Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Khái quát chung về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.88 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
Ngoài ra nghị định 100/2006/NĐ-Cp có quy định chi tiết về việc sử dingj tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian: “Điều 20. Sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian:..........................................................9

1


LỜI MỞ ĐẦU
Văn học - nghệ thuật dân gian là dòng chảy lớn bắt nguồn từ bản chất nhân dân, thể
hiện sắc thái và khát vọng của các cộng đồng cư dân khác nhau cùng chung sống trên
lãnh thổ quốc gia. Việt Nam chúng ta có một quá trình dựng nước và giữ nước lâu đời vì
thế nền văn học – nghệ thuật dân gian của chúng ta hết sức phong phú và đa dạng. Văn
học – nghệ thuật dân gian đã góp phần làm nên sức mạnh của dân tộc trong quá khứ,
hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, hiện nay do quá trình hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước nên vấn đề sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đã nảy
sinh nhiều bất cập cần giải quyêt đặc biệt là vấn đề bảo hộ quyền tác giả với loại hình
này.

NỘI DUNG
I.Khái quát chung về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian.
1. Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Từ trước đến nay, văn hóa nghệ thuật dân gian được coi là cội nguồn, là bản sắc, là
hệ giá trị biểu tượng của văn hóa dân tộc, nhưng tựu chung lại thì văn hóa dân gian là
những sản phẩm chung của cộng đồng. Văn hóa dân gian có thể dưới dạng ngôn ngữ
(truyện, thơ, câu đố dân gian...); âm nhạc (các bài hát dân gian, âm nhạc truyền thống...);
động tác (múa dân gian, động tác thực hiện nghi lễ...) hoặc các dạng thể hiện hữu hình
khác (các tác phẩm hội họa, điêu khắc, nghệ thuật tạo hình, sản phẩm thủ công mỹ
nghệ...) và các tài sản văn hóa vật thể khác. Theo định nghĩa của WIPO/UNESCO: Dân
gian (theo nghĩa rộng là văn hoá truyền thống và dân gian thông thường) là một sáng tạo


mang tính định hướng cộng đồng và dựa trên truyền thống của các nhóm người hoặc các
cá nhân phản ánh ước vọng của cộng đồng như một hình thức thể hiện đầy đủ đặc điểm
văn hoá và xã hội của nó; các chuẩn mực của nó được truyền miệng, thông qua sự bắt
chước hoặc các hình thức khác. Các thể loại tác phẩm dân gian bao gồm ngôn ngữ, văn
học, âm nhạc, điệu múa, trò chơi, thần thoại, nghi lễ, tập quán, thủ công, kiến trúc và các
nghệ thuật khác.
Khái niệm tác văn học nghệ thuật dân gian đã được pháp luật quy định tại khoản 1
điều 23 Luật sở hữu trí tuệ. Theo đó: “Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng
tạo tập thể trên nền tảng truyền thống của một nhóm hoặc các cá nhân nhằm phản ánh
khát vọng của cộng đồng, thể hiện tương xứng đặc điểm văn hoá và xã hội của họ, các
2


tiêu chuẩn và giá trị được lưu truyền bằng cách mô phỏng hoặc bằng cách khác. Tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian bao gồm:
i. Truyện, thơ, câu đố;
ii. Điệu hát, làn điệu âm nhạc;
iii. Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi;
iv. Sản phẩm nghệ thuật đồ hoạ, hội hoạ, điêu khắc, nhạc cụ, hình mẫu kiến trúc và
các loại hình nghệ thuật khác được thể hiện dưới bất kỳ hình thức vật chất nào.”
Từ khái niệm trên, ta có thể thấy tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là sản
phẩm của cộng đồng trên một vùng miền, khu vực địa lí nhất định phản ánh giá trị văn
học nghệ thuật đặc trưng, cho nên nó mang những đặc trưng có thể ảnh hưởng cơ chế
bảo hộ quyền tác giả đối với loại hình tác phẩm này. Tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian ra đời do sự sáng tạo của cộng đồng, có thể là cộng đồng trên một khu vực địa lí địa
phương hoặc cộng đồng theo sắc tộc. đây là điểm khác biệt giữa tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian và tác phẩm thông thường, bởi lẽ tác phẩm thông thường là sản phẩm của
cá nhân hay một nhóm cá nhân. Theo thời gian những tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian được lưu truyền, nuôi dưỡng trong dân cư, là món ăn tinh thần, trở thành nét văn
hóa của cả cộng đồng, vì thế từ chỗ là sáng tạo của một cá nhân đã được bổ sung, hoàn

thiện trở thành giá trị của cộng đồng. Tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian do cộng
đồng sáng tạo, cho nên thời gian ra đời và tồn tại của nó thường không xác định và
thường vận động theo sự sáng tạo không ngừng nghỉ của đời sống dân cư. Nhiều tác
phẩm văn học được lưu truyền bằng trí nhớ của con người, Vì thế nhiều tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian thường có “dị bản” khác nhau do được lưu truyền trong cộng
đồng như các tác phẩm truyện, bài hát, thơ….
Có thể thấy, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đóng vai trò quan trọng trong
việc nhận dạng văn hóa. Với việc phản ánh giá trị văn hóa của cộng đồng tác phẩm văn
học dân gian có vai trò quan trọng trong việc xác định giá trị văn hóa giữa cộng đồng này
với cộng đồng khác trong một quốc gia. Song quan trọng hơn các tác phẩm văn học nghệ
thuật nói riêng và các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian nói chung đóng góp vai trò
quan trọng trong việc nhận dạng văn hóa của quốc gia này với quốc gia khác, điều này
đã được tổ chức sở hữu trí tuệ WIPO khẳng định. Tuy nhiên, hiện nay nhiều tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian vẫn còn bị thất truyền, một số tác phẩm nổi tiếng trong
phạm vi quốc gia và được nhiều người biết đến, nhưng vấn đề sử dụng có hiệu quả và
khai thác giá trị của nó để bảo tồn cho mai sau còn chưa được quan tâm đúng mức.
2. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
3


Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là các quyền về tài sản
và nhân thân của chủ thể với tư cách là tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian là việc nhà nước sử dụng chính sách pháp luật về quyền tác giả để chống
lại mọi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân, quyền tài sản của các tác giả đối với tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Do đó, bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
của các quốc gia trên thế giới nhằm nhiều mục đích khác nhau phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới khi bảo
hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian đều nhằm một số những mục đích và ý nghĩa
cơ bản.

Thứ nhất, Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm duy trì những giá
trị mà nó mang lại: Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian chứa đựng nhiều giá trị to lớn
đối với con người: giá trị giáo dục, giá trị nhận thức và giá trị thẩm mĩ. Tác phẩm văn
học dân gian là một kho kiến thức đồ sộ của các dân tộc trên thế giới, nhìn vào một tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian ta dễ dàng nhận thấy lối suy nghĩ, nét văn hóa của
dân tộc đó đồng thời một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian còn có tác dụng giáo
dục sâu sắc, hình thành tinh thần lạc quan, nhiều phẩm chất tốt đẹp như 4han yêu nước,
tình yêu thiên nhiên, 4han vị tha… Với những giá trị quý báu như thế nên tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian cần được bảo hộ. Bên cạnh đó bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian nhằm duy trì những nét đẹp truyền thống và tinh hoa của các dân tộc trên
thế giới.
Thứ hai, Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nhằm bảo đảm sự phát
triển một cách lành mạnh của quần chúng. Vì tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
mang tính chất truyền miệng và dị bản, do đó phải bảo đảm chúng phát triển đúng và duy
trì được nét đẹp văn hóa mà chúng mang theo. Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian để giúp việc phát triển các tác phẩm này một cách toàn vẹn, sao cho các hành động
khai thác, chuyển thể các tác phẩm văn học dân gian không làm ảnh hưởng, phương hại
tới nét đẹp, bản sắc văn hóa mà nó mang theo, nhưng cũng không được kìm hãm sự 4han
tạo của bản 4han những người phát triển chúng.
Thứ ba,bảo hộ tác phẩm văn học để ngăn chặn các hành vi xâm phạm tới chúng.
Ngày nay trước sức mạnh của toàn cầu hóa, sự phát triển kinh tế ảnh hưởng không nhỏ
tới sự tồn tại của các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian do đó cần có một cơ chế để
bảo vệ chúng, tránh bị làm phương hại và mai một dưới những luồng ảnh hưởng của kinh

4


tế thị trường. Đồng thời thể hiện được sự quan tâm của chính quyền tới đời sống xã hội,
đời sống văn hoá của người dân, góp phần ổn định trật tự xã hội.
Thứ tư, bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là cách để giữ gìn tu bổ và

phát triển chúng. Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian sẽ đề ra việc cấp
phép sử dụng, số tiền thu được từ việc cấp phép đó sẽ góp một phần vào việc tu bổ, phát
triển tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Bảo hộ tác phẩm văn học dân gian sẽ tạo ra
lợi ích cho cộng đồng lưu giữ chúng, khi có ai muốn khai thác một tác phẩm văn học
dân gian thì đồng nghĩa với việc họ phải bỏ ra một khoản phí để sử dụng chúng góp
phần vào sự duy trì sự tồn tại của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian nói riêng và văn
hóa truyền thống nói chung.
II. Một số hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
1.Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Với một tác phẩm để xác định được phạm vi quyền được bảo hộ cũng như việc thực
hiện chúng, cần xác định đúng ai là chủ hữuquyền tác giả. Tác phẩm văn học dân gian
cũng vậy. Với đặc trưng là sáng tạo của cộng đồng, việc xác định chủ sở hữu với tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian là điều không dễ dàng. Luật sở hữu trí tuệ 2005 cũng
chưa xác định được vấn đề này.
Chúng ta khó mà áp đặt được một cá nhân hay tổ chức nào là chủ sở hữu quyền tác
giả của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, bởi lẽ nó là sáng tạo của cả cộng đồng.
hãy Cùng phân tích các quy định của luật sở hữu trí tuệ ghi nhận về chủ sở hữu quyền tác
giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian:
Điều 23 trực tiếp điều chỉnh quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian nhưng lại chưa nói cụ thể ai là chủ sở hữu của quyền này. Trong phần khái niệm tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian mà điều luật đưa ra, có đưa ra một số khái niệm như:
“cá nhân”, “nhóm cá nhân”, nhưng đối tượng này không thể là chủ thể của quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 13 luật đề
cập chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học nói chung
là “cá nhân’, “tổ chức” những người trực tiếp sáng tạo hay là chủ sở hữu quyền tác giả
đối với tác phẩm.tuy nhiên, ngay trong khái niệm tại điều 23 cũng nói họ sáng tạo ra trên
cơ sở truyền thống và phản ánh khát vọng của cộng đồng. những đối tượng này, đứng
riêng lẻ, không là tác giả trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, nên
không thể là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.


5


Ngoài ra luật còn ghi nhận nhà nước là chủ thể thứ 3 có quyền sở hữu quyền tác giả
với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Song điều 42 luật nêu ra 3 loại tác phẩm mà
nhà nước có quyền sở hữu quyền tác giả nhưng không hề có tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian. Có ý kiến cho rằng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là loại hình tác phẩm
khuyết danh, do vậy nhà nước nắm quyền sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, như đặc điểm
của loại hình tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là sản phẩm của cộng đồng, tuy
không nói cụ thể là ai, cá nhân hay tổ chức nào, nhưng luôn biết nó là thuộc cộng đồng
nào, vùng miền nào. Hơn nữa nếu bảo hộ tác phẩm văn học dân gian như một tác phẩm
khuyết danh thì nó chỉ được bảo hộ trong vòng 50 năm, điều này cũng không phù hợp
với đặc trưng của loại hình tác phẩm này, nó luôn được sáng tạo, làm mới, tiếp tục bổ
sung bởi cộng đồng. Hơn nữa, đây cũng không thuộc loại tác phẩm thuộc về công chúng
theo điều 43 luật sở hữu trí tuệ bởi lẽ không xác định được thời hạn bảo hộ của tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian, và vì thế không xác định được khi nào hết thời hạn bảo hộ,
nên đây không thể là loại hình tác phẩm thuộc về công chúng. (2)
Do vậy nên xếp tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian vào loại hình tác phẩm có
cộng đồng là chủ sở hữu quyền tác giả, có thể hiểu cộng đồng là người, tổ chức đã sáng
tạo ra hoặc là toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam. Hiểu theo nghĩa thứ nhất là phù hợp
về mặt lý luận bởi chính cộng đồng cụ thể sáng tạo ra một tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian đã đem lại linh hồn, sức sống cho tác phẩm và truyền đạt ý tưởng suy nghĩ cho
người thưởng thức.tuy nhiên với thực tế ngày nay, việc để một cộng đồng là chủ sở hữu
quyền tác giả sẽ gây khó khăn cho việc quản lí và thực hiện quyền tác giả. Với ý nghĩa
đó, cộng đồng đã sáng tạo ra cần phải được hưởng quyển của của người sáng tạo ra, hay
nói cách khác là quyền về nguồn gốc của tác phầm. Để cả cộng đồng dân tộc Việt Nam
là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian sẽ phù hợp
hơn với thực tiễn của việc thực thi quyền, tuy nhiên cũng cần có những biện pháp cụ thể
để cộng đồng thực thi quyền này. Với lịch sử hàng nghìn năm văn hiến với một nền văn

hóa lâu đời đậm đà bản sắc dân tộc, Việt Nam có rất nhiều những cộng đồng dân tộc và
dân cư có những tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian mang bản sắc của riêng mình. Để
thực hiện những quyền tài sản liên quan tới mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian,
mỗi cộng đồng sở hữu phải lập nên môt tổ chức có tư cách đứng chủ sở hữu. Bởi lẽ, sẽ
có quá nhiều những cộng đồng và tổ chức như thế nên sự phức tạp của các thủ tục hành
chính cũng như mục đích thu và chi các phí liên quan đến quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian sẽ làm cho việc các cộng đồng sáng tạo ra tác phẩm

6


văn học nghệ thuật dân gian tự thực thi những quyền tài sản đối với tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian trở nên không có ý nghĩa.
Từ những lập luận này, để thực thi quyền tài sản liên quan tới tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian, cần phải xác định toàn thể cộng đồng cũng là chủ sở hữu của các tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Qua toàn thể cộng đồng, Nhà nước mà trực tiếp là
một cơ quan nhà nước được trao thẩm quyền, sẽ thay mặt thực hiện các quyền tài sản
liên quan đến tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Cơ chế này, ngoài việc giải quyết
được các mâu thuẫn trên đây còn rất phù hợp trong việc thực thi các quyền tài sản khi tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian Việt Nam được nước ngoài sử dụng. tuy nhiên không
phải tất cả mọi thành viên của cộng đồng đều có quyền sử dụng bất cứ một hay tất cả vốn
văn học nghệ thuật dân gian của cộng đồng mình. Pháp luật cần quy định cụ thể một số
đối tượng có quyền quản lí và bảo tồn giá trị văn hóa của cộng đồng mình. Trước hết là
những người có tài năng nổi bật hơn những thành viên khác, có khả năng trình diễn vốn
văn hóa ấy thành thạo nhất với kĩ năng cao nhất, có khả năng sáng tạo bổ sung làm giàu
cho vốn ấy và cũng có thể như người thầy truyền dạy vốn văn hóa đó cho các thế hệ sau.
Thứ hai, bên cạnh các nghệ nhân, người “truyền lửa” là những người trẻ tuổi, yêu mến
vốn văn học nghệ thuật dân gian của cộng đồng, họ là những người “tiếp lửa”, nhận
truyền dạy và thực hành biểu đạt, và sáng tạo bổ sung làm phong phú cho vốn văn học
nghệ thuật dân gian của cộng đồng. do đó các nghệ nhân và những người trẻ tuổi thực

hành, họ có tư cách đại diện cho cộng đồng mình trong việc bảo vệ, giữ gìn và đại diện
sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian của cộng đồng. (3)
Ngoài ra, trong xã hội ngày nay không ít những cá nhân, nhóm cá nhân có lòng đam
mê tìm hiểu văn học nghệ thuật dân gian, họ sưu tầm, nghiên cứu, gìn giữ những tác
phẩm, vốn quý của văn học nghệ thuật dân gian, học cũng cần được coi là chủ sở hữu với
các tư liệu, tài liệu mà họ sưu tầm được.
1.
Mục đích bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Mục đích của việc bảo hộ quyền tác giả đối với một tác phẩm văn học nghệ thuật
thông thường, ngoài việc công nhận về nguồn gốc sáng tạo ra tác phẩm còn là sự bù đắp
xứng đáng cho tác giả và người sở hữu quyền tác giả vì những công sức sáng tạo họ đã
bỏ ra.
Tác giả của các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là những cộng đồng dân cư
theo sắc tộc hay địa lí, Đó không phải là cá nhân hay tổ chức nào cụ thể. Vì thế sẽ không
phù hợp nếu như xác định cần phải bù đắp về vật chất công sức sáng tạo cho tác giả như
đối với một tác phẩm thông thường. theo khoản 2 điều 20 nghị định 100/2006/NĐ-CP
quy định chi tiêt: “Sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian quy định tại khoản 2
7


Điều 23 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc nghiên cứu sưu tầm, giới thiệu giá trị đích thực
của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian” điều này đã khái quát về mục đích sử dụng
tác phẩm văn học nghệ thuật dân giantuy nhiên chưa xác định rõ rang mục đích của bảo
hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là gi? Mục đích cao nhất
của việc bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đó phải
là làm sao bảo tồn và phát huy tối đa những giá trị truyền thống trong các tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian, đồng thời phát hiện và bảo tồn những tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian hiện còn đang thất truyền trong dân gian.
Với mục đích cao nhất này, khái niệm về “bảo hộ” đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian cần phải được nhìn nhận khác với “bảo hộ” tác phẩm văn học, nghệ thuât,

khoa học thông thường. Bảo hộ không có nghĩa là độc quyền sử dụng và cho phép sử
dụng tác phẩm của tác giả như đối với các tác phẩm thông thường. bảo hộ Tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian là khi mọi người dân Việt Nam – dân gian – đều được tiếp cận
một cách dễ dàng nhất tới nó, sử dụng, duy trì nó, làm mới nó để tiếp tục phản ánh được
giá trị văn hóa của cả cộng đồng qua sự phát triển của nó.
Mục đích bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian này, và đặc điểm chủ sở
hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian, đã làm cho việc cấp
phép sử dụng theo cách bảo hộ quyền tác giả thông thường, trở thành không cần thiết khi
một người dân Việt Nam nào đó muốn tiếp cận và sử dụng một tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian. Tuy vậy những hành vi sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đi
ngược lại giá trị văn học, dân gian cần phải bị cấm. Đồng thời việc không cần phải cấp
phép không loại trừ khả năng người sử dụng phải thực hiện một số nghĩa vụ tài chính
nhất định. Còn đối với những người sử dụng là người nước ngoài, việc bảo hộ tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian như một tác phẩm văn học, nghệ thuật thông thường là điều
cần thiết bởi lẽ họ không phải là công dân Việt Nam. Khi sử dụng tác phẩm văn học
nghệ thuật dân gian vì mục đích lợi nhuận, họ cần xác lập với Nhà nước Việt Nam, đại
diện chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian Việt Nam,
một mối quan hệ tương tự như với một số chủ sở hữu quyền tác giả đối với những tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học thông thường khác.
2.
Phạm vi bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian
Khoản 2 Điều 23 “tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân
gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm giữ gìn giá trị đích
thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.”

8


Ngoài ra nghị định 100/2006/NĐ-Cp có quy định chi tiết về việc sử dingj tác phẩm

văn học nghệ thuật dân gian: “Điều 20. Sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian:
3. Người sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian quy định tại khoản 2 Điều
này phải thoả thuận về việc trả thù lao cho người lưu giữ tác phẩm văn học, nghệ thuật
dân gian và được hưởng quyền tác giả đối với phần nghiên cứu sưu tầm, giới thiệu của
mình.
4. Dẫn chiếu xuất xứ loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian quy định tại
khoản 2 Điều 23 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc chỉ ra địa danh của cộng đồng cư dân nơi
tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được hình thành.”
Như vậy, luật chỉ quy định về quyền nhân thân của quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học nghệ thuật dân gian. Quyền này chỉ tương ứng với một trong số 4 loại quyền
nhân thân dành cho chủ sở hữu quyền tác giả một tác phẩm thông thường, được quy định
tại khoản 2 Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005. Chính xuất phát từ Điều 23 này mà
cũng có những ý kiến cho rằng luật chỉ yêu cầu nghĩa vụ tinh thần và việc thu tiền bản
quyền là không cần thiết.
Phạm vi bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian cần
phải được xem xét toàn diện hơn thế. Các quyền nhân thân, vật chất và cả các quyền
khác nếu cần đều phải được xác lập phù hợp với mục đích bảo hộ và đặc điểm của tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Phạm vi các quyền cũng như chủ thể thụ hưởng hoặc
thực hiện quyền cần phải được xác lập một cách rõ ràng.
Đối với quyền nhân thân: dẫn chiếu xuất xứ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
là yêu cầu quan trọng hàng đầu hàng đầu khi sử dụng tác phẩm. Quyền này đã được
khoản 2 Điều 23 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định Nó tương tự như quyền “đứng
tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm
được công bố, sử dụng”được Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 bảo hộ đối với quyền tác giả
thông thường. Quyền này thể hiện vai trò chủ sở hữu của chính bản thân cộng đồng đã
sáng tạo ra tác phẩm. Họ phải có quyền xác nhận là nguồn gốc của tác phẩm mỗi khi tác
phẩm được sử dụng hoặc dẫn chiếu.
Một quyền nhân thân nữa cũng cần được bảo hộ đối với tác phẩm văn học nghệ
thuật dân gian là quyền tương tự như quyền “bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không
cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình thức nào

gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả” được quy định cho quyền tác giả
thông thường. Các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian cần phải được bảo hộ sự toàn
vẹn trong giá trị văn học, nghệ thuật dân gian mà nó chứa đựng. Quyền nhân thân này
9


thuộc về cả cộng đồng nghĩa hẹp và cộng đồng nghĩa rộng, tức là toàn bộ công chúng.
Hơn nữa nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian có sức ảnh hưởng và nổi tiếng ra
cả nước ngoài, Do vậy cũng cần quy định bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
để không làm ảnh hưởng đến cộng đồng sáng tạo ra nó, rộng ra là toàn cộng đồng dân
tộc: “bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc
xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của
quốc gia”. Tuy nhiên, cộng đồng nghĩa rộng, thông qua Nhà nước, sẽ là người thực thi
quyền này bằng những luật lệ cho mình đặt ra. (4)
Đối với quyền tài sản,cần phải đặt ra việc thu phí khi sử dụng tác phẩm. bởi lẽ
những tác phẩm với giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc và mang cả tâm hồn dân tộc thì
hoàn toàn chưa được quan tâm. Sự không công bằng còn thể hiện ở khía cạnh nữa là việc
làm tác phẩm phái sinh, tác phẩm chuyển thể, ... thì sau khi có tác phẩm thì người
chuyển thể hay người làm tắc phẩm phái sinh đều có quyền hưởng lợi ích khi có ngưởi
khác sử dụng những tác phẩm đó. Vậy có phải chúng ta đã bảo vệ một cái lợi ích khác
mà thật sự giá trị sáng tạo không có nhiều, họ chỉ dựa trên trí tuệ của người khác để tạo
ra một lợi ích mà thực ra họ không có sự sáng tạo nhiều ở trên thực thế trong khi những
tác phẩm VHNTDG luôn mang trong nó một sự sáng tạo nghệ thuật to lớn, một giá trị
dân tộc sâu sắc, một nét văn hóa đặc trưng lại không có một sự bảo hộ nào cho nó. Thu
phí sử dụng ngoài lợi ích có thêm nguồn vốn để hoàn thiện hay phát huy thêm nhiều tác
phẩm văn hóa dân gian, có vốn để quảng cáo hình ảnh văn hóa, những nét đặc sắc, tinh
hoa dân tộc ra bạn bè thế giới ...hơn nữa khi có cơ chế bảo hộ tốt thì có thể ngăn chặn
được sự xâm phạm về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa dân gian, nhất là khi sự
thương mại hóa toàn cầu phát triển nhanh chóng, sự xâm phạm về sở hữu trí tuệ của các
tổ chức, cá nhân người nước ngoài dựa vào những nét văn hóa của những nước khác đem

vào khai thác lợi ích thương mại, thông qua việc khai thác đó nó sẽ làm giá trị truyền
thống suy giảm.
Tuy nhiên, phí này không phải để nhằm bù đắp lại công sức sáng tạo ra tác phẩm
mà phải được dùng để bảo tồn và phát huy các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian
trong khung cảnh lớn hơn là toàn bộ di sản văn hóa nghệ thuật dân gian của các dân tộc
Việt Nam. Vì thế có thể thấy mức phí trên, chỉ như “lệ phí” điều kiện cho việc sử dụng
các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian ở trong nước. Không nên xác lập quyền độc
quyền cho phép sử dụng hay không sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian tương
tự như quyền độc quyền của chủ sở hữu một tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
thông thường. Một mặt mức phí này không thể được xác định trên cơ sở thỏa thuận giữa
10


người chủ sở hữu quyền và người sử dụng như đối với một tác phẩm thông thường; mặt
khác, nó cũng không được quá cao để mọi người dân Việt Nam cảm thấy phải đắn đo khi
sử dụng chính các tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian của mình. Đối với người sử
dụng là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài vì mục đích thương mại, mức phí có thể
khác và mang tính thương mại nhiều hơn ở mức độ nào đó. Quyền thu phí này do Nhà
nước, thông qua một cơ quan có thẩm quyền, là người đại diện cho chủ sở hữu là cộng
đồng theo nghĩa rộng, thực hiện. Từ nguồn thu này, Nhà nước cần phải lập một quỹ để
chi tiêu những khoản thu đó vào mục đích duy nhất là khuyến khích bảo tồn và phát huy
văn hóa, nghệ thuật dân gian của Việt Nam.
3.
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian
Pháp luật về sở hữu quyền tác giả không có quy định về thời hạn bảo hộ đối với tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian và xác định tác giả của tác phẩm này cũng rất khó
khăn bởi tính chất cộng đồng của nó. Hơn nữa, nếu bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật
dân gian như một tác phẩm khuyết danh thì nó chỉ được bảo hộ trong vòng 50 năm, kể từ
khi tác phẩm được công bố, điều này không phù hợp với đặc điểm của tác phẩm văn học

nghệ thuật dân gian, luôn được làm mới, bổ sung và phát triển qua từng thời kì.vì vậy
cần xác định thời hạn bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là vô thời hạn. (5)
4.
Bảo vệ quyền tác giả với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Luật sở hữu trí tuệ chưa quy định cụ thể về các hình thức để bảo vệ quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian khi có hành vi vi phạm. Đối với loại hình
VHNTDG đặc biệt nên cần phải có cơ chế bảo hộ đặc biệt riêng không giống như loại
hình cụ thể khác. Vậy nên cần phải đăt ra những quy tắc chung, đảm bảo được tính
nguyên gốc, toàn vẹn, vừa phát huy được sự tự do sáng tạo phát triển trong cộng đồng.
Vấn đề được đề cập trước hết là tính toàn vẹn, giá trị đích thực của sản phẩm VHNTDG
luôn được bảo đảm, nghiêm cấm việc cắt xén xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến giá
trị đích thực của tác phẩm trong mọi trường hợp dưới mọi hình thức thể hiện. Những
hành vi đó đều là hành vi gây phương hại? Theo WIPO có 2 loại hành vi chủ yếu mà các
hình thức thể hiện dân gian cần được bao hộ chống lại chúng: khai thác bất hợp
pháp và các hành vi gây tốn hại khác.
Khai thác bất hợp pháp: là bất kỳ việc sử dụng nào được thực hiện nhằm mục đích
thu lợi, ngoài phạm vi truyền thống hay tập quán và không được sự đồng ý của cơ quan
có thẩm quyền hoặc cộng đồng liên quan tới nó. Nghĩa là, việc sử dụng - kể cả nhằm

11


mục đích thu lợi - trong phạm vi truyền thống hoặc tập quán thì cũng không phải là đối
tượng được phép.
Các hành vi gây tổn hại khác, có hại cho các lợi ích liên quan tới việc sử dụng các
hình thức thể hiện dân gian, và tùy theo mức độ lỗi và hậu quả thiệt hại mà bị chế tài
hành chính hay hình sự.
Tuy nhiên cũng cần xác định thế nào là hành vi hợp pháp. Sử dụng được phép: Quy
định này cho phép bất kỳ thành viên nào trong cộng đồng được tự do nhân bản hoặc trình
diễn các hình thức thể hiện dân gian của cộng đồng mình trong phạm vi truyền thống và

tập quán của họ, bất kể họ làm việc đó nhằm hoặc không nhằm mục đích thu lợi, thậm
chí được thực hiện bằng phương tiện công nghệ hiện đại nếu công nghệ đó được cộng
đồng chấp nhận như một trong các phương tiện dẫn tới sự phát triển của nền văn hóa dân
gian sống động của họ.
Ngoài ra, cần phải loại trừ các trường hợp ngọai lệ đặc biệt mà không cần xin phép,
kể cả khi việc khai thác hình thức thể hiện dân gian được thực hiện để lấy tiền và ngoài
phạm vi truyền thống hay tập quán. Các trường hợp ngoại lệ đó là:
- Sử dụng hoặc khai thác nhằm mục đích giáo dục, nghiên cứu.
- Sử dụng bằng cách minh họa, dẫn chiếu trong bất kỳ tác phẩm gốc nào của một tác
giả, với điều kiện việc sử dụng đó thích hợp với thực tiễn hợp lý.
- Khi hình thức thể hiện dân gian được "vay mượn" để sáng tạo nên tác phẩm gốc
của một tác giả. Điều này cho phép phát triển tự do khả năng sáng tạo cá nhân lấy cảm
hứng từ dân gian.
- "Sử dụng ngẫu nhiên", đặc biệt bao gồm việc sử dụng để làm báo cáo về các sự
kiện hiện tại và sử dụng các hình ảnh nơi hình thức thể hiện dân gian được đặt cố định tại
một địa điểm công cộng.
Như một nguyên tắc, Việc không tuân thủ yêu cầu chỉ dẫn về nguồn sẽ bị xử phạt.
Việc sử dụng không xin phép đối với các hình thức thể hiện dân gian khi việc xin phép là
bắt buộc cũng cấu thành hành vi xâm phạm. Việc sử dụng nhằm mục đích công "làm
méo mó" hình thức thể hiện dân gian, với bất kỳ cách thức trực tiếp hay gián tiếp nào
gây tổn hại tới các lợi ích văn hoá của "cộng đồng liên quan", đều là hành vi xâm
phạm…vì vậy cần có một cơ quan nhà nước đứng ra bảo vệ quyền tác giả đối với các tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian. Sau đây là một số ý kiến:
Việc cấp phép sử dụng và cơ chế giám sát:
Một vấn đề được đặt ra là ai có thẩm quyền cấp? Theo quy định của WIPO thì đưa
ra hai chủ thể đó là "cơ quan có thẩm quyền" và "cộng đồng có liên quan".. Cộng đồng
12


cấp phép cho người sử dụng theo cách tương tự như các tác giả cấp phép. Ở các nước

khác, nơi di sản VHNTDG của cộng đồng về cơ bản được xem như một phần của di sản
văn hóa dân tộc, hoặc nơi mà các cộng đồng liên quan không thể tự quản lý một cách có
hiệu quả việc sử dụng các hình thức thể hiện dân gian của mình, thì "các cơ quan có
thẩm quyền" có thể được chỉ định để tiến hành cấp phép dưới hình thức các quyết định
theo luật công. Ở Việt Nam di sản VHNTDG được xem là nột tài sản quốc gia, là một
phần của di sản văn hóa dân tộc được thể hiện rất phong phú và đa dạng trải rộng trên
khắp 54 dân tộc thế nhưng gần như chưa có cơ quan nào đươc thành lập để thực hiện
việc này.
Vì vậy cần phải có một cơ quan nhà nước đủ lớn, đủ mạnh đủ khả năng đứng ra tổ
chức thực hiện và chịu trách nhiệm về vấn đề này. Cơ quan này phải có sự phối hợp chặt
chẽ với "cộng đồng có liên quan" được tổ chức thành hệ thống từ Trumg Ương đến cơ sở
(có thể tương ứng với đơn vị hành chính từ cấp bộ đến thôn bản) chịu trách nhiệm hệ
thống hóa di sản VHDG, rà soát, kiểm tra giám sát, cấp phép sử dụng và thu phí. Vì "một
tác giả hoặc cộng đồng không thể tự mình biết được mọi chuyện đang diễn ra trên cả
nước, còn nếu đem ra kiện tụng thì rất tốn kém". Cơ quan giám sát có thẩm quyền có thể
là Bộ Văn hóa.
Khi không có cơ quan thẩm quyền được chỉ định và cả hai việc cấp phép và thu lệ
phí đều được thực hiện bởi cộng đồng, thì đương nhiên, việc sử dụng lệ phí thu được
phải được quyết định bởi cộng đồng. Nhà nước cần đảm bảo có sự chia sẻ lợi nhuận
bằng cách đánh thuế hoặc đưa ra các biện pháp thích hợp khác.

13


KẾT LUẬN
Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các giá trị truyền thống không chỉ là việc
ghi nhận các quyền được bảo hộ, công nhận những thành quả trí tuệ của người sáng tạo
mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội trong việc tiếp cận những thành quả sáng tạo, là
cơ sở thúc đẩy hoạt động tái đầu tư cho nghiên cứu, triển khai trong mọi lĩnh vực khoa
học kỹ thuật, văn học và nghệ thuật của cả cộng đồng và tạo lập môi trường kinh doanh,

canh tranh lành mạnh, trung thực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.Chính vì thế, pháp luật
cần phải đặt ra một hệ thống hành lang pháp lý đủ an toàn để bảo tồn duy trì được nền di
sản VHNTDG nói riêng và xa hơn nữa là cả nền tri thức truyền thống dân tộc nói chung,
nhưng đồng thời nó không phải là rào cản cho sự sáng tạo phát triển được lấy cảm hửng
từ nền di sản VHNTDG bất tận, cho sự truyền bá lan tỏa,và đồng thời đảm bảo sự chia sẽ
hài hòa lợi ích từ đó mang lại./.

14


15



×