Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Một số vấn đề khái quát về giải quyết bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong lĩnh vực tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.84 KB, 12 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. LỜI MỞ ĐẦU.
Sự ra đời của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ngày 18/6/2009 là một quá
trình đúc rút từ lý luận và thực tiễn công tác bồi thường của Nhà nước nói chung và bồi
thường oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Những quy phạm của Luật trách
nhiệm bồi thường đã tạo nên một hành lang pháp lí vững chắc bảo vệ quyền lợi cho người bị
thiệt hại, trong đó bao gồm cả người bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự. Thế nhưng không thể phủ nhận một điều
rằng giải quyết bồi thường là một hoạt động khó khăn, phức tạp và cũng rất nhạy cảm vì trực
tiếp liên quan đến trách nhiệm, quyền lợi của cán bộ, công chức và quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân do phải áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường nhà nước và pháp
luật chuyên ngành đồng thời lại phải tuân thủ theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ.
Những quy định về thủ tục giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự là một
điểm có tính chất hoàn thiện hơn so với quy định cùng loại trong các văn bản pháp lí cũ, góp
phần tạo nên một cơ chế giải quyết hệ thống mang lại hiệu quả cao hơn. Vậy để có cái nhìn
cụ thểvề vấn đề này, em xin được phân tích, làm rõ thủ tục giải quyết bồi thường trong lĩnh
vực tố tụng hình sự.

B. NỘI DUNG.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

1



BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
I.

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Một số vấn đề khái quát về giải quyết bồi thường thiệt hại do người thi hành
công vụ gây ra trong lĩnh vực tố tụng hình sự.

1.

Cơ sở pháp lí.

Những quy định vềbồi thường thiệt hại trong lĩnh vực tố tụng hình sự đã xuất hiện từ rất
lâu dù được ghi nhận một cách trực tiếp hay gián tiếp, những văn bản đánh dấu sự phát triển
của nó qua các thời kì như: Nghị định số 47/CP về giải quyết bồi thường thiệt hại do cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
hay Nghị quyết số 388 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra…Thế nhưng phải đến sau này, trong Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nướcđược ban hành ngày 18/6/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010
thì vấn đề giải quyết bồi thường do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động tụng hình
sự mớitrở thành một chế định riêng và thủ tục giải quyết bồi thường mới được ghi nhận rõ
ràng và quy định một cách hoàn thiện hơn tại Điều 15, 16, 17 Mục II, Chương II và cụ thể
hóa tạiĐiều 34, Chương III về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong hoạt động tố tụng,
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009. Ngoài ra nó còn được ghi nhận tại
Nghị định 16/2010/NĐ-CP quy định và hướng dẫn một số điều về Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước.
2. Phạm vi bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Một vấn đề liên quan mật thiết đến trình tư, thủ tục giải quyết bồi thường đó là phạm vi
bồi thường thiệt hại. Chỉ những trường hợp thuộc phạm vi bồi thường thiệt hại theo quy định
của pháp luật thì mới áp dụng theo thủ tục bồi thường để giải quyết. Luật Trách nhiệm bồi

thường của Nhà nước ra đời với kỳ vọng sẽ giải quyết các vấn đề bất cập cũng như bức xúc
của xã hội liên quan đến các vấn đề bồi thường thiệt hại do cán bộ, cơ quan nhà nước gây ra,
và đặc biệt trong đó có hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, với bảy trường hợp Nhà nước
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự được quy định tại Điều 26
Luật này, thì trường hợp cá nhân, tổ chức có tài sản liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét
xử hình sự bị thiệt hại do việc cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền không ban hành các
quyết định tố tụng lại không được quy định, và vấn đề này cũng không thuộc trường hợp
không được bồi thường nào trong 5 trường hợp theo Điều 27 của Luật trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước. Mặt khác, cũng như trong Nghị quyết 388 trước đây, phạm vi trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TTHS vẫn chỉ dừng lại ở đối tượng bị oan,
còn các hành vi làm sai vẫn chưa được giải quyết triệt để, ngoài một số trường hợp quy định
ở Khoản 7 Điều 26 LTNBTCNN. Tuy nhiên, các trường hợp gây sai trong tố tụng dân sự,
hành chính lại được bồi thường, tạo ra sự bất công, không bình đẳng ngay trong một văn bản
luật.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

2


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

3. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự.
Luật Trách nhiệm bồi thường Nhà nước quy định cơ quan có trách nhiệm bồi thường
trong hoạt động tố tụng hình sự là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân
dân quản lý trực tiếp người tiến hành tố tụng có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và các
trường hợp cụ thể mà mỗi cơ quan này phải bồi thường được quy định chi tiết tại các Điều
30, 31, 32 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Tuy nhiên, về phần này Luật không

quy định các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội như Viện Kiểm sát quân sự và Tòa án
quân sự phải bồi thường thiệt hại nếu có các hành vi thiệt hại trong tố tụng hình sự tương tự
các trường hợp nêu trên. Như vậy, các thiệt hại trong tố tụng hình sự ở quân đội do người có
thẩm quyền của các cơ quan này gây ra sẽ được xem xét giải quyết như thế nào vẫn còn là
một vấn đề bỏ ngỏ của Luật trách nhiệm bồi thường.
4. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết bồi thường thiệt hại do hoạt động tố tụng
hình sự gây ra.
Dựa trên các quy định về thẩm quyền bồi thường thiệt hại và giải quyết bồi thường thiệt
hại thì chúng ta có thể thấy, thực chất có hai cơ quan tài phán trong bồi thường oan sai.Thứ
nhất chính là cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và thứ hai là Toà án- cơ quan tài
phán thứ hai có vai trò để đánh giá quyết định bồi thường của cơ quan tài phán trước đó
đúng hay sai, thoả đáng hay không.
II. Thủ tục giải quyết bồi thường do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
tố tụng.
Giải quyết bồi thường do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự
là một trong các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà
nước nên dù có những nét đặc thù thiên về hình sự thì nó vẫn mang dáng dấp chung, vẫn có
những điểm tương đồng với giải quyết bồi thường do người thi hành công vụ gây ra trong
các lĩnh vực khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính hay thi hành án nói chung…Và vấn
đề thủ tục giải quyết bồi thường chính là một trong những điểm tương đồng đó nếu xét về
bao quát các bước tiến hành.Căn cứ vào Điều 34 Mục III, Chương III cùng các điều 14, 16,
17, 18, 19, 20 tại Mục II, Chương II Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, nhìn
chung,thủ tục giải quyết việc bồi thường bao gồm các trình tự cơ bản sau:
Yêu cầu giải quyết việc bồi thường; thụ lí đơn yêu cầu bồi thường; xác minh thiệt hại và
thương lượng với người bị thiệt hại; ban hành và chuyển giao quyết định giải quyết bồi
thường; chi trả tiền bồi thường. Nếu như hai bên không thỏa thuận được theo trình tự thương
lượng như trên thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện tại tòa án và yêu cầu bồi thường có
được chấp thuận hay không phụ thuộc vào phán quyết của tòa án.
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501


3


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Như vậy, một cách tổng quát, ta có thể chia thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt
hại làm hai giai đoạn, tạm gọi như sau: thứ nhất là thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường
thiệt hại ngoài tòa án và thứ hai là thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại tòa án. Thủ tục
giải quyết trong hoạt động tố tụng hình sự khác với thủ tục giải quyết trong các hoạt động
khác ở một số nét cơ bản như phạm vi bồi thường, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết…
1. Thủ tục giải quyết ngoài Tòa án đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại do hoạt
động tố tụng hình sự gây ra.
1.1. Yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Yêu cầu bồi thường thiệt hại được xem là bước đầu tiên trong quá trình giải quyết bồi
thường thiệt hại.Trước hết, người bị thiệt hại phải gửi đơn yêu cầu người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại, tố cáo xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Thủ tục
xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ được áp dụng theo quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Việc yêu cầu bồi thường do chủ thể là cơ quan tổ chức cá
nhân bị thiệt hại tiến hành. Các trường hợp trong lĩnh vực tố tụng hình sự được quy định tại
Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước sau khi nhận được bản án, quyết định
của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thì tổ chức, cá nhân bị thiệt hại sẽ phải gửi đơn yêu
cầu đến cơ quan có thẩm quyền. Người bị thiệt hại do quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố
bị can của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
quy định tại Điều 30 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra quyết định tạm giữ, quyết định
khởi tố bị can. Người bị thiệt hại do quyết định của Viện kiểm sát (quy định tại Điều 31của
Luật này) gửi đơn yêu cầu bồi thường đến Viện kiểm sát đã ra quyết định đó. Người bị thiệt
hại do bản án, quyết định của tòa án có thẩm quyền quy định tại Điều 32 của Luật này gửi

đơn yêu cầu bồi thường đến tòa án đã ra bản án, quyết định đó.
Khi nhận được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ,
người yêu cầu bồi thường gửi hồ sơ yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi
thường. Hồ sơ có thể được gửi trực tiếp hoặc thông qua hệ thống bưu chính viễn thông đến
cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
Theo Điều 16 và Điều 34 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, hồ sơ yêu cầu bồi
thường bao gồm: đơn yêu cầu bồi thường; bản sao bản án, quyết định xác định người đó
thuộc một trong các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này; và tài
liệu, chứng cứ có liên quan đến việc yêu cầu bồi thường. Trong đó, đơn yêu cầu bồi thường
phải đảm bảo được những nội dung sau: Họ và tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường
thiệt hại; lý do yêu cầu bồi thường; thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường.
1.2. Thụ lí dơn yêu cầu bồi thường.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

4


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Khi nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường, tòa án, viện kiểm sát hoặc cơ quan điều tra có trách
nhiệm bồi thường phải kiểm tra và xác định tính hợp lệ của đơn và các giấy tờ, tài liệu kèm
theo.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn và các giấy tờ hợp lệ, nếu xác
định yêu cầu bồi thường thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì cơ quan đã nhận hồ sơ
phải thụ lí và thông báo bằng văn bản về việc thụ lí đơn cho người yêu cầu bồi thường. Nếu
cơ quan nhận đơn cho rằng vụ việc không thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì trả lại
hồ sơ và hướng dẫn người yêu cầu bồi thường gửi đơn đến cơ quan quản lí nhà nước về công

tác bồi thường để được xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường theo quy định tại Nghị
định 16.
Pháp luật hiện hành không quy định thành lập Hội đồng xét xử giải quyết bồi thường
như trước đây mà việc giải quyết bồi thường được giải quyết thông qua một người đại diện
của cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Điều 7 Nghị định 16 đã quy định rõ về điều kiện của
người đại diện, cụ thể như: là cán bộ lãnh đạo cấp phòng trở lên hoặc tương đương; có kinh
nghiệm công tác trong ngành; lĩnh vực phát sinh trách nhiệm bồi thường; không phải là
người liên quan của người thi hành công vụ đã gây thiệt hại hoặc của người bị thiệt hại.
Trường hợp thủ trưởng cơ quan điều tra, chánh án tòa án hoặc viện trưởng viện kiểm sát là
người gây ra thiệt hại thì tập thể lãnh đạo cơ quan điều tra hoặc tòa án hoặc viện kiểm sát đó
cùng thảo luận, thống nhất cử một đại diện lãnh đạo cơ quan chịu trách nhiệm về việc giải
quyết bồi thường.
1.3. Xác minh thiệt hại và thương lượng.
Về xác minh thiệt hại, Điều 18 Luật trách nhiệm bồi thường đã quy định khá rõ về xác
minh thiệt hại. Theo đó, thời hạn xác minh thiệt hại là 20 ngày kể từ ngày thụ lí đơn yêu cầu
bồi thường; trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp, hoặc phải xác minh tại nhiều địa điểm thì
thời hạn xác minh có thế kéo dài nhưng không quá 40 ngày. Căn cứ vào nội dung và tính
chất vụ việc, cơ quan điều tra, tòa án hoặc viện kiểm sát có trách nhiệm bồi thường có thể tổ
chức định giá, giám định thiệt hại về tài sản, giám định thiệt hại về sức khỏe hoặc lấy ý kiến
của các cơ quan có liên quan về việc giải quyết bồi thường.Người bị thiệt hại chỉ được yêu
cầu định giá, giám định lại với điều kiện họ không đồng ý với kết quả định giá, giám định và
yêu cầu của họ phải được cơ quan có trách nhiệm bồi thường chấp thuận.
Về thương lượng, bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự là một dạng đặc
biệt của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dân sự, do tính chất của bồi thường thiệt hại là
khắc phục những sai lầm, bồi thường khoản vật chất nhất định cho chủ thể bị xâm phạm.
Thương lượng là một thủ tục bắt buộc phải tiến hành, được hiểu chính là quan hệ thương
lượng giữa nhà nước- chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại với chủ thể bị xâm phạm.
Cụ thể ở đây là hoặc cơ quan điều tra, hoặc tòa án hoặc viện kiểm sát sẽ có trách nhiệm phải
tiến hành thương lượng với chủ thể bị xâm phạm.
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501


5


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Nhìn chung, về điểm này, thủ tục tiến hành trong tố tụng hình sự cũng tương tự như thủ
tục chung. Khoản 2 Điều 7 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước quy định: việc bồi
thường ”được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường
với người bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ.” Kết quả thương lượng là cơ sở
để quyết định việc bồi thường.Thời hạn tiến hành việc thương lượng là 30 ngày kể từ ngày
kết thúc việc xác minh thiệt hại.Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn
thương lượng có thể kéo dài thêm nhưng không quá 45 ngày (Điều 9 Luật trách nhiệm bồi
thường của nhà nước).
Địa điểm tiến hành thương lượng sẽ tại cơ quan điều tra hoặc tòa án hoặc viện kiểm sát
có trách nhiệm bồi thường hoặc trụ sở ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị
thiệt hại cư trú, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác. Việc thương lượng phải lập thành
biên bản với nội dung được quy định rõ tại khoản 4 Điều 19.
1.4. Ban hành và chuyển giao quyết định giải quyết bồi thường.
Sau khi kết thúc việc thương lượng, cơ quan điều tra, tòa án hoặc viện kiểm sát có trách
nhiệm bồi thường phải ra quyết định giải quyết bồi thường trong thời hạn 10 ngày. Quyết
định giải quyết bồi thường phải có các nội dung chính như: tên, địa chỉ của người yêu cầu
bồi thường; tóm tắt lí do yêu cầu bồi thường; căn cứ xác định yêu cầu bồi thường; mức bồi
thường; quyền khởi kiện tại tòa án trong trường hợp không tán thành với quyết định giải
quyết bồi thường.
Quyết định giải quyết bồi thường phải được gửi cho người bị thiệt hại, cơ quan cấp trên
trực tiếp của cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người thi hành công vụ gây ra thiệt hại.
Việc chuyển giao quyết định bồi thường được thực hiện theo thủ tục quy định tại Điều

10 Nghị định số 16.
Trường hợp người bị thiệt hại đồng ý với quyết định giải quyết bồi thường và không
khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường thì quyết định giải quyết bồi thường sẽ có
hiệu lực pháp luật và là căn cứ để cơ quan có trách nhiệm bồi thường tiến hành các thủ tục
chi trả để bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định tại Chương VI Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước. Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với quyết định giải
quyết bồi thường thì trong thời hạn luật định, họ có quyền khởi kiện ra Toà án yêu cầu giải
quyết bồi thường.
2. Thủ tục giải quyết tại Tòa án đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại do hoạt động
tố tụng hình sự gây ra.
Theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Toà án là cơ quan duy nhất thực hiện
việc giải quyết bồi thường sau khi người bị thiệt hại không nhất trí với quyết định bồi
thường hoặc không nhận được quyết định bồi thường của cơ quan tiến hành tố tụng có trách
nhiệm bồi thường theo luật định.
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

6


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Điều 37, Điều 22 và Điều 23 đã quy định khá cụ thể về vấn đề này. Theo đó, kể từ ngày
hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường quy định tại Điều 20 của Luật này mà cơ
quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại nhận
được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Toà án có
thẩm quyền theo quy định tại Điều 23 của Luật này để yêu cầu giải quyết bồi thường trong
thời hạn 15 ngày.
Việc khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường, thẩm quyền, và thủ tục giải quyết

bồi thường tại Toà án trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự. Toà án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi thường là Toà án nhân
dân cấp huyện nơi cá nhân bị thiệt hại cư trú, làm việc, nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở, nơi
thiệt hại xảy ra theo sự lựa chọn của người bị thiệt hại hoặc trường hợp khác theo quy định
của pháp luật.
*)Em xin được đưa ra một vụ án trên thực tế làm ví dụ minh họa cho trình tự, thủ
tục này. Đó là vụ án bắt giam oan 9 người xảy ra tại huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước:
Sau vụ cướp xảy ra cuối tháng 12/2008 trên địa bàn huyện Đồng Phú, cơ quan cảnh sát
điều tra huyện bắt khẩn cấp Nguyễn Văn Hùng vì nghi liên quan đến vụ án. Tiếp theo đó,
đến đầu tháng 1/2009, công an huyện này tiếp tục bắt tạm giam 8 người khác trong đó có
anh Phan Văn Thương (21 tuổi, ở Bù Đăng) để điều tra; đồng thời ra quyết định khởi tố 9 bị
can về tội cướp tài sản, cướp giật tài sản.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, cơ quan này không chứng minh được 9 người phạm
tội, Công an huyện Đồng Phú còn dùng biện pháp ép cung khiến một trong 9 người bị trọng
thương.
Tháng 2/2010, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú ra cáo trạng kết luận 9 bị can
phạm tội như kết luận của công an huyện Đồng Phú và chuyển hồ sơ sang Tòa án nhân dân
huyện xét xử. Tòa trả hồ sơ với lý do cơ quan điều tra vi phạm nghiêm trọng luật tố tụng.
18 tháng sau (8/2011), Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú buộc phải ra quyết định
đình chỉ vụ án do không đủ căn cứ chứng minh phạm tội, trả tự do cho 9 bị can và thương
lượng bồi thường oan sai.
Tháng 8-2011, 9 người bị oan nhận quyết định đình chỉ vụ án hình sự, gia đình họ làm
đơn yêu cầu bồi thường oan sai. Đến ngày 7-3-2012, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng
Phú tổ chức buổi thương lượng về mức bồi thường và sau đó ra quyết định “Bồi thường thiệt
hại cho người bị oan theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” đồng thời tổ chức
xin lỗi công khai. Tám thanh niên được Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú bồi thường
hơn 700 triệu đồng; riêng anh Phan Văn Thương do không thương lượng được mức bồi
thường nên đã khởi kiện ra tòa. Trong lần hòa giải vào ngày 24-5-2012, anh Thương yêu cầu
bồi thường hơn 566 triệu đồng nhưng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú chỉ đồng ý
trên 120 triệu đồng; đồng thời xin lỗi công khai anh Thương tại địa phương.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

7


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

-

-

-

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Như vậy, chúng ta có thể thấy vụ việc giải quyết bồi thường trên đã diễn ra theo trình tự
và thủ tục giải quyết bồi thường trong lĩnh vực tố tụng hình sự:
Yêu cầu bồi thường: gia đình anh Thương và 8 người bị hàm oan đã có thủ tục xác định
hành vi trái pháp luật do người thi hành công vụ của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng
phú gây ra. Yêu cầu bồi thường là hợp lí và hợp pháp do rơi vào phạm vi bồi thường trách
nhiệm được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước.
Thụ lí đơn yêu cầu bồi thường: Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú đã thừa nhận trách
nhiệm giải quyết bồi thường thuộc về mình nên đã thụ lí vụ án và tổ chức giải quyết.
Xác minh thiệt hại và thương lượng: Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng phú đã tiến hành
xác minh thiệt hại, tổ chức buổi thương lượng vào ngày 7-3-2012 và đã thống nhất mức bồi
thường là hơn 700 triệu đồng.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú đã ra quyết định và các thủ tục cần thiết để chi trả.
Riêng về phần anh Phan Văn Thương, do không đồng ý với mức bồi thường mà Viện kiểm
sát nhân dân huyện Đồng Phú đưa ra trong buổi thương lượng nên đã khởi kiện ra Tòa án
nhân dân huyện Đồng Phú để tiếp tục bảo vệ lợi ích của mình.

Nhìn chung vụ việc đã được giải quyết theo đúng thủ tục giải quyết bồi thường nhưng
vẫn còn có sự vi phạm về thời gian, dẫn đến vụ việc kéo dài lâu, gây ảnh hưởng đến quyền
lợi của người bị xâm phạm.
III. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện thủ tục giải quyết bồi thường do
người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự.
1. Thực tiễn áp dụng thủ tục giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng.
Thực tiễn hoạt động của công tác giải quyết bồi thường của nhà nước nói chung và trong
lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng bước đầu đã gặt hái được những kết quả khả quan. Theo
số liệu tổng hợp của các bộ, ngành và địa phương, từ khi Luật có hiệu lực (1/1/2010) đến
ngày 30/9/2012, các cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý 168 vụ việc yêu cầu bồi
thường thiệt hại, đã giải quyết 122/168 vụ việc.Trong đó,riêng hoạt động tố tụng chiếm đến
90 vụ. Các cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã chi trả hơn 16 tỷ đồng mà bồi thường
trong lĩnh vực tố tụng chiếm gần 8 tỷ đồng.Đạt được những bước tiến như vậy là nhờ có sự
đóng góp một phần của các quy định về thủ tục giải quyết bồi thường. Rõ ràng chúng ta
nhận thấy có những quy định về thủ tục đáng ghi nhận như: yêu cầu bồi thường thiệt hại là
một quy định mới mà những văn bản pháp luật trước đó chưa có hoặc chưa quy định rõ ràng.
Các quy phạm trước đó chỉ quy định một cách chung chung về người bị xâm phạm phải yêu
cầu cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải quyết bồi thường thiệt hại nhưng không
quy định rõ những thông tin về đơn yêu cầu, cách thức nộp và các tài liệu nộp kèm hay quy
định bắt buộc về thủ tục thương lượng cũng thể hiện được tính bình đẳng, công khai giữa
nhà nước và công dân, tạo điều kiện cho công dân bảo vệ quyền lợi cá nhân…
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

8


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC


Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều những bất cập cần được lưu tâm và sửa đổi
trong các quy định về thủ tục giải quyết bồi thường do người thi hành công vụ gây ra trong
lĩnh vực tố tụng hình sự.
Thứ nhất, quy định về thủ tục yêu cầu bồi thường thiệt hại còn mang nặng tính hình thức
và bất cập thể hiện ngay tại quy định: “người bị thiệt hại chỉ có quyền yêu cầu bồi thường
khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ”. Theo đó, mặc dù đã có thiệt hại thực tế xảy ra nhưng người thiệt
hại không có quyền yêu cầu bồi thường ngay mà phải thực hiện các thủ tục cần thiết để có
được văn bản nêu trên làm căn cứ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường.
Hơn thế, Luật còn đặt thêm thủ tục đối với người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền
yêu cầu bồi thường là phải có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ. Trong khi, thực tế, để có được văn bản này, người bị thiệt hại phải mất rất nhiều
thời gian mới có thể thu thập hồ sơ, chứng cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi
hành công vụ, chưa kể việc thu thập chứng cứ lại không đúng theo quy định dẫn đến thời
gian thực hiện giải quyết dài, người dân khi đến các cơ quan tiến hành tố tụng luôn ở thế bị
động.
Thứ hai, việc thương lượng giữa cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm bồi
thường với người bị xâm phạm được xem như là cơ sở để quyết định bồi thường và cũng là
một khâu giải quyết thể hiện sự hiệu quả của hoạt động bồi thường. Tuy nhiên trên thực tế
không đạt được những kết quả như mong muốn bởi vấn đề vướng mắc mà thực tế đã phản
ánh là việc xác định mức bồi thường gặp rất nhiều khó khăn, người bị xâm phạm và cơ quan
tiến hành tố tụng có thẩm quyền bồi thường ít khi tìm được tiếng nói chung. Mặt khác, thiệt
hại trong lĩnh vực tố tụng hình sự ngoài tổn thất về vật chất thì còn mang nặng tính tinh thần
và danh dự, vấn đề xin lỗi công khai trên phương tiện thông tin đại chúng hay quy đổi thành
vật chất cũng là một điều nan giải.
Một số vụ việc đã xảy ra trên thực tế như vụ ông Hoàng Minh Tiến yêu cầu Viện kiểm
sát nhân dân Hà Nội bồi thường một khoản tiền là 4,072 tỉ đồng cho 13 khoản mà ông đã
phải gánh chịu trong thời gian bị oan trong khi Viện kiểm sát chỉ ra mức bồi thường là gần
200 triệu. Do thương lượng không thành, ông Tiến đã gửi đơn đến Tòa án nhân dân quận Hai
Bà Trưng. Hay như vụ ông Bùi Văn Mãnh kiện Tòa án nhân dân tình Tiền Giang do không

thống nhất được mức bồi thường thiệt hại. Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang chỉ chấp nhận
bồi thường 111 triệu đồng trong khi ông Mãnh đòi bồi thường 1,4 tỉ đồng…
Thứ ba, một điểm hạn chế rất lớn của thủ tục giải quyết bồi thường trong lĩnh vực tố
tụng hình sự đó là đối với các vụ việc mà yêu cầu khởi kiện là đòi Nhà nước bồi thường thiệt
hại, người bị kiện là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thì việc áp dụng các thủ tục này sẽ
phát sinh một số vấn đề bất cập như trường hợp người bị kiện chính là Tòa án thụ lý đơn
khởi kiện, hay Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Vấn đề đặt ra ở đây là trách nhiệm chứng
NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

9


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

minh hành vi gây thiệt hại của người thi hành công vụ trong chính cơ quan đó, xác định mức
bồi thường, tính công bằng , công minh…e rằng sẽ khó đảm bảo khách quan trong quá trình
giải quyết vụ án, gây bất lợi cho người đã phải chịu nhiều thiệt hại do bị xử lý oan, sai.
Thứ tư, một quy định khác cũng đang làm khó cho người bị thiệt hại trong quá trình thực
hiện quyền yêu cầu bồi thường là quy định về thời hiệu yêu cầu bồi thường. Theo Luật, việc
quy định thời hạn yêu cầu bồi thường là 2 năm kể từ ngày có văn bản xác định hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ đã gây bất lợi cho người bị thiệt hại. Bởi, trên thực tế
có những trường hợp người bị thiệt hại không nhận được văn bản xác định hành vi trái pháp
luật hoặc khi nhận được thì văn bản này đã hết thời hiệu, khiến yêu cầu bồi thường của họ
không được thụ lý.
2. Kiến nghị hoàn thiện.
Để hoạt động giải quyết bồi thường nói chung và trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói
riêng đạt được hiệu quả cao, thiết nghĩ nên hoàn thiện hơn nữa các quy định về thủ tục giải
quyết bồi thường. Nên ban hành quy định riêng về quy trình thụ lý, thủ tục giải quyết các

yêu cầu bồi thường oan, sai trong tố tụng theo hướng thủ tục đơn giản, thời gian giải quyết
ngắn gọn, nhanh chóng; đồng thời mở rộng phạm vi, đối tượng yêu cầu bồi thường thiệt hại,
thời hiệu khởi kiện nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại.
Thủ tục giải quyết bồi thường nên có sự phối hợp và liên hoàn giữa các khâu: tiếp nhận
yêu cầu, thương lượng, giải quyết theo thủ tục kiện dân sự, thực hiện việc bồi thường và
công khai xin lỗi, sự luật hóa trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, sự liên hoàn và phối
hợp giữa các cơ quan tố tụng hình sự, cơ quan tài chính, cơ quan thông tấn báo chí theo một
quy trình được luật định.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng nên xây dựng cơ quan tài phán về bồi thường oan sai trong
tố tụng theo hướng độc lập với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Có thể với mô
hình này, thủ tục về xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, hay thủ tục
thương lượng sẽ được tiến hành công minh hơn, nhanh gọn hơn, tránh được tình trạng Tòa
án phải nhận và giải quyết đơn kiện chính cơ quan mình…Thế nhưng cũng có ý kiến cho
rằng, cơ chế cơ quan nào làm sai phải chịu trách nhiệm, phải đứng ra bồi thường, phải công
khai xin lỗi ở Việt Nam hiện nay là hợp lý, vấn đề là phải tiếp tục tạo ra sự hiệu quả hơn cho
cơ chế này chứ không phải là thay thế nó bằng một cơ chế khác. Ý kiến nào cũng có thuận
lợi và hạn chế của riêng nó để các nhà làm luật cân nhắc, chọn lọc nhằm hoàn thiện hơn nữa
chế định về giải quyết bồi thường nói chung và thủ tục giải quyết bồi thường trong tố tụng
hình sự nói riêng.
`

C. KẾT LUẬN.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

10


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ


MÔN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan, sai trong tố tụng hình sự là một
phạm vi trách nhiệm đã được quy định trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước. Đó là một sản phẩm của chế độ xã hội văn minh với một Nhà nước pháp quyền mà ở
đó, quyền tự do, dân chủ, sự công bằng và bình đẳng của mọi chủ thể trong xã hội- kể cả
Nhà nước đều dựa trên cơ sở pháp luật.Tuy nhiên, do tính phức tạp của hoạt động chứng
minh, do tính tương đối của khái niệm công bằng và công lý, do các vấn đề về đạo đức và
trình độ của người tiến hành tố tụng, tố tụng hình sự là lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện
những hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại cho công dân ở mức độ cao. Vậy nên, để thực
hiện tốt công tác giải quyết bồi thường ở lĩnh vực này, để đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho
công dân, cần áp dụng các quy định pháp luật bồi thường của Nhà nước trên tinh thần công
tâm, tuân thủ nghiêm túc, kịp thời sửa đổi những bất cập và hoàn thiện hơn nữa trình tự thủ
tục giải quyết bồi thường thiệt hại.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Tập bài giảng Luật bồi thường của nhà nước.
Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước 2010.
Nghị định 16/2010/NĐ-CP quy định và hướng dẫn một số điều về Luật trách nhiệm

-

bồi thường của Nhà nước.
Khóa luận tốt nghiệp: Bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng. Tác giả Hoàng

-

Ngọc Hưng. Trường Đại học Luật Hà Nội.

Luận án tiến sĩ: Chế định tài phán đối với bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố
tụng hình sự gây ra. Tác giả: Huỳnh Phương Nam. Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà

-

Nội.
Luận án Tiến sỹ Luật học “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra” năm 2002 của tác giả Lê Mai Anh - Trường Đại học Luật

-

Hà nội.
Luận văn Thạc sỹ Luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Nhà nước” năm 2007 của tác giả Lê Thái Phương - Trường Đại

-

học Luật Hà nội.
Một số trang web.

NGUYỄN THỊ MINH TÂM – 352501

11



×