Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách và thực tế áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.75 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………2
NỘI DUNG:
I.
Khái quát chung về ngân sách nhà nước – cân đối ngân sách
nhà nước:
1. Khái niệm và đặc điểm của ngân sách nhà nước………………..2
2. Một số vấn đề chung về cân đối ngân sách nhà nước :
a. Khái niệm và đặc điểm.....................................................................3
b. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước: .........................................4
II.
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật ngân sách nhà nước :
1. Nội dung của nguyên tắc cân đối trong trong hoạt động ngân
sách nhà nước theo Luật ngân sách nhà nước........................................6
2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối với hoạt động ngân sách
nhà nước....................................................................................................9
3. Ý nghĩa của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước theo Luật ngân sách nhà nước......................................................10
III. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước ở Việt Nam – Một số phương hướng hoàn thiện :
1.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước ở Việt Nam :
a. Những thành tựu đạt được..............................................................11
b. Một số khó khăn mắc phải.............................................................13
2.
Một số phương hướng hoàn thiện nhằm phát huy vai trò của
nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt
Nam……………………………………………………………………..15
KẾT BÀI……………………………………………………………16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


MỞ BÀI
Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính tất yếu để Nhà nước điều
phối toàn xã hội, giải quyết nhưng vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại
sự công bằng cho người dân… Nhưng để đảm bảo tốt vai trò trên thì ngân
sách phải được cân đối. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là
một vấn đề quan trọng được đặt ra đối với mỗi nhà nước, nó đảm bảo cho
nhà nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Cho nên, để tiếp
tục phát huy được vai trò của mình thì nhà nước phải không ngừng hoàn
thiện và đổi mới nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách với ý
nghĩa giúp cho nhà nước kiểm soát tốt nền kinh tế tài chính của đất nước.
Với lý do như vậy, em xin được chọn đề tài “Tìm hiểu về nguyên tắc cân
đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách và thực tế
áp dụng”. Vì đây cũng là một đề tài rộng, với kiến thức còn hạn chế nên
bài tiểu luận của em cũng không tránh khỏi những sai sót. Em kính mong
các thầy, cô xem xét và đóng góp ý kiến cho bài luận của em được tốt
hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I.
Khái quát chung về ngân sách nhà nước – cân đối ngân sách
nhà nước:
1.
Khái niệm và đặc điểm của ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát, vừa liên
quan đến lĩnh vực kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý nhà nước. Vì

vậy, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về định nghĩa ngân sách nhà
nước, nhưng thể hiện rõ nhất và đầy đủ nhất về bản chất của ngân sách
nhà nước lại là định nghĩa trên hai phương diện kinh tế và pháp lý.
• Về phương diện kinh tế: xét từ góc độ này ngân sách nhà nước
được hiểu là bản dự toán các khoản thu và chi tiền tệ của một quốc gia,
được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước quyết định để thực hiện trong
thời hạn nhất định, thường là một năm. Định nghĩa này có hai yếu tố:
Một là, ngân sách nhà nước là bản dự toán thu và chi tiền tệ của quốc
gia. Do đó, phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện cho toàn thể
nhân dân trong quốc gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi
hành trên thực tế để đảm bảo cho việc thu, chi ngân sách có hiệu quả và
phù hợp với người dân. Ngoài ra, Quốc hội còn là người giám sát chính
phủ trong quá trình thi hành ngân sách và có quyền phê chuẩn bảng quyết
toán ngân sách hàng năm do chính phủ đệ trình khi năm ngân sách kết
thúc.
Hai là, ngân sách nhà nước có hiệu lực trong vòng một năm, tức là
việc dự toán thu, chi đã được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách
đó tính từ ngày 01/01 đến ngày 31/12 hàng năm. Đây là khoảng thời gian
mà pháp luật quy định nhằm giới hạn rõ việc thực hiện dự toán ngân sách
nhà nước. Khoảng thời gian này có thể trùng hoặc không trùng với năm
2


dương lịch tùy theo tập quán của mỗi nước. Việc quy định rõ thời gian
này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân sách nhà nước,
tránh sự tùy tiện, độc đoán của nhà nước trong việc thu nộp và chi tiêu
ngân sách.
• Về phương diện pháp lý:
Trong pháp luật thực định Việt Nam, khái niệm ngân sách nhà nước
được đề cập tại Điều 1 Luật ngân sách nhà nước năm 2002, theo đó

“Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước”. Với quy định này, chúng ta thấy rằng ngân sách nhà nước chính là
một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành, dự toán về các khoản thu,
chi thực hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh đó đây còn là
công cụ tài chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết các hoạt
động kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngân sách nhà nước bao gồm những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khổng lồ nhất
cần được Quốc hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành. Đặc điểm
này cho ta thấy việc thiết lập ngân sách nhà nước không chỉ là vấn đề kỹ
thuật nghiệp vụ kinh tế (lập dự toán các khoản thu và chi định thực hiện
trong một năm) mà còn là vấn đề mang tính kỹ thuật pháp lý (nghĩa là
phải trải qua giai đoạn xem xét, biểu quyết thông qua tại quốc hội giống
như việc ban hành một đạo luật để làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
pháp lý nhất định cho các chủ thể tham gia vào hoạt động ngân sách).
Thứ hai, ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính
thuần túy mà còn là một đạo luật..
Thứ ba, ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc
gia, được trao cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự
giám sát của quốc hội.
Thứ tư, ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì
mục tiêu mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt
người thụ hưởng cách lợi ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế nào hay
đẳng cấp xã hội nào.
Thứ năm, ngân sách nhà nước luôn phản ánh mối tương quan giữa
quyền lập pháp và quyền hành pháp trong quá trình xây dựng và thực
hiện ngân sách.
2.

Một số vấn đề chung về cân đối ngân sách nhà nước:
a, Khái niệm và đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia
trong đó dự trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên
thực tế, quá trình thu, chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến
đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự vận động của nền kinh tế quốc
gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu
3


trong năm đó hoặc có khi mức thu lại vượt xa những khoản chi. Do vậy,
các khoản chi tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được tính toán chính
xác và phù hợp với thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước trong
trạng thái cân bằng, ổn định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan
trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối, hai vấn đề này
lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có phát
triển thì Nhà nước mới huy động được nguồn thu vào ngân sách nhà nước
còn kinh tế không ổn định, kém phát triển thì nguồn thu vào ngân sách
nhà nước giảm và còn phải chi nhiều để hổ trợ. Điều đó dễ dẫn đến ngân
sách nhà nước bị mất cân đối.
• Xét về bản chất: cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước là cân
đối giữa các nguồn thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân
sách nhà nước trong một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa
mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó.
• Xét về góc độ tổng thể: cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước phản ánh mối tương quan giữa hoạt động thu và hoạt động chi trong
một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà
còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các
khoản chi của ngân sách nhà nước do các cơ quan có thẩm quyền thực
hiện;

• Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước: cân đối trong
hoạt động ngân sách nhà nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao
nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung ương và địa phương và giữa
các địa phương với nhau để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.
Tựu trung lại ta có thể hiểu: “Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước là một bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự
điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa hoạt động thu và hoạt động chi
ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội mà Nhà
nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể”.
Từ những quan niệm về cân đối ngân sách nhà nước, có thể rút ra một
số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác
giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được
các mục tiêu đã đề ra. Nó vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội
của Nhà nước, vừa bị ảnh hưởng bởi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Cân đối
ngân sách nhà nước không phải là để thu chi cân đối hoặc chỉ là cân đối
đơn thuần về mặt lượng, mà cân đối ngân sách nhà nước nhằm thực hiện
các mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội của Nhà nước đồng thời các chỉ
tiêu này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, việc tính thu, chi không phản ánh một cách thụ động các chỉ
tiêu kinh tế - xã hội, bằng khả năng quản lý hoặc phân bổ nguồn lực có
hiệu quả.

4


Thứ hai, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng
chi, giữa các khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển
giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng
thời kiểm soát được tình trạng ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng

bội chi ngân sách nhà nước. Cân bằng thu chi ngân sách nhà nước chỉ là
tương đối chứ không thể đạt mức tuyệt đối được vì hoạt động kinh tế luôn
ở trạng thái biến động nên Nhà nước phải điều chỉnh hoạt động thu, chi
cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo
sự ổn định kinh tế - xã hội giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách
không cân bằng mà rơi vào tình trạng bội chi thì chỉ cần đưa ra những
giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân sách nhà nước.
Thứ ba, cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên
liệu. Trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác
định con số thu, chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong
nước, chi tiết hóa từng khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và
quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động thu, chi, từ đó để làm cơ sở
phân bổ và chuyển giao quyền lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân
sách nhà nước phải dự toán được các khoản thu, chi ngân sách một cách
tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
b, Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước:
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước
can thiệp vào hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước, cân đối ngân sách
có vai trò trong nền kinh tế thị trường như sau:
• Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà
nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước qua chính sách thuế, chính
sách chi tiêu hằng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác
động đến hoạt động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó
góp phần ổn định việc thực hiện các mục tiêu của chính sách vĩ mô như:
tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thấp
nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự đoán được…
• Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực
tài chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự
toán Nhà nước đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân
sách và sự gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với

công tác lập kế hoạch ngân sách. Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu
cân đối ngân sách nhà nước phân định nguồn thu một cách hợp lý giữa
trung ương và địa phương với nhau thì sẽ đảm bảo thực hiện được các
mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra.
• Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo cân bằng xã hội,
giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một
vùng lại có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy cân đối ngân sách
nhà nước sẽ đảm bảo được công bằng, giảm thiểu được sự bất bình đẳng
giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy động nguồn lực
5


từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển để hỗ
trợ, giúp đỡ những người nghèo, người có thu nhập thấp và những vùng
kinh tế kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp
phần phát huy lợi thế của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho
địa phương đó dựa trên tiềm năng có sẵn của địa phương.
II.
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật ngân sách nhà nước:
Nguyên tắc ngân sách cân đối (nguyên tắc ngân sách thăng bằng) cũng
xuất hiện khá sớm trong lịch sử của nền tài chính công ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Theo nhận xét của các nhà tài chính học, sự cân đối của
ngân sách nhà nước là một ý niệm kế toán nhiều hơn là ý nghĩa về
phương diện kinh tế hay pháp lý. Thật vậy, triết lý cổ điển về sự cân đối
của ngân sách nhà nước bắt đầu từ một quan niệm kế toán, theo đó, tất cả
các khoản chi trong tài khoản ngân sách đều phải cân bằng với tất cả các
khỏan thu có trong tài khoản ngân sách (nói cách khác, tổng số thu phải
cân bằng với tổng số chi trong năm ngân sách). Theo quan điểm này, sự
cân đối ngân sách gần như được đảm bảo một cách hoàn hảo vì trên thực

tế tổng số thu và tổng số chi của ngân sách nhà nước bao giờ cũng được
cân bằng ngay từ khi lập kế hoạch dự toán. Sự so sánh giữa tổng thu và
tổng chi ngân sách hằng năm để đánh giá về sự cân đối của ngân sách đó
dường như không được khách quan và chính xác, bởi lẽ trong nhiều
trường hợp những khoản thu có tính chất hoa lợi (ví dụ điển hình là
khoản thu về thuế) lại không đủ để trang trải những khoản chi có tính
chất phí tổn (ví dụ khoản chi về quốc phòng, an ninh hay văn hóa xã hội
và quản lý nhà nước), mặc dù xét về tổng thể thì tổng số thu và tồng số
chi vẫn cân bằng. Đây là một trong những lý do rất chính đáng để các nhà
tài chính học đương đại đưa ra quan điểm mới về sự cân đối của ngân
sách nhà nước, theo đó họ cho rằng sự cân đối ngân sách không hoàn toàn
đồng nghĩa với sự cân bằng giữa tổng thu và tổng chi mà thực chất là sự
cân đối giữa tổng thu hoa lợi (trong đó chủ yếu là thuế) với tổng chi có
tính chất phí tổn. Từ quan điểm này có thể hiểu là, nếu tổng các khoản
thu có tính chất hoa lợi lớn hơn tổng các khoản chi có tính chất phí tổn thì
khi đó ngân sách nhà nước sẽ có thặng dư (bội thu ngân sách); ngược lạu,
nếu tổng các khoản thu có tính chất hoa lợi nhỏ hơn tổng các khoản chi
có tính chất phí tổn thì ngân sách sẽ lâm vào tình trạng thâm hụt (bội chi
ngân sách). Trên thực tế, quan điểm này đã được thừa nhận ở nhiều quốc
gia trên thế giới và đồng thời cũng được ghi nhận trong Luật ngân sách
nhà nước hiện hành ở Việt Nam.
1.
Nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước theo Luật Ngân sách Nhà nước:
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã ghi nhận nguyên tắc cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước tại Điều 8 như sau: “1. Ngân sách
nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí
6



phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng
cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải
nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách; 2.
Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm
nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích
phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến
hạn; 3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số
chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc
phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế
hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng
vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được
phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng
năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy
động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng
năm của ngân sách cấp tỉnh”.
Như vậy, với quy định này thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước bao gồm những nội dung sau đây:
Một là, tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường
xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển,
trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển,
tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối
đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể
hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó, các
khoản thu thường xuyên được sử dụng để trang trải chi thường xuyên và
một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp được sử dụng để chi đầu
tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn vì nó có
thể làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước nhưng phải
đảm bảo được sự cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên,

bởi lẽ giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công
của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt động cần thiết đối với sự phát
triển kinh tế, xã hội của một quốc gia, nó tạo ra những điều kiện cở sở vật
chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo theo sự phát triển
của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất nước, giúp
nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu
tư phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc
cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước.
Hai là, bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong
nước và nước ngoài. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm
bảo nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục
đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi
đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề bội
7


chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nhưng chưa
hẳn bội chi ngân sách nhà nước là biểu hiện của sự yếu kém của nền kinh
tế mà nó còn là một trong các cách thức tạo ra sự cân đối của hoạt động
ngân sách nhà nước trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh tế- xã hội phát
triển và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích
phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn
là rất cần thiết để đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối, tận dụng
được nguồn vốn vay một cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt
động chi không mang tính chất thu hồi vốn và không tạo ra thặng dư, do
đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ được để dành cho mục đích phát triển.
Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có
nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân
sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã

được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng
cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì được phép huy động vốn
không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm
của ngân sách cấp tỉnh.
Ba là, nguyên tắc cân đối này đã tạo cho chính quyền địa phương có
được nhiều ưu thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề
cho phép cấp tỉnh vay nợ là cần thiết, giúp cho chính quyền địa phương
có thể chủ động hơn trong việc tạo ra những điều kiện về cơ sở vật chất
hạ tầng để phát triển kinh tế và đảm bảo các vấn đề xã hội của địa phương
mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại được tính vào thu trong cân đối
ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách tổng thể thì ngân sách địa
phương tôn trọng nguyên tắc phải cân bằng thu, chi theo quy định của
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 song thực chất ngân sách địa
phương có bội chi và khoản bội chi này lại không tính vào trong bội chi
ngân sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong cân đối
ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra, việc quy định tỷ lệ tối đa
chung cho mọi địa phương là 30%( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) là
chưa hợp lý vì mỗi địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên
nhu cầu vay nợ, khả năng quản lý nợ và hoàn trả nợ là khác nhau.
Ngoài những nội dung trên đây thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước cũng phải dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân
sách và quản lý chi tiêu công hiệu quả như:
• Về tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính đó là, để kiểm soát được
các nguồn tài chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối của hoạt động
ngân sách nhà nước phải đánh giá đúng nguồn lực tài chính đó và lựa
chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn lực nhằm đạt được
mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và
chi thường xuyên cần phải được gắn kết với nhau, trong chi tiêu ngân
8



sách nhà nước cần tập trung chi vào những khoản cần thiết, chi tiêu tiết
kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến lược mà chính phủ đề ra.
• Về tính linh hoạt và tính tiên liệu, trong cân đối của hoạt động ngân
sách nhà nước, tính linh hoạt và tính tiên liệu là cần thiết vì nó giúp nhà
quản lý đưa ra cách xử lý và điều phối nguồn lực tài chính một cách hợp
lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã
hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao quyền cho người quản lý
trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính đã thu được từ các
nguồn thu khác nhau mà đất nước có. Tính tiên liệu đóng vai trò quan
trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả. Nội
dung này đòi hỏi nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
phải chú ý đến sự cân đối trong ngắn hạn và dài hạn và phải vận dụng
cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh mất cân đối ngân sách nhà
nước.
• Về tính trung thực, thì khi sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước nên dựa vào những dự toán đã được lập từ thực
tế tình hình kinh tế- xã hội của đất nước mà không có sự thiên vị về vấn
đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Những dự toán quá lạc quan sẽ dễ
đưa đến sự vi phạm tính kỷ luật tài chính và dẫn đến việc không thực hiện
được những chiến lược, chính sách mà Nhà nước đã đề ra do ngân sách
nhà nước không bảo đảm cân đối trong quá trình hoạt động khi chưa đưa
ra những kế hoạch cụ thể.
• Về thông tin, minh bạch và trách nhiệm, đây là vấn đề rất cần thiết
trong cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước. Thông tin tốt sẽ làm
tăng thêm tính trung thực và giúp người quản lý sẽ đưa ra những quyết
định hợp lý. Thông tin chính xác và kịp thời về chi phí, đầu ra và kết quả
đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước đạt hiệu quả nhất định

2.
Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối với hoạt động
ngân sách nhà nước:
Thứ nhất, nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có vai trò thúc
đẩy hoặc có khi lại kiềm chế sự linh hoạt, hiệu quả của hoạt động ngân
sách nhà nước của Việt Nam. Điều này thể hiện, nếu nguyên tắc cân đối
này được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vận dụng một cách linh
hoạt, sáng tạo thì nó có tác dụng làm cho hoạt động ngân sách nhà nước
của Việt Nam luôn vận động phát triển theo chiều hướng tích cực, có
nghĩa là hoạt động thu ngân sách và nhiệm vụ chi ngân sách cho những
mục tiêu phát triển của đất nước do có tác động tích cực từ nguyên tắc
này sẽ luôn ổn định và phát triển, không bị xáo trộn bởi sự tác động của
các yếu tố nào. Ngược lại, nếu cơ quan có thẩm quyền mà áp dụng sai
quy luật, bản chất của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước thì nó thúc đẩy sự xáo trộn, mất cân đối, ổn định của các nguồn thu
và nhiệm vụ chi cụ thể của Việt Nam.
9


Thứ hai, ở trên là sự tác động của nguyên tắc cân đối tới hoạt động
ngân sách nhà nước, do có mối quan hệ mật thiết với nhau cho nên không
chỉ có sự tác động một chiều từ nguyên tắc cân đối mà còn là sự tác động
trở lại của hoạt động ngân sách nhà nước tới nguyên tắc cân đối. Điều
này thể hiện, nếu hoạt động ngân sách nhà nước của Việt Nam được vận
động hợp quy luật, tuân theo quy định của pháp luật và đạt được những
thành tựu nhất định thì tức là hoạt động đó đã chứng minh sự đúng đắn
của nguyên tắc cân đối và nhờ những thành tựu đó nên quá trình này tiếp
tục dung nạp, sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước làm cơ sở cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội
của Việt Nam. Ngược lại, nếu như hoạt động ngân sách nhà nước có sử

dụng nguyên tắc này trong thực hiện các nhiệm vụ tài chính của đất nước
mà không thu được những thành tựu nào mà còn làm ảnh hưởng tiêu cực
đến sự phát triển của đất nước thì nguyên tắc này đã bộc lộ sự hạn chế,
không còn phù hợp với những biến động không ngừng của hoạt động
ngân sách thì sẽ nhanh chóng bị thay đổi bản chất, quy luật bởi chính hoạt
động thu và chi ngân sách này, thay vào đó là một nguyên tắc cân đối với
bản chất và quy luật phù hợp hơn với hoạt động ngân sách nhà nước.
Điều này đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành sửa đổi
bổ sung nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách của nhà nước đảm
bảo cho nguyên tắc này được giữ vững, không bị xáo trộn để tiếp tục làm
cơ sở định hướng cho việc thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách của
Việt Nam.
3.
Ý nghĩa của nguyên tắc cân đối:
Trước hết, nguyên tắc này được ghi nhận trong luật, tức là Nhà nước
đã thấy được tầm quan trọng của nó trong việc làm ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhà nước đưa nguyên tắc này áp dụng vào thực tiễn hoạt động ngân sách
của Việt Nam thông qua các hoạt động thu ngân sách của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và hoạt động nộp thuế của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có nghĩa vụ nộp thuế vì thấy được tác dụng của nó khi góp phần ổn
định việc thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô: tăng
trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp,
lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán được, sở dĩ làm
được điều này là do nguồn ngân sách của nước ta luôn trong trạng thái
cân bằng, nhiệm vụ chi không vượt quá khả năng thu.
Hai là, việc thừa nhận nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước trong luật và áp dụng nó vào thực tiễn cuộc sống còn bởi chúng
ta nhận thấy được rằng nó có ý nghĩa trong việc phân bổ, sử dụng và điều
chỉnh nguồn lực tài chính có hiệu quả. Ý nghĩa này được thể hiện từ việc
lập dự toán nhà nước đã có ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà

nước và sự gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với
công tác lập kế hoạch ngân sách, nhờ ý nghĩa định hướng đó của nguyên

10


tắc này mà Nhà nước ta chủ động thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh
tế- xã hội đã đề ra.
Ba là, “nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn có
ý nghĩa trong việc đảm bảo công bằng xã hội” (iiii), bởi lẽ Nhà nước ta đã
có kế hoạch cụ thể để xây dựng những vùng dân cư đặc biệt khó khăn,
vùng sâu, vùng xa cho nên khi dự toán ngân sách thì các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đã điều chỉnh nhiệm vụ chi để tập trung đầu tư cho
những vùng khó khăn, để những vùng này bước đầu được cân đối trong
mối quan hệ tổng thể với các vùng phát triển khác trong cả nước, Nhà
nước cũng có thể huy động nguồn lực tài chính từ những vùng kinh tế
vững mạnh để chung tay xây dựng những vùng khó khăn mà không cần
hoặc cần ít đến ngân sách nhà nước, những nguồn lực đầu tư cho những
vùng khó khăn sẽ được cân bằng với việc chi cho những công việc quan
trọng khác của đất nước. Cho nên, áp dụng nguyên tắc này khi thực hiện
nhiệm vụ kinh tế- xã hội của đất nước tức là sẽ có công bằng xã hội.
Bốn là, nguyên tắc cân đối này còn góp phần vào việc tạo được nguồn
dự trữ ngân sách nhà nước vì nếu có sự cân đối trong thu và chi tiêu công
thì những nguồn thu nào mà chưa có nhiệm vụ chi cụ thể do các cơ quan
nhà nước đã có kế hoạch sử dụng những nguồn khác để đầu tư cho nhiệm
vụ chi đó, tức là nguồn thu và nhiệm vụ chi nào đó được hài hòa với nhau
thì một phần sẽ được giữ lại trong ngân sách để dự trữ nhằm đáp ứng
những mục tiêu chi phát sinh đột xuất. Chúng ta sẽ không phải hoãn lại
những kế hoạch nào đó để chờ nguồn thu cụ thể mà sẽ thực hiện ngay do
nguồn dữ trữ tài chính sẵn có, điều này giúp những công việc được hoàn

thành nhanh chóng và hiệu quả góp phần làm cho kinh tế - xã hội được
ổn định lâu dài.
Tóm lại, nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề cần thiết
phải được đảm bảo thực hiện của quốc gia, vì nó tác động rất lớn đến sự
phát triển, bền vững đối với kinh tế xã hội của quốc gia đó.
III. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước ở Việt Nam – Một số phương hướng hoàn thiện:
1.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước ở Việt Nam:
a. Thành tựu đã đạt được:
• Quá trình áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước từ khi có Luật Ngân sách Nhà nước 2002 đã làm cho nguồn
ngân sách nước ta đạt được ổn định và không ngừng tăng lượng dự trữ
qua các năm bởi do có sự cân đối trong ngân sách nhà nước cho nên
những nhiệm vụ chi cụ thể đã được thực hiện đến cùng bởi sự bảo đảm từ
nguồn vật chất đầu tư trong ngân sách. Từ đó, những nguồn thu khác do
nhiệm vụ chi chưa phát sinh hoặc chưa cần thiết nên đã được đưa vào dự
trữ trong ngân sách nhà nước để đáp ứng cho những nhiệm vụ chi mới
phát sinh.
11


• Quá trình áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước ở Việt Nam đã làm cho GDP của Việt Nam đạt được sự tăng
trưởng từ năm 2002 là 7%, năm 2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005:
7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu
vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất
cao”(3). Sở dĩ những con số này luôn lũy tiến theo các năm là do chúng ta
biết cân đối giữa nguồn thu và những nhiệm vụ chi cụ thể, nói cách khác

chúng ta biết sử dụng nguồn thu ngân sách nhà nước để tập trung đầu tư
chi cho những công việc có lợi cho nguồn thu ngân sách (có khả năng thu
hồi nguồn ngân sách cao và nhanh nhất). Điều này hoàn toàn phù hợp với
bản chất của nguyên tắc cân đối và quy định của pháp luật là chi đầu tư
phát triển chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhiệm vụ chi ngân sách.
• Việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước thời gian qua vào các khâu dự toán ngân sách, thu ngân sách, chi
ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ở Việt Nam đã góp phần làm tăng thu nhập bình quân đầu
người ở mức 122,5 USD/người, tăng lên 400 USD/người năm 2000 và
637,3 USD/người năm 2005. Con số này đã đạt được 820 USD/người
năm 2007. Bên cạnh đó, số hộ giàu tăng lên và số hộ nghèo giảm xuống.
Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh từ 58% năm 1993 giảm còn 37% năm 1998
tiếp tục giảm còn 28% năm 2004 và còn lại mức thấp 18,1% năm 2006.
Đời sống của người dân được cải thiện, các vấn đề an sinh xã hội được
đảm bảo hơn. Điều này do chúng ta đảm bảo được nguồn thu cân đối, các
nhiệm vụ chi khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau được giải quyết tốt cho
nên nguồn tài chính được sử dụng để chi cho các lĩnh vực xã hội có bước
lũy tiến, có nghĩa là trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, chúng
ta đã có sự cân bằng (giải quyết tốt mối quan hệ) giữa nhiệm vụ chi cho
các công việc ở các lĩnh vực khác với nhiệm vụ chi cho các lĩnh vực xã
hội (chi thường xuyên) và nguồn chi cho các lĩnh vực xã hội này không
ngừng được tăng lên do chúng ta bảo đảm được nguồn thu cân đối (nguồn
thu tăng cộng với nguồn thu được dự trữ trong ngân sách nhà nước).
• Trong những năm qua do việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong
hoạt động ngân sách nhà nước được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quán triệt triệt để cho nên nước ta đã kiểm soát được mức bội chi ngân
sách nhà nước ở giới hạn cho phép (không quá 5% GDP/ năm) và nguồn
vay chủ yếu chi cho đầu tư phát triển. Đây là một thành công đáng ghi
nhận trong việc kiểm soát bội chi NSNN ở nước ta khi có sự áp dụng triệt

để nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước, mặc dù chịu
sự tác động nghiêm trọng từ những cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính từ
nền kinh tế thế giới nhưng do có sự triệt để áp dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước cho nên tình hình thu, chi
ngân sách nhà nước của Việt Nam vẫn chuyển biến theo chiều hướng tích
cực, thu không những đủ chi cho thường xuyên mà còn dành được một
12


phần cho đầu tư phát triển. Vì vậy, mức thâm hụt NSNN được khống chế
ở mức thấp, đây chính là kết quả của những nỗ lực to lớn của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước ở
Việt Nam.
• Năm qua ở nước ta do có sự áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN trong từng kế hoạch, từng quá trình thi hành nhiệm vụ cụ thể
của những cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện dự toán
ngân sách, thu, chi ngân sách nhà nước nói riêng và những cơ quan nhà
nước khác nói chung đã làm cho những nhiệm vụ cụ thể đặt ra trước đất
nước được giải quyết một cách triệt để. Điều này không những tạo được
ổn định trong ngân sách nhà nước mà nó còn làm cho nguồn NSNN tiếp
tục đạt được bội thu vì chính khi những công việc tạo ra nguồn thu nhập
này được giải quyết bởi sự đầu tư từ nguồn ngân sách thì khi hoàn thành
những công việc, những sản phẩm, công trình được đầu tư làm ra đó sẽ
được đưa vào sử dụng để phục vụ cho nhu cầu của con người thì nó sẽ tạo
ra thu nhập (lợi nhuận), những lợi nhuận này được nộp vào NSNN và đã
trở thành một nguồn thu nữa cho ngân sách ngoài những nguồn thu đã có
từ trước đến nay. Hơn nữa, việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN những năm qua ở nước ta đã làm cho nguồn thu, nhiệm vụ
chi không những được ổn định trong một năm mà nguồn thu, nhiệm vụ
chi này được tiếp tục ổn định cho đến nay. Bởi lẽ, khi lên kế hoạch thực

hiện cân đối trong hoạt động NSNN để áp dụng trong một năm cụ thể nó
sẽ tạo tiền đề cho những năm sau đó tiếp tục áp dụng những kế hoạch của
năm ngân sách trước nhằm tạo ổn định trong hoạt động NSNN của năm
đó.
• Việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN ở nước ta
trong những năm qua cũng đã góp phần làm cho hoạt động của các cơ
quan nhà nước được linh hoạt hơn vì khi cân đối được ngân sách thì
những công việc thuộc nhiệm vụ của các cơ quan đó cần sử dụng đến
ngân sách được thực hiện một cách nhanh chóng. Điều này góp phần tạo
ra tâm lý làm việc thoải mái cho cán bộ, công chức giúp họ giải quyết
triệt để công việc thuộc thẩm quyền.
b. Những hạn chế còn gặp phải:
• Trong khi áp dụng nguyên tắc cân đối thì tính minh bạch trong cân
đối NSNN chưa được vân dụng triệt để khi xác định tỷ lệ bội chi NSNN.
Bên cạnh đó, vấn đề bội chi NSNN trong thời gian qua cũng tồn đọng
một số vấn đề mà chính phủ ta cần phải xem xét, cân nhắc để có những
giải pháp tốt hơn khi xử lý bội chi NSNN trong những năm sắp tới như:
số tiền vay, đặc biệt là vay nước ngoài cho đầu tư phát triển chưa được
quản lý chặt chẽ, chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu tư phát
triển và chi thường xuyên nên tạo ra áp lực bội chi ngân sách nhà nước
(nhất là ngân sách địa phương), ngân sách địa phương vẫn có bội chi
nhưng mức bội chi này lại không được tính vào bội chi NSNN. Do tính
13


minh bạch trong cân đối ngân sách không được vận dụng triệt để nên mặc
dù nguyên tắc cân đối này có được áp dụng trong quá trình thu, chi
NSNN nhưng vẫn không thể phát huy được tác dụng làm cân bằng cho
ngân sách để thực hiện những công việc phát sinh trước đất nước, do vậy,
không thể định hướng, lên kế hoạch cho quá trình thu, chi ngân sách nhà

nước cho những năm ngân sách sau đó.
• Thu NSNN của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ hoạt
động xuất nhập khẩu, thu từ các cơ sở kinh doanh. Bên cạnh đó, do là
nước xuất khẩu dầu thô nên thu từ dầu thô cũng chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng thu NSNN. Thu từ tài sản, từ thuế thu nhập cá nhân, các khoản phí
còn tương đối hạn chế. Chẳng hạn năm 2008, tỷ trọng thu dầu thô và thu
từ hoạt động xuất nhập khẩu vẫn chiếm tới 48% tổng thu NSNN, điều này
cho thấy thu NSNN phụ thuộc đáng kể vào thị trường thế giới. Bên cạnh
đó, thu từ các cơ sở kinh tế trong năm 2008 chiếm 39% tổng thu NSNN,
trong khi đó thu thuế thu nhập cá nhân chỉ chiếm 3%, các khoản phí, lệ
phí và thu từ nhà đất chiếm khoảng 10%, do vậy nguồn thu trong nước
cũng rất nhạy cảm với các biến động kinh tế. Về chi NSNN, cũng do nền
kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đầu phát triển nên cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội còn nhiều bất cập, thể chế tài chính chưa hoàn thiện và do tốc
độ tăng giá tương đối cao... nên áp lực tăng chi NSNN là rất lớn. Ðặc biệt
năm 2009, chi NSNN đã được điều chỉnh tăng do Chính phủ thực hiện
các chính sách kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm ngăn chặn suy giảm kinh
tế, bảo đảm an sinh xã hội. Trong khi đó, nguồn thu NSNN bị giảm, nhất
là thu từ dầu thô và thu xuất nhập khẩu giảm do tác động của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Chính vì thế, áp lực cân đối
NSNN là rất lớn. Thêm vào đó, với quy trình ngân sách nhà nước truyền
thống, theo năm và giới hạn bội chi NSNN là 5% GDP nên mức bội chi
thực tế luôn tiệm cận ở giới hạn cho phép. Như vậy, khả năng điều chỉnh
ngân sách theo các biến động kinh tế - xã hội trong và ngoài nước rất hạn
chế. Từ những tồn tại nêu trên cho thấy sự cân đối trong hoạt động
NSNN vẫn chưa được đảm bảo triệt để, xuất phát từ những biến động của
nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể cho nên nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN mặc dù được áp dụng nhưng nguyên tắc này vẫn không có
khả năng đảm bảo tuyệt đối cho sự cân đối ngân sách vì những biến động
luôn xảy ra mà không thể kiểm soát được mà nguyên tắc này lại có sự ổn

định tương đối nên không thể chi phối trong mọi trường hợp cụ thể mặc
dù hoạt động thu, chi NSNN đã có áp dụng nguyên tắc này.
• Xuất phát từ năng lực của những cán bộ thực hiện nhiệm vụ dự
toán, quyết toán, thu, chi NSNN của Việt Nam hiện nay vẫn còn những
hạn chế nhất định cho nên khi trực tiếp vận dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN thuộc nhiệm vụ của mình để làm cho nguồn thu,
nhiệm vụ chi của đất nước được bảo đảm ổn định NSNN thì vẫn còn lung
túng, chưa thật sự hiểu bản chất của nguyên tắc này. Do vậy, không thể
14


khai thác lợi thế của nguyên tắc này để cân đối NSNN là điều không thể
tránh khỏi, hơn nữa nguyên tắc này tương đối là khó khi vận dụng vào
thực tiễn cho nên nguồn thu, nhiệm vụ chi không bảo đảm cân đối, thậm
chí bội chi trong một số năm là điều dễ hiểu.
Những vấn đề về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN ở nước ta cho thấy rằng, khi áp dụng nguyên tắc cân đối vào
hoạt động thu, chi NSNN của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam đã làm cho các công việc đặt ra trước nhà nước trong những
năm qua được thực hiện một cách triệt để; nguồn thu và nhiệm vụ chi do
áp dụng nguyên tắc này trong quá trình thực hiện đã làm cho NSNN được
điều hòa một cách ổn định; các cơ quan nhà nước của Việt Nam đã đề cao
ý thức chấp hành nguyên tắc này khi thực hiện nhiệm vụ của mình, coi
nguyên tắc này là mục tiêu trong hoạt động của mình nhằm có được một
nền ngân sách tốt nhất cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của
đất nước, từng bước tiếp tục hoàn thiện thể chế NSNN với sự cân đối lâu
dài tạo điều kiện cho Việt Nam thực hiện hội nhập về kinh tế và các lĩnh
vực khác được ổn định, không bị tác động bởi những biến động của thị
trường thế giới. Nói chung, thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
động NSNN trong những năm qua ở Việt Nam đã đạt được những thành

tựu đáng kể. Tuy nhiên, hoạt động NSNN vẫn còn một số hạn chế nhất
định: nguyên tắc này vẫn chưa được các cơ quan có thẩm quyền tìm ra
hướng mới để khai thác công dụng, bản chất một cách triệt để do những
hạn chế về năng lực của cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện thu, chi và
dự toán NSNN của Việt Nam cho nên sự cân đối trong ngân sách chỉ đạt
được một số năm cụ thể mà chưa trở thành một điều tất yếu và lâu dài khi
nguyên tắc này được pháp luật quy định và là mục tiêu hoạt động của nền
ngân sách Việt Nam. Cho nên cần có những giải pháp để phát huy
nguyên tắc này trong hoạt động NSNN nhằm thực sự thu được cân đối
trong hoạt động thu, chi NSNN ở Việt Nam để tạo nên một nền tài chính
vững mạnh lâu dài qua các năm cho dù thị trường có biến động.
2.
Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của
nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam:
Một, để có thể phát huy nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN ở
Việt Nam thì điều quan trọng nhất là các cơ quan có thẩm quyền phải tiến
hành hướng dẫn cụ thể nguyên tắc này thông qua việc ban hành những
văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền của mình để cho các cơ quan trực
tiếp thực hiện thu, chi NSNN ở trung ương và địa phương hiểu đúng bản
chất từ đó áp dụng đúng và hợp lý nguyên tắc này trong hoạt động của
mình thì mới thu được sự cân đối trong NSNN.
Hai, do nguyên tắc này rất khó khi áp dụng vào thực tiễn thu, chi
NSNN trong hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện thu, chi
NSNN mà năng lực của một số cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ này còn có những hạn chế nhất định. Do vậy, để nguyên tắc này
15


thật sự phát huy được vai trò của nó thì cần phải tiếp tục nâng cao năng
lực của cán bộ, công chức thông qua những lớp tổ chức nghiên cứu về

nguyên tắc cân đối để cho cán bộ, công chức thật sự hiểu bản chất của nó
và tiến hành áp dụng trong thực tế nguyên tắc này thật sự phù hợp với
bản chất của nguyên tắc nhằm thu được kết quả cân đối tốt nhất.
Ba, cần tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN
chưa thật cần thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt
trong chi tiêu NSNN để không làm mất cân đối NSNN, không lãng phí
nguồn thu NSNN vào những hoạt động chi không cần thiết, không hiệu
quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn để bù đắp
bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép
hàng năm do Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều
kiện cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm
vụ ngân sách của các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp
những thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho người dân biết qua các
phương tiện truyền thanh, báo chí. Có sự phối hợp, giám sát chặt chẽ này
giữa Nhà nước và nhân dân sẽ góp phần thúc đẩy tính minh bạch và trách
nhiệm của người sử dụng và quản lý NSNN. Từ đó, nguyên tắc cân đối sẽ
được tuân thủ triệt để làm cho NSNN thật sự đạt được cân bằng, ổn định.
Bốn, muốn phát huy được vai trò của nguyên tắc cân đối thì một điểm
nữa cần phải chú trọng là cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục
nghiên cứu về nguyên tắc này để có những sửa đổi, bổ sung nguyên tắc
này trong luật phù hợp với những biến động của hoạt động ngân sách ở
Việt Nam nhằm giúp nguyên tắc này không lạc hậu so với những biến
động của hoạt động NSNN mà luôn kiểm soát tốt hoạt động thu, chi
NSNN thông qua việc áp dụng nguyên tắc cân đối của các cơ quan có
thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân sách nhà nước..v.v…

KẾT BÀI
Trên đây là một số vấn đề về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước và thực tế áp dụng nguyên tắc này ở Việt Nam. Qua phần
phân tích trên cho thấy rằng, nguyên tắc này đóng một vai trò quan trọng

đặc biệt đối với hoạt động ngân sách của nước ta. Nhờ việc áp dụng
nguyên tắc cân đối mà trong những năm qua hoạt động thu, chi NSNN ở
Việt Nam đã luôn giữ được ổn định, nguồn dự trữ ngân sách không bị
thâm hụt nhờ việc chúng ta chủ động dự toán được nguồn thu cụ thể sẽ
đầu tư chi cho nhiệm vụ cụ thể nên mức bội chi luôn được kiểm soát.
Mặc dù chịu sự tác động từ những cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính của
những nền kinh tế thế giới nhưng do chúng ta cân đối được ngân sách cho
nên những vấn đề phát sinh từ những cuộc khủng hoảng đó luôn được
kiểm soát mà nguồn NSNN không bị thâm hụt do chi để khắc phục những
vấn đề này.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
2. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
3. Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách
Nhà nước;
4. Cân đối ngân sách nhà nước – thực trạng và hướng hoàn thiện.
Người thực hiện: Quách Hồng Thơ. Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh
Phương Chinh -www.tailieu.vn;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật Ngân sách Nhà
nước. Nxb. CAND 2010;
6. Cân đối ngân sách nhà nước - đảm bảo ổn định nền tài chính
quốc gia – báo Nhân Dân;
7. Thánh thức trong cân đối ngân sách nhà Nước – báo Nhân Dân;

8. các trang web. www.Google.com.vn
www.tapchitaichinh.vn
www.kilobooks.com
www.tailieu.vn
www.tapchiketoan.vn

17



×