ thống pháp luật thống nhất và hài hòa.Thứ tư, trong việc hoàn thiện về quyền
nhân cần chú ý sửa đổi những quy định của BLDS hiện hành về nội dung của một
số quyền nhân thân như, bổ sung quy định về quyền cá nhân đối với hình ảnh, dân
tộc, quốc tịch… cho phù hợp hơn với điều kiện kinh tế, chính trị hiện đại; cần quy
định rõ hơn về các phương thức bảo vệ quyền nhân thân một cách cụ thể, cần làm
rõ một số khái niệm quy định thế nào là bí mật đời tư, thế nào là danh dự, nhân
phẩm, uy tín… Bởi trong thời gian qua. Tòa án đã tỏ ra khá lúng túng khi gặp phải
những vụ kiện liên quan tới vấn đề đó.Tóm lại hoàn thiện các quy định của pháp
luật về quyền nhân thân là một trong những nội dumg quan trọng cần được chú ý.
19


Đây cũng là mục tiêu mà việc nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
quyền nhân thân theo quy định của BLDS hướng tới.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Con người là trung tâm, là tâm điểm hướng tới của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Việc ghi nhận các quyền của con người là một trong những yếu tố đánh giá sự
tiến bộ của từng giai đoạn lịch sử, của từng Nhà nước khác nhau. Nhà nước Việt
Nam luôn coi trọng các quyền của con người trong đó có quyền nhân thân. Hiến
pháp là văn bản pháp lý cơ bản và quan trọng nhất đã ghi nhận điều này.Quyền
nhân thân là một trong những quyền dân sự của cá nhân, các quyền này đã được cụ
thể hóa trong các quy định của BLDS.Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận và
thực tiễn quyền nhân thân theo quy định trong BLDS chúng ta nhận thấy là về cơ
bản thì chúng ta đã có hệ thống pháp luật để ngi nhận, bảo vệ quyền nhân thân. Và
việc ghi nhận các quyền nhân thân trong BLDS 2005 có thể thấy rằng pháp luật
dân sự Việt Nam có những bước tiến đáng kể trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân.Đây là sự khẳng định đồng thời là cơ sở pháp lý quan trọng
cho cá nhân trong việc thực hiện các quyền nhân thân của mình.Quyền nhân thân
của cá nhân được ghi nhận trong BLDS 2005 thể hiện sự tôn vinh của pháp luật
đối với các giá trị đích thực của con người, đó là sự thể hiện mục đích của pháp
luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng vì con người và lấy con người làm
trung tâm. Tuy vậy, thực tiễn cũng cho thấy các quy định của BLDS 2005 về
quyền nhân thân vẫn còn tồn tại một số những quy định mang tính chung chung,
mới chỉ mang tính định hướng trong khi đó các văn bản hướng dẫn thi hành lại
không hướng dẫn cụ thể nên việc thực hiện chúng trên thực tế đã gặp nhiều bất
cập, vướng mắc nhất là trong việc áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân.
Trên đây là những vấn đề lý luận và thực tiễn của quyền nhân thân theo quy định
trong BLDS. Do kiến thức thực tế còn hạn chế, kỹ năng làm bài chưa tốt, bài làm
sẽ khó tránh khỏi những hạn chế, em mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy
cô, em xin tiếp thu và chỉnh sửa để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân
thành cảm ơn!

20



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Tập I,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. TS. Lê Đình Nghị, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Tập I, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 2009.
3. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005
4. Những quy định mới, những điểm mới được bổ sung về quyền nhân thân
trong Bộ luật dân sự năm 2005 / Ngô Quang Liễn
5. Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân theo pháp luật
dân sự / Lê Đình Nghị - Hà Nội, 2008
6. Website: thongtinphapluat.vn
7. Website: thongtinphapluatdansu.edu.vn

21



×