Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Địa vị pháp lí của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.47 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
A.LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................................................................3
I.Khái quát chung về bị can, bị cáo và địa vị pháp lý của bị can, bị cáo..............................................................4
II.Quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự.........................................5
1.Quyền và nghĩa vụ của bị can......................................................................................................................5
2.Quyền và nghĩa vụ của bị cáo......................................................................................................................8
III.Thực tiễn đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự............................................11
1.Thực trạng đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.......................................11
2.Nguyên nhân của thực trạng trên...............................................................................................................14
3.Một số giải pháp khắc phục hạn chế..........................................................................................................15
C.KẾT LUẬN.......................................................................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................18

BẢNG TỪ VIẾT TẮT………………………………………………………………….………………..2
A. LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………………………………………….…..3
B. NỘI DUNG……………………………………………………………………………………….…...3
I.

Khái quát chung về bị can, bị cáo và địa vị pháp lý của bị can, bị cáo……………………..…….3

II. Quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự………..….….4
1.

Quyền và nghĩa vụ của bị can…………………………………………………………….….…4
1.1 Các quyền tố tụng của bị can. (được quy định tại khoản 2 Điều 49 BLTTHS)……….….….4
1.2. Các nghĩa vụ tố tụng của bị can. (được quy định tại khoản 3 Điều 49)………………..……7

2.

Quyền và nghĩa vụ của bị cáo……………………………………………………………..……7
2.1.Các quyền của bị cáo……………………………………………………………….…..........7


2.2. Các nghĩa vụ của bị cáo……………………………………………………………....…...10

III.
Thực tiễn đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự……….…..
….Error: Reference source not found
1. Thực trạng đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự……….
…....Error: Reference source not found
1.1. Những kết quả đã đạt được trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can bị cáo….…10
1.2. Những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại………………………………………………….....11

1


2. Nguyên nhân của thực trạng trên………………………………………………………..……
Error: Reference source not found
2.1. Nguyên nhân từ phía pháp luật………………………………………………….…….……13
2.2. Nguyên nhân từ phía những người tham gia tố tụng……………………………………….14
2.3. Nguyên nhân từ phía các CQTHTT, NTHTT……………………………………………...14
3. Một số giải pháp khắc phục hạn
chế………………………………………………………......Error: Reference source not found
3.1. Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật chưa phù hợp với tình hình hiện nay..15
3.2. Nâng cao kiến thức pháp luật cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cá..17
3.3. Nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ những NTHTT……………………………..…..17
3.4. Một số giải pháp khác…………………………………………………………………...….17
C. KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………….
….Error: Reference source not found
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….
……………..Error: Reference source not found

BẢNG TỪ VIẾT TẮT


NTHTT

Người tiến hành tố tụng

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

TAND

Tòa án nhân dân

2



A. LỜI NÓI ĐẦU.
Bị can, bị cáo là những người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự, họ là chủ thể pháp
luật đóng vai trò rất quan trọng trong cả quá trình tố tụng. Là đối tượng bị buộc tội bởi cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nên quyền và lợi ích của họ bị ảnh hưởng sâu
sắc nhất bởi quyết định của tòa án khi giải quyết vụ án hình sự. Và còn rất nhiều nguyên
nhân khác nữa mà quyền của bị can, bị cáo có khả năng xâm phạm rất cao. Chính vì vậy,
nắm vững địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là yếu tố cần thiết trong việc bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của họ cũng như góp phần tích cực vào quá trình tố tụng.
Nhận thức được vấn đề đó, em xin lựa chọn đề tài: “Địa vị pháp lí của bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự” để giải quyết cho bài tập lớn học kì của mình. Do kiến thức còn hạn

3


chế nên khi tiếp cận vấn đề không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự bổ
sung, đánh giá của các thầy, cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn.

B. NỘI DUNG.
I. Khái quát chung về bị can, bị cáo và địa vị pháp lý của bị can, bị cáo.
Theo khoản 1 Điều 49 BLTTHS năm 2003: “bị can là người đã bị khởi tố về hình sự và
quyết định khởi tố đã được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn.” và bị cáo là: “người đã bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử” theo quy định tại khoản 1 Điều 50.
Theo từ điển luật học, địa vị pháp lí là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với
những chủ thể khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lí của chủ thể pháp
luật thể hiện thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể, qua đó xác lập cũng
như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lí
ta có thể phân biệt được chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có
thể xem xét vị trí, tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ pháp lý.

Theo đó, địa vị pháp lí của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lí của bị
can, bị cáo. Cụ thể: địa vị pháp lý của bị can là tổng thể quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy
định cho người đã bị khởi tố về hình sự và quyết định khởi tố đã được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn còn địa vị pháp lí của bị cáo là tổng thể quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy
định cho người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Việc nắm vững địa vị pháp lí của bị can, bị cáo có vai trò vô cùng quan trọng đối với
mọi chủ thể. Đối với chủ thể có địa vị pháp lí thì sẽ giúp họ thực hiện tốt hơn các quyền và
nghĩa vụ của mình, còn đối với các chủ thể khác việc nắm vững địa vị pháp lí của chủ thể
trong quan hệ pháp luật sẽ giúp họ không xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ của người khác;
có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết án hình sự, giảm oan sai, đảm bảo đúng người,
đúng tội.
Cùng là đối tượng bị buộc tội trong vụ án hình sự nên quyền và nghĩa vụ của bị can bị
cáo có nhiều điểm giống nhau nhưng địa vị pháp lí của bị can bị cáo có nhiều điểm khác
nhau là do tư các tham gia tố tụng của bị can bị cáo được hình thành trong các giai đoạn tố
tụng khác nhau.
NTHTT, CQTHTT cũng như chính người bị buộc tội cần phải nắm chắc được các dấu
hiệu chuyển hóa tư cách tham gia tố tụng của bị can và bị cáo để thực hiện đúng các quy
định của pháp luật và bảo đảm được quyền lợi của bị can và bị cáo.
Việc xác định một người có tư cách bị can bị cáo từ khi nào là điều rất quan trọng bởi vì
khi một người phát sinh tư cách bị can bị cáo thì đồng thời với việc người đó sẽ có các
4


quyền và nghĩa vụ của của bị can bị cáo. Người đó sẽ bị cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng
các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị can bị cáo theo quy định của pháp luật tố
tụng.
II. Quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự.
1. Quyền và nghĩa vụ của bị can.
1.1. Các quyền tố tụng của bị can. (được quy định tại khoản 2 Điều 49 BLTTHS).
1.1.1 Quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì (điểm a khoản 2 điều 49)

Đây là quyền đầu tiên của bị can được pháp luật quy định. Quyền này thể hiện tính chất
quan trọng của việc một người bị nghi ngờ phạm tội cần phải biết mình bị khởi tố về những
tội gì. Bởi vì mục đích của việc tiến hành các trình tự tố tụng là nhằm xác định một người
có phạm tội hay không và nếu phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế nào. Do vậy người
bị nghi ngờ phạm tội cần phải biết được mình bị khởi tố về tội gì để họ có thể tự bào chữa.
Quyền này thể hiện sự công bằng, bình đẳng và tiến bộ của pháp luật Việt Nam.
Quyền lực nằm trong tay của nhà nước và cụ thể là những NTHTT và CQTHTTT, do
vậy việc đảm bảo quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì của bị can phụ thuộc rất nhiều
vào các CQTHTTT và NTHTT. Vì họ là những người trực tiếp thực thi các quy định của
pháp luật trong việc tiến hành các trình tự tố tụng nhằm xác định sự thật vụ án cũng như
thông báo cho bị can về quyền và nghĩa vụ của mình.
Trên thực tế quyền này được xác lập bằng hành vi của CQTHTTT hoặc NTHTT giao
các quyết định tố tụng và giải thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can. Bị can được biết
mình bị khởi tố về tội gì thông qua quyết định khởi tố bị can. Quyết định này cần phải có
đầy đủ nội dung theo quy định taị khoản 2 Điều 126. Thế nhưng quyền này vẫn có lúc chưa
được đảm bảo: NTHTT vẫn chưa giải thích cụ thể cho bị can biết về quyền và nghĩa vụ của
mình cũng như việc nhận thức pháp luật của bị can chưa cao, điều đó dẫn đến việc nhiều khi
bị can nhận được quyết định khởi tố nhưng vẫn chưa thực sự nắm rõ mình bị khởi tố về tội
gì. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc chuẩn bị tài liệu chứng cứ của bị can cũng như tự
bào chữa cho mình gây khó khăn hơn cho công tác điều tra, xác định sự thật vụ án.
1.1.2 Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ (điểm b khoản 2 Điều 49).
Khi biết mình bị khởi tố về tội gì thì tiếp theo bị can sẽ có quyền được CQTHTT
NTHTT giải thích quyền và nghĩa vụ cụ thể. Muốn đảm bảo quyền này cần phải có sự thực
hiện triệt để của NTHTT.
Trên thực tế quyền này không phải lúc nào cũng được đảm bảo vì nhiều lý do khác nhau
như sự yếu kém trong chuyên môn của NTHTT đã không thực hiện đầy đủ quyền này cho

5



bị can, cũng có thể là do sự thiếu hiểu biết của bị can nên khi chưa được giải thích họ cũng
không yêu cầu quyền này.
1.1.3 Quyền được trình bày lời khai (điểm c khoản 2 Điều 49).
Bị can có quyền trình bày lời khai về những vấn đề liên quan đến vụ án mà họ bị khởi tố.
Đây là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của bị can.
Bị can thường sử dụng quyền này để khai báo những tình tiết có lợi cho mình nhằm
chứng minh mình vô tội hoặc gỡ tội và cũng có trường hợp bị can từ chối khai báo hoặc
khai báo gian dối – họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Ngược lại nếu bị
can khai báo thành khẩn thì được xem xét cho hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều
46 BLTTHS.
CQTHTT, NTHTT cần tôn trọng quyền này của bị can. Bởi vì qua lời khai của chính bị
can ta có thể xác định sự thật một cách khách quan không phiến diện, đối chiếu với lời khai
của người khác. Hơn nữa, CQTHTT, NTHTT không được dùng các biện pháp trái pháp luật
để buộc bị can phải khai báo, điều đó dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra và nghiêm trọng
hơn là đã xâm phạm đến quyền của bị can. Thế nhưng trên thực tế thì quyền này vẫn chưa
được đảm bảo, rất nhiều bị can vẫn còn bị ép cung, mớm cung.
1.1.4 Quyền được đưa ra tài liệu đồ vật yêu cầu (điểm d khoản 2 Điều 49).
Bị can có quyền cung cấp những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án và cũng có quyền
đưa ra những yêu cầu như yêu cầu trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám lại,
yêu cầu điều tra lại…
Thực tế, CQTHTT, NTHTT không xem xét một cách khách quan những chứng cứ mà bị
can đưa ra mà đã vội vàng bác bỏ khi thấy chúng không phù hợp với hướng điều tra của
mình.
1.1.5 Quyền được đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch (điểm
đ khoản 2 Điều 49).
NTHTT, người giám định, người phiên dịch là những chủ thể có vai trò quan trọng trong
việc xác định sự thật vụ án. Sự thật vụ án chỉ được xác định một cách chính xác nếu các chủ
thể nêu trên thực hiện tốt vai trò của mình trong mỗi giai đoạn tố tụng. Bởi vậy quy định
thay đổi là để đảm bảo công việc điều tra xét xử một cách công khai minh bạch, khách
quan, công bằng. Bị can có quyền đề nghị thay đổi nếu có căn cứ cho rằng họ không vô tư

trong khi làm nhiệm vụ và các CQTHTT phải xem xét, giải quyết yêu cầu của bị can nếu đề
nghị đó có căn cứ.

6


1.1.6 Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (điểm e khoản 2 Điều
49).
Bị can có quyền tự bào chữa, tức là tự dùng những lý lẽ và chứng cứ để gỡ tội và để bảo
vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong quá trình tham gia tố tụng, quyền tự bào chữa là sự
tổng hòa các quyền của bị can trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chính mình, bởi vì khi tham gia vào quá trình tố tụng ngoài việc đưa ra những lý lẽ
chứng cứ để gỡ tội cho mình thì bị can còn thực hiện quyền tự bào chữa của mình thông qua
việc thực hiền các quyền như quyền trình bày lời khai, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, đưa ra
yêu cầu…Thông qua quyền tự bào chữa, pháp luật đã cho phép bị can tự bảo vệ, chống lại
sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng và đồng thời thể hiện sự bình đẳng.
Ngoài quyền tự bào chữa bị can còn có quyền nhờ người khác bào chữa, trong trường
hợp bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì cơ quan
có thẩm quyền phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ.
1.1.7

Quyền được nhận các quyết định và văn bản tố tụng (điểm g khoản 2 Điều
49).

Các quyết định và văn bản tố tụng bao gồm: quyết định khởi tố, quyết định áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra…Các quyết định này có
liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của bị can. Việc pháp luật quy định bị can có
quyền này nhằm đảm bảo cho họ có thể thực hiện tốt quyền bào chữa và các quyền tố tụng
khác của mình. Đồng thời cũng đòi hỏi các CQTHTT phải giải quyết vụ án theo đúng thủ
tục pháp luật, các quyết định phải được đưa ra dưới hình thức văn bản, có căn cứ và đúng

pháp luật.
1.1.8 Quyền khiếu nại quyết định hành vi tố tụng của CQTHTT, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng (điểm h khoản 2 Điều 49).
Không phải trong mọi trường hợp mọi quyết định và hành vi tố tụng đều đúng theo quy
định của pháp luật do vậy để bảo đảm thực hiện tốt các quy định của pháp luật cũng như
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo thì pháp luật đã cho phép bị cáo có quyền khiếu
nại các quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Điều 328, 329 và 320 BLTTHS cũng đã quy định cụ thể về quyền này.
1.2.

Các nghĩa vụ tố tụng của bị can. (được quy định tại khoản 3 Điều 49).

Bị can có các quyền trong tố tụng hình sự thì cũng phải thực hiện những nghĩa vụ luật
định. Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Trong
trường hợp bị can được tại ngoại, khi cần sự có mặt của bị can để tiến hành các hoạt động tố
tụng khác thì cơ quan tiến hành tố tụng phải triệu tập bị can. Bị can có nghĩa vụ phải có mặt
theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Bị can khi nhận được giấy triệu tập
7


phải kí nhận và ghi rõ ngày giờ nhận được; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì có
thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
2. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo.
2.1. Các quyền của bị cáo.
2.1.1. Quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng.
Bị cáo sẽ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tư cách tố tụng của mình. Quyền đầu
tiên của bị cáo là quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án, bản án quyết định của tòa
án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của BLTTHS. Trong đó quyền được nhận
quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan trọng của bị cáo. Quyết định đó sẽ khiến nhiều

người bị buộc tội chuyển từ tư cách bị can sang tư cách bị cáo, và bị can dựa vào quyết định
này sẽ có thể biết mình bị đưa ra xét xử với tội danh gì, thời gian, địa điểm mở phiên tòa,
thành phần của CQTHTT, NTHTT.
Trên cơ sở đó bị cáo có thể thực hiện các quyền của mình như quyền tham gia phiên tòa,
quyền đề nghị thay đổi người tiến hành hoặc tham gia tố tụng, quyền tự bào chữa…
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 178, 182
BLTTHS. Ngoài ra bc còn có quyền được nhận quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản
án, quyết định của tòa án và các quyết định khác.
2.1.2. Quyền được tham gia phiên tòa.
Đây là quyền vô cùng quan trọng của bị cáo trong tố tụng hình sự, vì phiên tòa là nơi
diễn ra hoạt động thẩm vấn xét xử công khai. Bản án quyết định của Tòa án phải dựa trên
những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Quyền này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bị
cáo thực hiện quyền bào chữa, các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Hơn nữa đây không chỉ
là quyền mà còn là vấn đề có tính nguyên tắc, thể hiện sự bình đẳng, khách quan trong tố
tụng hình sự, đó là bình đẳng giữa một bên là hội đồng xét, xử kiểm sát viên – chủ thể mang
quyền lực nhà nước và một bên là bị cáo – người bị buộc tội. Bị cáo sẽ bình đẳng với kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra chứng cứ tài liệu đồ vật yêu
cầu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa.
Đây đồng thời là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ vì Điều 187 BLTTHS 2003 đã quy định
rõ. Pháp luật quy định sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa xét xử sẽ đảm bảo cho bị cáo thực
hiện tốt việc bảo vệ quyền lợi của mình. Hơn nữa, sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa còn thể
hiện tính công khai minh bạch khi xét xử, đảm bảo được quyền bình đẳng trước tòa của bị
cáo.

8


Tuy nhiên không phải trọng mọi trường hợp bị cáo đều thực hiện tốt quyền (hay cũng là
nghĩa vụ) tham gia phiên tòa nên để đảm bảo cho việc xét xử được tiến hành thuận lợi thì
khoản 2 Điều 178 đã quy định Tòa án có thể xét xử vắng mặt bị cáo.

2.1.3. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định của tòa án đưa vụ án ra xét xử. Theo quy
định tại Điều 201 BLTTHS năm 2003 về thủ tục bắt đầu phiên tòa thì Chủ tọa phiên tòa sẽ
giải thích cho bị cáo cũng như những người triệu tập có mặt tại phiên tòa biết về quyền và
nghĩa vụ của họ. Quyền này giúp cho bị cáo thực hiện tốt hơn các quyền tố tụng của mình,
đặc biệt là quyền tự bào chữa và quyền đưa tài liệu, đồ vật yêu cầu và quyền kháng cáo.
Tuy nhiên thiết nghĩ việc bị cáo được chủ tọa phiên tòa giải thích quyền và nghĩa vụ
trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa có phải là muộn hay không? Vì từ khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử thì bị cáo đã có các quyền và nghĩa vụ luật định và phải đến khi phiên
tòa xét xử diễn ra thì bị cáo mới được giải thích rõ. Điều này có thể gây ảnh hưởng lớn
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Do không được biết trước nên bị cáo
thường không có sự chuẩn bị cho mình để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tốt nhất và trong
nhiều trường hợp, bị cáo không có sự chuẩn bị để đưa ra những tài liệu đồ vật hay yêu cầu
có ý nghĩa đối với việc gỡ tội hay xác minh sự thật của vụ án. Do vậy, nên kèm theo một
văn bản có nội dung về quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong khi trong khi giao quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
2.1.4. Quyền được yêu cầu thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của pháp luật.
Điều 42 BLTTHS đã quy định về NTHTT phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay
đổi: họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, là người đại diện hợp pháp, người thân thích của người đó
hoặc của bị can, bị cáo, học đã tham gia với tư cách là người làm chứng, người bào chữa,
người giám định, người phiên dịch trong vụ án đó hoặc có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ
không thể vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT thuộc
trường hợp này. Bởi vì bị cáo là đối tượng bị đưa ra xét xử, là đối tượng bị buộc tội trong vụ
án hình sự nên việc xét xử như thế nào có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của bị
cáo nên việc cấp cho bị cáo quyền này là rất cần thiết. Quyền này của bị cáo thể hiện sự
khách quan trong quá trình xét xử, thể hiện nguyên tắc: đảm bảo sự vô tư của những
NTHTT.
Ngoài ra bị cáo cũng có quyền yêu cầu thay đổi người giám định, người phiên dịch trước

hoặc tại phiên tòa xét xử.
2.1.5. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.

9


Bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật tại phiên tòa xét xử; thông thường nó có ý nghĩa
gỡ tội cho bị cáo, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc chứng minh những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Hội đồng xét xử phải kiểm tra, xác minh và đánh giá
các đồ vật, tài liệu đó có phải là chứng cứ trogn vụ án không và giá trị của nó trong việc xác
định sự thật của vụ án.
Bị cáo cũng có quyền đưa ra những yêu cầu như yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng
hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, yêu cầu xem xét, yêu cầu hoãn phiên tòa…Các yêu cầu
này phải được Tòa án xem xét giải quyết.
2.1.6. Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Trong khi tranh luận tại phiên tòa, bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào
chữa thì người này bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến của mình. Tòa án
phải tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo. Quyền này thể hiện tính nhân đạo và dân chủ
trong tố tụng hình sự, đảm bảo cho việc xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn
diện, đầy đủ.
2.1.7. Quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa.
Bị cáo có quyền đưa ra những ý kiến, những lập luận của mình và đối đáp với những ý
kiến không thống nhất của các chủ thể khác.
2.1.8. Quyền nói lời sau cùng trước khi nghị án.
Sau khi hội đồng xét xử kết thúc xét hỏi và tranh luận, bị cáo được nói lời sau cùng trước
khi nghị án. Quy định này tạo điều kiện để bị cáo có cơ hội được bày tỏ thái độ và nguyện
vọng của mình trước khi Hội đồng xét xử đưa ra những quyết định đối với vụ án. Trong khi
nói lời sau cùng, bị cáo có quyền trình bày mọi vấn đề liên quan đến vụ án, tỏ thái độ của
mình đối với việc buộc tội…Nếu như những lời sau cùng của bị cáo chứa nhiều tình tiết có
ý nghĩa quan trọng đối với vụ án thì Hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi.

2.1.9. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án và các quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án chưa
có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Khi kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, Tòa án phúc thẩm
phải xem xét và giải quyết quyền kháng cáo của bị cáo. Luật còn quy định nếu chỉ có kháng
cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng nào khác thì Tòa
án cấp phúc thẩm không có quyền sửa án theo hướng bất lợi hơn cho bị cáo.
2.1.10. Quyền khiếu nại quyết định hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.

10


Bị cáo có quyền khiếu nại quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng. Những
quyết định này không thuộc đối tượng kháng cáo như quyết định áp dụng, thay đổi hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn…Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi tố tụng của cơ quan, người
tiến hành tố tụng nếu các hành vi đó trái pháp luật.
2.2. Các nghĩa vụ của bị cáo.
Ngoài các quyền lợi được hưởng, bị cáo cũng phải chấp hành các nghĩa vụ luật định. Bị
cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, trong trường hợp vắng mặt không có kí do
chính đáng thì có thể bị áp giải, nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
III.

Thực tiễn đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.

1. Thực trạng đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.
Hiện nay, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đã được
đảm bảo tương đối tốt. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn còn đó
những hạn chế cần khắc phục và hoàn thiện.
1.1.


Những kết quả đã đạt được trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can bị
cáo.

1.1.1 Những kết quả đã đạt được từ phía CQTHTT, NTHTT.
Thông qua các số liệu thống kê của TANDTC, VKSNDTC về công tác giải quyết, xét
xử án hình sự ta có thể thấy được cố gắng của các CQTHTT, NTHTT trong việc xác minh
sự thật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình
sự.
Theo số liệu thống kê của VKSNDTC, thì từ 2005 đến 2009, số lượng án đình chỉ của cả
hai ngành Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra là 10.925 vụ với 17.130 bị can. Đây là số
lượng án đình chỉ khá lớn. Qua đó có thể thấy trong 5 năm 2005-2009 Cơ quan điều tra và
viện kiểm sát đã làm khá tốt công tác của mình, khắc phục được những sai lầm, bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của các bị can và đảm bảo bị can thực hiện tốt nghĩa vụ của mình.
Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2010 của ngành TA thì TAND các cấp và tòa án
quân sự các cấp đã thụ lý 71.680 vụ án và đã giải quyết, xét xử được 68.381 vụ án đạt 95%.
Nhìn chung các vụ án hình sự đều được giải quyết, xét xử trong thời hạn quy định của pháp
luật. Một số tòa đã giải quyết, xét xử được hơn 95% các vụ án hình sự đã thụ lý. Việc giải
quyết nhanh chóng, kịp thời, đúng thời hạn các vụ án hình sự đã góp phần không nhỏ trong
việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong tố tụng hình sự đặc biệt
là bị can, bị cáo.

11


Đặc biệt là quyền bào chữa của bị can, bị cáo ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Theo số
liệu thống kê của TANDTC thì số vụ án có người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự đã tăng đáng kể: năm 2008 là 5933 vụ, năm 2009 là 7355 vụ và năm
2010 là 7255 vụ.
Như vậy, chúng ta có thể thấy việc đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo
như: quyền được nhận các quyết định, văn bản tố tụng, quyền được sự bào chữa hoặc nhờ

người khác bào chữa, quyền tham gia phiên tòa, quyền kháng cáo…hay nghĩa vụ có mặt
theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đã được những NTHTT đảm
bảo thực hiện tương đối tốt trong thời gian vừa qua.
1.1.2. Những kết quả đạt được từ phía bị can, bị cáo.
Hiện nay, khi công nghệ truyền thông ngày càng phát triển thì bị can, bị cáo cũng đã
hiểu biết hơn về các quyền và nghĩa vụ của mình trong tố tụng hình sự. Đặc biệt là quyền
bào chữa và nhờ người khác bào chữa đã được bị can, bị cáo thực hiện khá tốt trong nhằm
đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Bên cạnh đó, các quyền cơ bản khác như: quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, quyền
kháng cáo…đã được bị can bị cáo thực hiện tương đối tốt góp phần xác định sự thật khách
quan của vụ án.
1.2.

Những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại.

1.2.1. Hạn chế từ phía những NTHTT.
Nhìn vào số liệu từ năm 2005 đến năm 2009, số lượng án đình chỉ của cả hai ngành viện
kiểm sát và cơ quan điều tra là 10.925 vụ với 17.130 bị can ta cũng thấy được rằng những
NTHTT, CQTHTT đã không thực hiện tốt quyền hạn và trách nhiệm của mình dẫn đến việc
truy tố không đúng người, đúng tội xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là
bị can.
Theo báo cáo tổng kết của ngành TAND năm 2010 thì tỉ lệ các bản án bị hủy là 0.75%
trogn đó do nguyên nhân chủ quan là 0.44% và nguyên nhân khách quan là 0.31%. Tỉ lệ án
bị sửa là 5.1% trong đó do nguyên nhân chủ quan là 0.45% và do nguyên nhân khách quan
là 4.65%. So với cùng kì năm trước thì tỉ lệ các bản án, quyết định bị hủy do nguyên nhân
chủ quan tăng 0.06% , bị sửa do nguyên nhân khách quan giảm 0.09%.
Như vậy, tỉ lệ các bản án bị hủy, sửa vẫn còn cao. Nguyên nhân phần lớn là do vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cấp sơ thẩm điểu tra, thu thập chứng cứ không đầy đủ.
Hơn nữa, việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc áp
dụng điều 47 BLHS và việc trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung trong một số trường hợp


12


còn chưa chính xác. Trong quá trình xét xử phúc thẩm, có tòa án chưa xem xét toàn diện các
tình tiết nội dung của vụ án mà chỉ tập trung xem xét các tình tiết có liên quan tới các bị cáo
có kháng cáo, kháng nghị nên khi quyết định hình phạt đã giảm hình phạt cho các bị cáo
đầu vụ thấp hơn hình phạt đối với các bị cáo có vai trò thứ yếu trong vụ án.
Ngoài ra, sự chuẩn bị của một số thẩm phán chưa tốt, thể hiện ở việc điều khiển phiên
tòa và đặc biệt là phần xét hỏi. Có những trường hợp thẩm vấn bị cáo còn chưa được khách
quan. Trong một số vụ án, thẩm phán lúng túng khi vụ án xuất hiện những tình tiết mới.
Một số bản án không thể hiện những ý kiến quan trọng của công tố và luật sư. Những điều
đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác định sự thật vụ án cũng như đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của bị cáo.
Bên cạnh đó, vấn đề cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho người bào chữa vẫn còn
nhiều khó khăn. Ngoài các loại giấy tờ được quy định tại Điều 27 Luật luật sư, cơ quan điều
tra thường “đòi hỏi” thêm Chứng chỉ hành nghề luật sư và Hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa
đương sự và luật sư. Rõ ràng đó là yêu cầu trái quy định của Luật luật sư và để làm khó luật
sư khi muốn tham gia tố tụng từ giai đoạn điều tra, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi
hợp pháp của bị can bị cáo.
Ngoài ra, trong tố tụng hình sự vẫn còn tồn tại những vấn đề như mớm cung, ép cung,
dùng nhục hình. Việc làm trái quy định pháp luật đó của những NTHTT đã xâm hại nghiêm
trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo và làm sai lệch nghiêm trọng sự thật khách quan của
vụ án.
1.2.2. Từ phía bị can bị cáo.
Bị can bị cáo là người có quyền và lợi ích ảnh hưởng nhiều nhất trong tố tụng hình sự
nhưng nhiều trường hợp bị can bị cáo chưa thực sự có ý thức bảo vệ quyền lợi của mình,
đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, trình độ dân trí
kém phát triển. Ví dụ như có trường hợp bị can không biết mình có quyền nhờ người bào
chữa và sử dụng nó như là công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi cho mình. Bùi Minh Hải

người đã hơn một năm tù oan ở Đồng Nai cho biết, anh hoàn toàn không biết mình có quyền
đó, cứ nghĩ khi bị khởi tố thì quyền sinh, quyền sát thuộc về cơ quan điều tra, còn luật sư
anh tưởng cứ phải ra toà mới giúp. Hay có vụ án ở Quảng Ngãi, bị cáo sau khi lĩnh án tù về
tội bức tử vợ tâm sự:” Sau khi vợ chết, em thấy mình có lỗi vì quá nóng giận, với lại suốt
ngày đi đốn củi đong gạo nuôi con, có biết gì về pháp luật đâu”
Theo số liệu thống kê của TANDTC thì năm 2008 TAND xét xử 61634 vụ án với 99340
bị cáo nhưng chỉ có 6007 vụ án có sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, năm 2009 có 61822 vụ án được đưa ra xét xử với 5933 vụ
án có sự tham gia của người bào chữa; năm 2008 là 65073 vụ án với 7533 vụ án có sự tham

13


gia của người bào chữa và năm 2010 là 7255 vụ án có sự tham gia của người bào chữa trên
tổng số 68425 vụ án được đưa ra xét xử.
Qua đó ta có thể thấy rằng số vụ án có sự tham gia của người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích của đương sự vẫn còn rất thấp, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương
sự trong tố tụng hình sự, đặc biệt là bị can, bị cáo.
1.2.3. Từ phía những người tham gia tố tụng khác.
Trong một số trường hợp những người tham gia tố tụng khác như người bào chưa, người
phiên dịch, người giám định …không làm tốt nhiệm vụ của mình đã gây ảnh hưởng không
nhỏ đến quyền lợi của bị can bị cáo và việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
2. Nguyên nhân của thực trạng trên.
2.1. Nguyên nhân từ phía pháp luật.
Các quy định của pháp luật được đề ra là nhằm đảm bảo cho quyền và lợi ích của những
người tham gia tố tụng. Nhưng nếu các quy định đó là không hợp lý thì sẽ có tác dụng
ngược trở lại ảnh hưởng đến quyền lợi của chính những người tham gia tố tụng và đặc biệt
là bị can bị cáo.
Như ở trên phận tích ta có thể thấy rằng quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa
trong tố tụng hình sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của bị can, bị cáo. Vậy nên, việc mời người bào chữa cũng như điều kiện để trở thành người
bào chữa cho bị can, bị cáo là một vấn đề đáng quan tâm. Nhưng các quy định về thủ tục
xem xét và cấp giấy chứng nhận người bào chữa lại khá khó khăn và phức tạp.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 56 BLTTHS thì:” Trong thời hạn 3 ngày…..lý do”.
Nhưng rất ít trường hợp luật sư được cấp giấy chứng nhận người bào chữa đúng thời hạn
nói trên. Lý do được cơ quan điều tra nêu ra thường là do bưu điện chuyển đến chậm nếu đề
nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa được gửi đến cơ
quan điều tra qua bưu điện hoặc người có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận người bào chữa
đi công tác vắng…
2.2.

Nguyên nhân từ phía những người tham gia tố tụng.

Việc bị can, bị cáo không hiểu biết pháp luật đã gây ra rất nhiều khó khăn cho việc giải
quyết vụ án cũng như tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính bản thân mình. Vì khi
bị can, bị cáo biết được mình có quyền gì trong tố tụng hình sự thì họ sẽ chủ động hơn trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhằm chứng minh mình không phạm tội hoặc có thể đưa ra
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình, chủ động hợp tác với cơ quan điều tra,
VKS, TA trong quá trình tố tụng. Như vậy, có thể thấy, việc bị can, bị cáo không hiểu biết
về pháp luật, không nắm rõ quyền và nghĩa vụ của mình là một trong những nguyên nhân
14


chính gây ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ trong tố tụng hình sự nói riêng và cũng
là trong tố tụng nói chung.
Bên cạnh đó, người bị hại, nguyên đơn dân sự… cũng có ảnh hưởng nhất định đến
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Những lời khai của họ thường
theo chiều hướng có lợi cho mình và bất lợi cho bị can, bị cáo.
2.3.


Nguyên nhân từ phía các CQTHTT, NTHTT.

Nguyên nhân từ phía các CQTHTT, NTHTT là nguyên nhân trực tiếp và phổ biến nhất
hiện nay. Bởi CQTHTT, NTHTT là những người trực tiếp áp dụng các quy định của pháp
luật vào thực tiễn giải quyết vụ án.
Trong nhiều trường hợp, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị xâm phạm là do
sự thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết không đúng của NTHTT về các quy định của pháp luật gây
ra. Điều đó có thể là do chất lượng của đội ngũ những NTHTT của nước ta chưa thực sự
đáp ứng được yêu cầu thực tế hiện nay. Trong khi các vụ án hình sự ngày càng trở nên quy
mô và phức tạp hơn thì những cán bộ có trình độ chuyên môn cao trong tố tụng hình sự lại
không nhiều. Do vậy, kéo theo đó là việc giải quyết các vụ án hình sự sẽ không tránh khỏi
những sai lầm và có thể gây ra tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, một thực
tế hiện nay cho thấy, nhiều khi những NTHTT cố tình làm sai các quy định của pháp luật
như bức cung, ép cung…nhằm nhanh chóng giải quyết vụ án theo ý chí chủ quan của mình.
Nguyên nhân là do chưa có một chế tài đủ mạnh nào để đảm bảo NTHTT không vi phạm
các quy định của pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo.
3. Một số giải pháp khắc phục hạn chế.
3.1. Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật chưa phù hợp với tình hình
hiện nay.
-

Quy định của pháp luật về thời điểm xác định tư cách bị can cho người bị khởi tố:

Như phần trên đã phân tích, hiện nay, chưa có một quy định cụ thể nào về việc xác định
người bị khởi tố có tư cách bị can. Người bị khởi tố sẽ có tư cách bị can kể từ khi có quyết
định khởi tố bị can hay phải đến khi quyết định đó được Viện kiểm sát phê chuẩn. Theo đó,
cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can. Theo cá nhân em, nên quy định thời điểm người bị khởi tố có tư cách bị can kể
từ khi quyết định khởi tố được VKS phê chuẩn. Còn khoảng thời gian từ khi ra quyết định
khởi tố đến khi có quyết định phê chuẩn của VKS thì người đó có tư cách là người bị khởi

tố về hình sự và có thể bị áp dụng một số các biện pháp tố tụng nhằm đảm bảo nhanh
chóng, kịp thời xác định sự thật khách quan vụ án.

15


Quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 179 BLTTHS trong phần chuẩn bị xét xử: theo
đó, Thẩm phán sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho VKS khi có căn cứ cho
rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác. Theo quy định tại Điều 50
BLTTHS thì bị cáo là người đã bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nhưng quy định
trên lại thuộc phần chuẩn bị xét xử. Khi đó, Thẩm phán đang xem xét để ra quyết định đưa
vụ án ra xét xử hay không và tư cách của người bị khởi tố trong vụ án hình sự vẫn là bị can.
Bởi vậy, pháp luật quy định là “cho rằng bị cáo phạm một tội khác…” là không đúng và cần
phải sửa thành “cho rằng bị can phạm một tội khác…”
-

Quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003:

Vần đề từ chối người người bào chữa được quy định tại đoạn 2 Khoản 2 Điều 57
BLTTHS năm 2003 cần hoàn thiện thêm vì quy định như vậy còn có bất cập, không hợp lý.
Việc không phân biệt quyền từ chối bào chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại
điểm a và điểm b khoản 2 điều luật này là một sự không chặt chẽ về mặt lý luận. Những đối
tượng được quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và đầy đủ hành vi từ chối người
bào chữa của mình và học biết được khả năng và hậu quả xảy ra khi họ từ chối người bào
chữa. Vì vậy, trong trường hợp này, pháp luật quy định rằng họ có quyền từ chối người bào
chữa là hoàn toàn hợp lý. Còn những đối tượng được quy định tại điểm b là những đối
tượng chưa đủ trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần hoặc là những người bị
khiếm khuyết về thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần thì liệu họ có nhận thức được đầy
đủ và đúng đắn về hành vi từ chối người bào chữa của mình hay không.
Do vậy, để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo chưa thành

niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì cần phải sửa đổi, bổ sung đoạn 2
khoản 2 Điểu 57 BLTTHS 2003 như sau: “Những trường hợp được quy định tại điểm a
khoản 2 điều này sau khi luật sư tham gia bào chữa bị can, bị cáo vẫn có quyền yêu cầu
thay đổi hoặc từ chối luật sư bào chữa. Còn đối với những trường hợp được quy định tại
điểm b khoản 2 điều này thì bị can, bị cáo và đại diện hợp pháp của họ sau khi luật sư tham
gia bào chữa vẫn có quyền yêu cầu thay đổi luật sư bào chữa và nếu họ từ chối luật sư thì
cơ quan tiến hành tố tụng phải lập biên bản ghi rõ lý do từ chối trước khi quyết định”.
-

Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa.

Cần bổ sung quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa ngay trong
BLTTHS đồng thời bổ sung chế tài đối với người có hành vi vi phạm thời hạn cấp giấy
chứng nhận. Đặc biệt là cần có chế tài xử lí nghiêm đối với những NTHTT có hành vi tác
động đến bị can, bị cáo để họ phải từ chối luật sư, nhằm ngăn cản luật sư tham gia tố tụng.
Sửa đổi điều 196 về giới hạn của việc xét xử: theo quy định tại điều 196 thì TA có
thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà VKS đã truy tố. Điều này có thể gây bất lợi
cho bị cáo trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình. Do vậy, cần sửa đổi theo hướng
16


để tòa án trong bất kì trường hợp nào cũng không được vượt quá giới hạn truy tố của VKS
nếu điều đó làm bất lợi cho bị cáo. Tòa án chỉ có thể vượt qua giới hạn truy tố của VKS nếu
không làm bất lợi cho bị cáo, không ảnh hưởng đến quyền bào chữa của bị cáo.
Quy định tại chương 34 BLTTHS về thủ tục rút gọn vẫn còn nhiều bất cập, chưa có
lợi cho bị can, bị cáo. Các quy định về thủ tục rút gọn trong TTHS mới chỉ quan tâm đến
vấn đề có lợi cho CQTHTT, NTHTT như: rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng, giảm chi phí
giải quyết vụ án, giảm án tồn đọng… mà chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi của bị can, bị
cáo… Do áp lực về thời hạn điều tra dẫn đến hầu hết các bị can bị áp dụng thủ tục rút gọn
để thuận lợi hơn cho việc giải quyết vụ án của NTHTT, mặc dù theo Điều 38 họ không đủ

điều kiện tạm giam. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc bị can thực hiện các quyền của
mình trong tố tụng hình sự. Do đó, cần có sự sửa đổi, bổ sung quy định tại chương 34 để
đảm bảo cho thủ tục rút gọn đáp ứng được nhu cầu giải quyết vụ án hiện nay nhưng cũng
không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can, bị cáo.
Ngoài ra, để đảm bảo tốt hơn nữa công tác điều tra, truy tố, xét xử cũng như quyền
lợi của các đương sự và đặc biệt là bị can, bị cáo thì TANDTC cần tập trung tăng cường và
làm tốt hơn nữa công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, tập trung vào một số vấn
đề thực tiễn xét xử đang đặt ra, những vấn đề mà TANDTC được giao hướng dẫn trong quá
trình triển khai và thi hành các văn bản pháp luật mới ban hành như: luật sửa đổi bổ sung
một số điều của BLHS, Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án, ủy thác tư pháp…
3.2.

Nâng cao kiến thức pháp luật cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là bị
can, bị cáo.

Cần thường xuyên tuyên truyền, nâng cao kiến thức pháp luật cho người dân. Và đối với
những người đã là bị can, bị cáo thì cần những NTHTT phải đảm bảo thực hiện đúng trách
nhiệm thông báo cụ thể về các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo cho họ biết.
3.3.

Nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ những NTHTT.

Chúng ta cần có những biện pháp nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ những
NTHTT, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, lối sống và
trách nhiệm cho những NTHTT đặc biệt là các cán bộ, công chức ngành TAND. Theo đó,
chúng ta cần phải tiếp tục kiện toàn về tổ chức, tăng cường hơn nữa công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức TA trong sạch, vững mạnh; có lộ trình từng bước đảm bảo đủ về số
lượng; đảm bảo phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ năng lực, chuyên môn
nghiệp vụ, nhất là đối với thẩm phán. Chú trọng làm tốt hơn công tác tổng kết thực tiễn xét
xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.

3.4.

Một số giải pháp khác.

17


Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác chuyên môn và hoạt động quản lý
của các CQTHTT. Tăng cường kinh phí, xây dưng cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho
những NTHTT.
Xây dựng đề án cải thiện chế độ tiền lương, kịp thời nghiên cứu, sửa đổi chế độ tiền
lương, chế độ phụ cấp và ban hành các chính sách ưu đãi khác phù hợp với đặc thù công
tác, tạo điều kiện nâng cao đời sống cho NTHTT, có cơ chế thu hút nguồn nhân lực có chất
lượng cao vào đội ngũ những NTHTT. Như vậy sẽ đảm bảo cho NTHTT có điều kiện tốt
nhất để thực hiện công tác, nhiệm vụ được giao góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.

C. KẾT LUẬN.
Qua những phân tích ở trên ta có thể thấy được vai trò quan trọng của việc nghiên cứu
một cách tổng thể địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong TTHS. Địa vị pháp lý đó được xây
dựng trên những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho bị can, bị cáo, các CQTHTT.
Tuy nhiên vẫn còn đó những hạn chế, vướng mắc và tồn tại trong công tác xét xử đòi hỏi
NTHTT và những người tham gia tố tụng khác phải thực hiện đầy đủ quyền hạn và trách
nhiệm của mình. Đảm bảo được quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự
sẽ góp phần rất lớn trong việc xác minh sự thật khách quan của vụ án ./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- Khóa luận tốt nghiệp: Địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Tác giả:
Vũ Thị Kim Thùy.
- BLTTHS Việt Nam 2003.

- Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP.
- Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết 388 của VKSNDTC.
- Lịch sử luật tố tụng hình sự VN. Trần Quang Tiệp. Nxb Chính trị quốc gia.
- Vũ Thị Quyên, “Địa vị pháp lí của bị can, bị cáo trong pháp luật tố tụng hình sự và
việc thực hiện trong hoạt động tố tụng hình sự tại tỉnh Lai Châu”, Khóa luận tốt
nghiệp, Hà Nội – 2010.
- Bình luận khoa học tố tụng hình sự Việt Nam.
- />18


19



×