Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
A – ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn (BPNC) thì biện pháp tạm giam có
vai trò rất quan trọng và mang tính cưỡng chế rất nghiêm khắc. Áp dụng biện pháp
này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vụ việc, ngăn chặn kịp
thời các hành vi phạm tội đang chuẩn bị thực hiện hoặc đang xảy ra, góp phần
không nhỏ cho việc phát hiện và xử lí kịp thời các hành vi phạm tội. Tuy nhiên,
trên thực tế áp dụng quy định này vấn còn rất nhiều vấn đề bất cập dẫn đến việc
tạm giam oan sai, xâm phạm đến quyền tự do dân chủ của công dân, các quyền và
lợi ích hợp pháp của con người được pháp luật bảo hộ. Chính vì vậy, em xin chọn
đề tài “Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng biện pháp này ” để nghiên cứu kĩ hơn về vấn đề này.
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I – Tạm giam trong tố tụng hình sự.
1. Nhận thức chung về biện pháp ngăn chặn tạm giam.
1.1 Khái niệm về biện pháp tạm giam.
Theo quy định của BLTT HS Việt Nam 2003, hệ thống các biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự bao gồm sáu biện pháp : bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị đảm bảo. Trong số các biện
pháp nêu trên thì tạm giam là biện pháp mang tính hà khắc nhất.
Xung quanh khái niệm về biện pháp tạm giam hiện nay có nhiều quan điểm
khác nhau, mỗi quan điểm nhìn nhận tạm giam dưới góc độ khác nhau. Trong
BLTTHS 2003 cũng chưa có một quy định cụ thể về khái niệm BPNC tạm giam.
Căn cứ vào Điều 88 BLTTHS 2003 có thể hiểu: Tạm giam là biện pháp hạn chế tự
do có thời hạn do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị
can, bị cáo phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội
mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội và người phạm tội quả tang hoặc bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, nhằm mục
đích ngăn chặn bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc cản trờ điều tra, truyu tố, xét xử, hoặc
có thể tiếp tục phạm tội. Đây là BPNC nghiêm khắc nhất, thể hiện ở chỗ nó hạn
chế quyền tự do thân thể của người bị áp dụng biện pháp này trong một thời gian
1
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
khá dài. Chính vì vậy mà việc áp dụng biện pháp tạm giam phải tuân theo những
quy định rất chặt chẽ của pháp luật.
1.2 Mục đích và ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
phải tiến hành nhiều biện pháp khác nhau nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội
phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã thực hiện hành vi
phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài khác nhau. Tuy nhiên không phải bao
giờ những người tham gia tố tụng đặc biệt là bị can, bị cáo cũng tham gia tố tụng
và thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn
tránh hoặc gây cản trở cho quá trình tiến hành hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn
chặn và phòng ngừa việc bị can, bị cáo không thực hiện nghĩa vụ của mình, bỏ trốn
hoặc tiếp tục phạm tội, pháp luật cho phép các Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng được áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam với bị can, bị cáo
trong những trường hợp nhất định khi có đủ các căn cứ áp dụng theo quy định của
BLTTHS. Tạm giam là một trong những BPNC do vậy mục đích của BPNC tạm
giam trước hết cũng phải bảo đảm mục đích của các BPNC nói chung, đó là tạo
điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tram truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Điều 88 BLTTHS 2003 quy định biện pháp tạm giam có thể được áp dụng
nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo có thể trốn hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Mục đích và ý nghĩa của việc quy định và
áp dụng BPNC trong tố tụng hình sự được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc áp dụng BPNC tạm giam tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình điều tra xử lí tội phạm. Việc áp dụng biện pháp này sẽ đảm bảo sự có mặt của
bị can, bị cáo trong các hoạt động tố tụng khi cần thiết, bảo đảm để bản án tuyên có
điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp luật cũng như bảo đảm tính chính xác,
khách quan của các hoạt động tố tụng.
Thứ hai, việc quy định và áp dụng BPNC tạm giam thể hiện sự cưỡng chế
của Nhà nước trong việc đấu tranh chống tội phạm góp phần nâng cao hiệu lực
quản lý Nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế XHCN.
Thứ ba, việc quy định và áp dụng BPNC tạm giam tạo cơ sở pháp lí vững
chắc, góp phần bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi
nhận trong Hiến pháp. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một
2
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
nguyên tắc quan trọng trong TTHS của Nhà nước ta. Đó là quyền bình đẳng trước
pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, tài sản. Vì vậy, trong thời hạn tạm giam cán bộ điều tra, truy tố, xét
xử cần phải đối xử với bị can, bị cáo như một công dân bình thường. BPNC tạm
giam tuy hạn chế một số quyền của công dân đối với bị can, bị cáo nhưng mặt khác
lại bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân khác.
Thứ tư, tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta. Nhà nước ta là nhà
nước của dân, do dân, vì dân nên những hoạt động của Nhà nước không nhằm mục
đích nào khác là phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Pháp luật XHCN không
cho phép một hành vi trái pháp luật nào xâm phạm đến các quyền và lợi ích của
công dân. Chính vì vậy, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về
tạm giam là nhiệm vụ của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Mọi
hành vi trái với quy định của pháp luật về tạm giam đều bị xử lí nghiêm khắc và có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 119 BLHS về tội bắt giữ người trái
pháp luật. Tính nhân đạo cũng được thể hiện trong pháp luật về chế định tạm giam.
Đó là các quy định về vấn đề tạm giam đối với người chưa thành niên (Điều 304
BLTTHS) và các quy định về tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai
hoặc đang thời kì nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị
bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng (khoản 2 Điều 88 BLTTHS)
2. Một số ấn đề cơ bản về biên pháp tạm giam trong tố tụng hình sự.
2.1 Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam.
Theo khoản 1 Điều 88 BLTTHS thì biện pháp tạm giam chỉ áp dụng đối với bị
can, bị cáo. Tuy nhiên, không phải bị can, bị cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp
tạm giam. Chỉ tạm giam, tạm giữ bị can, bị cáo trong những trường hợp sau:
Thứ nhất, “Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng”. Tức là, sẽ chỉ áp dụng biện pháp tạm giam khi bị can, bị cáo thực
hiện tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là trên mười năm năm, tù chung thân hoặc tử hình; hoặc tội
phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội ấy là đến mười năm năm tù. Nếu bị can, bị cáo thuộc trường hợp này,
3
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể ra lệnh tạm giam ngay mà
không cần có thêm căn cứ khác.
Thứ hai, “Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng
mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục
phạm tội”. Đây là căn cứ để tạm giam bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng nhưng tội phạm do họ thực hiện phải thỏa mãn đồng thời hai điều
kiện:
Một là, bị can, bị cáo phạm các tội nghiêm trọng hoặc là ít nghiêm trọng
mà Bộ luật hình sự (BLHS) quy định hình phạt tù trên hai năm. Tức là, sẽ không
được áp dụng biện pháp này đối với các tội phạm có mức hình phạt tù từ hai năm
trở xuống. Do vậy, để việc áp dụng điều kiện này có căn cứ, trong quyết định khởi
tố bị can, quyết định truy tố và quyết định đưa vụ án ra xét xử cần ghi rõ tội danh,
điều, khoản của BLHS mà bị can, bị cáo bị áp dụng.
Hai là, có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn tránh hoặc cản trở điều
tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định được điều kiện này
cần căn cứ vào yêu cầu của điều tra, xét xử và sự cần thiết của việc ngăn chặn tội
phạm, thái độ của bị can, bị cáo khi được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác ít
nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam.
Chỉ khi có đầy đủ hai điều kiện trên thì mới có thể ra quyết định tạm giam.
BPNC tạm giam cũng thể hiện tinh thần nhân đạo XHCN của Nhà nước ta.
Khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy định các trường hợp sau đây không áp dụng biện
pháp tạm giam mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Đó là các trường hợp: bị
can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là
người già yếu mà nơi cư trú rõ ràng. Điều luật này có một sự sửa đổi quan trọng.
Quy định “phụ nữ đang thời kì nuôi con dưới mười hai tháng tuổi” được thay bằng
quy định “phụ nữ đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi”. Đây là một sự thay
đổi thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của pháp luật Việt Nam.
Tuy nhiên, đối với những trường hợp đặc biệt, các đối tượng trên vẫn có
thể bị áp dụng biện pháp tạm giam nếu: bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh
truy nã; bị can, bị cáo đã được áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp
tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
4
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đỉ căn cứ để cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Ngoài những
quy định trên, Điều 303 BLTTHS còn quy định về việc tạm giam đối với người
chưa thành niện như sau: Chỉ tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội
nếu có đủ căn cứ, điều kiện quy định tại Điều 88 BLTTHS nhưng chỉ trong trường
hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
và người chưa thành niên đó đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
2.2 Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
BLTTHS 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng BPNC tạm giam
mà chỉ quy định các căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung. Điều 79
NLTTHS quy định bốn căn cứ để áp dụng các BPNC, gồm:
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm;
Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho viêc điều tra,
truy tố, xét xử.
Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội;
Để đảm bảo thi hành án.
Trong khi áp dụng biện pháp tạm giam thì ta không xét đến căn cứ “để kịp
thời ngăn chặn tội phạm” bởi đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam là
bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ là hành vi đã thực hiện trong quá khứ,
không thể ngăn chặn được nữa. Ta chỉ xét đến ba căn cứ sau:
Căn cứ thứ nhất : khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Hành vi này thể hiện ở việc sau khi thực hiện
hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc
thay đổi chứng cứ, xóa dấu vết của vụ án,…gây khó khăn, phức tạp cho việc làm
rõ sự thật khách quan của vụ án.
Căn cứ thứ hai: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội.
Căn cứ này có thể được thể hiện qua các yếu tố phản ánh về nhân thân bị can, bị
cáo: bị can, bị cáo là những tội phạm tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là tội phạm có
tính chất chuyên nghiệp, côn đồ hung hãn, coi thường pháp luật. Nó còn được thể
hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa trả thù người làm chứng, người bị
hại và sự đe dọa đó có khả năng trở thành hiện thực.
5
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
Căn cứ thứ ba: để đảm bảo thi hành án. Công tác thi hành án hình sự là
vấn đề vô cùng quan trọng. Các bản án, quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực
pháp luật cần phải được đưa ra thi hành. Có như vậy mới nâng cao được tính hiệu
quả của pháp luật trong đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện để thi
hành án là vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy
theo tính chất cụ thể của từng vụ án, tùy theo nhân thân của người bị kết án, Tòa án
có thể lựa chọn BPNC thích hợp; nếu có căn cứ để cho rằng bị cáo sẽ không bỏ
trốn hoặc không gây cản trở khó khăn cho việc thi hành án thì không cần áp dụng
biện pháp tạm giam mà có thể áp dụng BPNC ít nghiêm khắc hơn như: cấm đi khỏi
nơi cư trú, bảo lãnh,… để đảm bảo cho việc chấp hành án của người bị kết án.
2.3 Thẩm quyền ra lệnh tạm giam.
Theo khoản 3 Điều 88 BLTTHS: “Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt
được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm
giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này
phải được Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”. Như
vậy, những người có thẩm quyền ra quyết định tạm giam là:
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát
quân sự các cấp;
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa, Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao;
Hội đồng xét xử;
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp
này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Như vậy thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam được quy định cho nhiều Cơ
quan với nhiều chủ thể khác nhau ở tùy thuộc vào các giai đoạn tố tụng. VKS với
chức năng là Cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt
động này, đặc biệt đối với lệnh tạm giam của Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan
điều tra các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Thời hạn mà Viện kiểm sát
phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của
Cơ quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê
chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ
6
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn
hay không
2.4 Thủ tục tạm giam.
Với tính chất là BPNC nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của người bị áp dụng
trong một khoảng thời gian nhất định nên việc tạm giam phải tuân thủ theo đúng
quy định của pháp luật.
Việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giam
phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của
người bị tạm giam; lý do tạm giam; thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm
giam một bản.
Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước
của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường
hợp nhầm lẫn. Đồng thời, cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho
gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan,
tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như
các cơ quan tổ chức biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm
kiếm không cần thiết, gây tốn kém.
2.5 Thời hạn tạm giam.
Trong BLTTHS 2003 thời hạn tạm giam không được quy định tập trung ở một
điều luật mà được quy định theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng. Cụ thể, thời
hạn tạm giam trong tố tụng hình sự được chia thành:
Thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 120 BLTTHS 2003),
Thời hạn tạm giam để truy tố (Điều166 BLTTHS 2003),
Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm (Điều 176, 177 BLTTHS 2003),
Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm (Điều 242, 243 BLTTHS 2003)
Thời hạn tạm giam để thi hành án (Điều 228 BLTTHS 2003).
2.6 Chế độ tạm giữ, tạm giam.
BLTTHS quy định không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa
án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị tạm giữ, tạm giam là người chưa bị coi là có
tội và biện pháp tạm giữ, tạm giam cũng chỉ nhằm ngăn chặn tội phạm và hành vi
trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội
chứ không phải nhằm mục đích trừng trị người phạm tội. Chính vì vậy, Điều 89
7
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
BLTTHS quy định chế độ tạm giam, tạm giữ khác với chế độ đối với người đang
chấp hành hình phạt tù. Người bị tạm giam, tạm giữ chỉ chấp hành quy định về nơi
tạm giam, tạm giữ, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ
khác. Các cơ quan có chức năng quản lí các nhà tạm giữ, trại tạm giam có quyền
và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ, đúng chế độ pháp luật đối với người bị tạm
giữ, tạm giam. Cụ thể là chế độ về ăn, ở, sinh hoạt, phòng bệnh, chữa bệnh, nhận
quà tiếp của gia đình, liên hệ với gia đình và các chế độ khác.
2.7 Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản của
người bị tạm giữ, tạm giam.
Việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam không chỉ trực tiếp tác động đến
các quyền, lợi ích của người bị tạm giữ, tạm giam mà còn liên quan đến các quyền,
lợi ích của những người thân thích của họ. Để thực hiện chính sách nhân đạo và
bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, tạm giữ
BLTTHS quy định việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người
bị tạm giữ, tạm giam.
Theo quy định tại Điều 90 BLTTHS, khi áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm
giam, nếu người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc
người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc thì cơ quan
ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích
chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân
thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, tạm giam giao những người đó cho chính
quyền sở tại chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc
tài sản khác mà không có người trông nom bảo quản thì cơ quan ra lệnh bắt giữ,
tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản, cơ quan đã
ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam phải thông báo cho người bị tạm giữ, tạm
giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
II – Một số kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng biện pháp tạm giam.
1. Thực tiễn của việc tạm giam trong thời gian qua ở nước ta:
1.1 Những kết quả đạt được:
8
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
Có thể nói việc áp dụng BPNC tạm giam trong TTHS đã góp phần mang lại
hiệu quả rất lớn trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta trong
thời gian qua. Hàng loạt các vụ án được khám phá nhanh chóng, kịp thời đáp ứng
nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, các quyền và lợi ích của nhân dân được
tôn trọng và bảo vệ.
Đại đa số các trường hợp tạm giam là có căn cứ, đúng pháp luật, tình trạng
tạm giam không có lệnh, tạm giam quá thời hạn đã từng bước được khắc phục.
Những trường hợp không cần thiết phải tạm giam các cơ quan tiến hành tố tụng đã
mạnh dạn áp dụng các BPNC khác.
Năm
Số người bị
Số lệnh bắt tạm giam
Số lệnh tạm giam
2005
2006
2007
2008
2009
tạm giam
92.368
105.094
107.999
110.939
135.012
không được phê chuẩn
327
394
239
298
178
không được phê chuẩn
329
350
341
334
190
1
Nhận xét: Năm 2006 so với cùng kì năm 2005, số người bị tạm giam. tăng
1,14% (105.094/92.368). Năm 2007 so với cùng kì năm 2006, sô người tạm giam
tăng 1,03% (107.999/105.094). Năm 2008 so với cùng kì năm 2007, số người bị
tạm giam tăng 2,72% (110.939/107.999). Năm 2009 so với cùng kì năm 2008, số
ngượi bị tạm giam tăng 21,6% (135.012/110.939). Nhìn chung việc phê chuẩn tạm
giam của Viện kiểm sát là có căn cứ và đúng pháp luật. Những trường hợp viện
kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt tạm giam, lệnh tạm giam đều đảm bảo có căn
cứ và thận trọng. Việc thực hiện chế độ ăn, mặc, ở và khám, chữa bệnh đối với
người bị tạm giam trong thời gian qua được đảm bảo theo quy định của pháp
luật.
1.2 Những khó khăn, bất cập:
Ở mỗi giai đoạn TTHS, BPNC tạm giam được cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng nhằm mục đích bảo đảm cho việc hoàn thành chức năng nhiệm vụ của mình.
1
Báo cáo tổng kết công tác việc tạm giữ, tạm giam quản lí và giáo dục người chấp hành hình phạt
tù năm 2008 và 2009 của Vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lí giáo dục người chấp hành hình
phạt tù – VKSNDTC
9
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
Tuy nhiên trên thực tế, việc áp dụng BPNC tạm giam trong các giai đoạn tố tụng
đôi khi còn gặp những khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục, cụ thể là:
Về đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam, BLTTHS chỉ quy định áp
dụng đối với người là bị can, bị cáo nhưng trên thực tế, những đối tượng không
phải là bị can, bị cáo nhưng vẫn phải áp dụng biện pháp tạm giam. Đó là những đối
tượng đã bị Tòa án tuyên phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình đã hết
thời hạn tạm giam mà chưa được thi hành án ngay thì phải tạm giam để chờ thi
hành án (Điều 243, Điều 288 BLTTHS), trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử
hầu hết những người phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
đều bị tạm giam.
Nhiều quy định của pháp luật có liên quan đến việc bảo vệ quyền của
người bị bắt, người bị tạm giam khó thực hiện có hiệu quả. Nguyên nhân trước hết
vẫn là các quy định của pháp luật chưa đồng bộ, chưa cụ thể rõ ràng, chưa đầy đủ
như khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy định: “… người già yếu,… mà có nơi cư trú rõ
ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác trừ trường hợp
luật quy định” nhưng không có giải thích lứa tuổi nào là già yếu, do vậy, trong
thực tiễn thường bị phủ nhận bởi ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng.
BLTTHS không quy định căn cứ cụ thể bắt bị can, bị cáo để tạm giam nên việc bắt
thường dựa vào căn cứ tạm giam dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất.
Trong căn cứ tạm giam đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên quy định tại
khoản 2 Điều 303 BLTTHS: “… người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể bị
tạm giam trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy đối với trường hợp người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do vô ý thì
không thể áp dụng BPNC tạm giam đối với họ vì bất cứ lí do gì. Thế nhưng trên
thực tế, số người vị thành niên phạm các tội ít nghiêm trọng như tội quy định tại
khoản 1 các Điều 104, 138, 139 BLHS… về tội cố ý gây thương tích, trộm cắp tài
sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản… hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý như tội quy
định tại khoản 1 Điều 202 BLHS về vi phạm các quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ… Cũng có trường hợp, nhiều bị can, bị cáo chưa thành
niên phạm tội ít nghiêm trọng được tại ngoại đã bỏ trốn nhiều lần và bị bắt theo
lệnh truy nã; khi Cơ quan điều tra, Tòa án trao đổi để áp dụng BPNC tạm giam đối
10
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
với họ thì Viện kiểm sát không biết xử lí ra sao vì theo quy định tại khoản 2 Điều
303 thì không có căn cứ để áp dụng BPNC tạm giam đối với trường hợp này.
Tiếp theo là về tình trạng tạm giam quá thời hạn. Theo quy định của
BLTTHS, thời hạn tạm giam được xác định cụ thể ở từng giai đoạn tố tụng hình
sự. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn khá nhiều trường hợp tạm giam quá hạn, nhất là
ở giai đoạn điều tra đối với một số vụ án có quá nhiều tình tiết phức tạp và có
nhiều bị can. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người bị tạm giam,
gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân vào cơ quan có thẩm quyền trong TTHS
nói chung và việc tạm giam nói riêng.
Bên cạnh đó còn có những vi phạm về chế độ tạm giam. Tình trạng người
bị tạm giam chết hoặc tự tử trong nhà tạm giam đôi khi còn xảy ra ở một số trại
tạm giam. Tình trạng giam giữ quá tải vẫn chưa được khắc phục. Một số trại giam
vượt quá quy mô giam giữ, do đó chỗ nằm tối thiểu của người bị tạm giam không
đảm bảo. Việc cấp phát các đồ dùng sinh hoạt thiết yếu ở một số nơi còn thiếu…. 2
Do điều kiện trại giam nhiều nơi còn chật hẹp, tình hình tội phạm ngày càng gia
tăng, thực tế vẫn còn xảy ra tình trạng vi phạm về diện tích tối thiểu cho người bị
tạm giam; công tác quản lí trại giam còn chưa tốt nên vẫn còn xảy ra tình trạng
đánh nhau và bỏ trốn khỏi trại giam. Thêm nữa là hiện tượng cán bộ trại giam và
cán bộ điều tra có những hành động như đánh đập, ép cung đối với bị can bị tạm
giam. Có rất nhiều trường hợp người bị tạm giam bị chết trong trại giam mà
nguyên nhân có liên quan đến vấn đề bị đánh đập tra tấn như trường hợp cái chết
của anh Nguyễn Quốc Bảo tại Công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội được nhiều tờ
báo pháp luật đưa tin ngày 29/3/2010.
Tình trạng bị tạm giam dài hơn thời gian phạt tù mà toà án đã tuyên hiện
nay vẫn còn xảy ra trong thực tiễn nhưng pháp luật chưa quy định vấn đề giải
quyết bồi thường đối với người bị tạm giam trong trường hợp này. Theo Luật trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước thì đây không phải là trường hợp người bị tạm
giam được đòi bồi thường.3 Vấn đề này hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau
nhưng chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng trường hợp này cơ quan tiến hành
tố tụng phải xem xét bồi thường như đối với người bị oan. Việc một người bị tạm
2
Báo cáo tổng kết công tác việc tạm giữ, tạm giam quản lí và giáo dục người chấp hành hình phạt
tù năm 2009 của Vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lí giáo dục người chấp hành hình phạt tù –
VKSNDTC.
3
Theo Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (có hiệu lực từ ngày 1/1/2010)
11
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
giam với thời gian dài hơn thời hạn mà bản án đã tuyên hình phạt tù đối với họ là
trái pháp luật. Do bị tạm giam trái pháp luật nên quyền và lợi ích hợp pháp của họ
khó tránh khỏi bị ảnh hưởng. Do vậy, những người này phải có quyền yêu cầu các
cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường thiệt hại.4
2. Nguyên nhân của những bất cập trên.
Về mặt chủ quan, thì do ý thức của một số cơ quan, đơn vị, những người tham
gia tố tụng chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật tố tụng trong
quá trình áp dụng BPNC tạm giam như thủ tục, căn cứ, thẩm quyền áp dụng…
Về mặt khách quan là do điều kiện phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho các
hoạt động tố tụng chưa đầy đủ dẫn đến khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong khi hành vi thực hiện tội phạm ngày càng tinh
vi, khi bị phát hiện và truy nã thì chúng chống trả rất liều lĩnh gây khó khăn rất
nhiều cho Cơ quan điều tra. Đây là một trong những khó khăn rất lớn mà cơ quan
tiến hành tố tụng gặp phải trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tôi phạm nói
chung và trong việc áp dụng BPNC tạm giam nói riêng.
3. Về vấn đề hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện
pháp tạm giam.
Việc quy định và áp dụng BPNC tạm giam trong thời gian qua đã mang lại
những kết quả rất khả quan, góp phần to lớn trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm, song nó cũng bộc lộ những điểm yếu kém, bất cập cần được giải quyết,
tháo gỡ. Qua việc phân tích những tồn tại, bất cập và nguyên nhân dẫn đến tình
trạng này ở phần trên, em xin đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của chế độ tạm giam góp phần nâng cao hiệu quả của việc áp dụng BPNC tạm
giam này.
3.1 Biện pháp về hoàn thiện pháp luật:
Thứ nhất, trong BLTTHS hiện hành chưa đưa ra khái niệm về BPNC tạm
giam mà mới chỉ nêu ra đối tượng bị tạm giam tại Điều 88 BLTTHS. Như vậy, các
nhà làm luật nên đưa khái niệm BPNC tạm giam vào khoản 1 Điều 88 BLTTHS
2003 như sau:
“Điều 88. Tạm giam là biện pháp hạn chế tự do có thời hạn do Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong
4
Báo Đất Việt, số ra ngày 27/10/2009, Ở tù lố có được đòi bồi thường?
12
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
trường hợp nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội mà Bộ luật hình sự quy định
hình phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản
trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội; người phạm tội quả tang
hoặc bị bắt trong trường hợp khẩn cấp và người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù
chung thân đang trong thời gian thi hành án nhằm mục đích ngăn chặn người đó bỏ
trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
….”
Thứ hai, việc bắt giam bị cáo ngay tại phiên tòa cần có quy định theo
hướng là phải có lệnh tạm giam vì nếu chỉ tuyên trong phần quyết định của bản án
thì không thể tiếp tục tạm giam bị cáo, do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật, chưa được đem ra thi hành, trừ trường hợp bản án được đem ra thi hành ngay
theo quy định tại Khoản 2 Điều 255 BLTTHS.
Thứ ba, về vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì
BLTTHS nên quy định thời hạn phê chuẩn của Viện kiểm sát theo từng loại vụ án
đơn giản hay phức tạp. Hiện nay, tại khoản 3 Điều 88 có quy định về thời hạn của
Viện kiểm sát xem xét ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn là ba ngày kể
từ ngày nhận được được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan
đến việc tạm giam. Theo em. BLTTHS nên quy định thời hạn này theo mức độ của
từng vụ án đơn giản hay phức tạp. Nếu vụ án đơn giản, hồ sơ đầy đủ, rõ ràng thì
chỉ cần một ngày; còn đối với những vụ án tình tiết phức tạp, nhiều hồ sơ, tài liệu
thì cần phải quy định cho Viện kiểm sát có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu vụ
án trước khi phê chuẩn.
Thứ tư, , BLTTHS nên quy định thời hạn tạm giam để điều tra và thời hạn
điều tra bằng nhau vì có nhiều vụ án phức tạp, thời hạn điều tra thì vẫn còn mà thời
hạn tạm giam để điều tra thì đã hết, không thể tiếp tục tạm giam bị can, bị cáo được
nữa; vì vậy sẽ gây khó khăn cho Cơ quan điều tra cũng như quá trình xét xử.
Thứ năm trong xu thế cải cách tư pháp hiện nay, Nghị quyết số 49 –
NQ/TW ngày 02/06/2005 của bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đã nêu rõ
cần phải thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam:
“xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với
một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thảm quyền áp dụng biện pháp
tạm giam”. Theo đó, nên bỏ quy định Cơ quan điều tra có thẩm quyền áp dụng
13
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
BPNC tạm giam ở giai đoạn điều tra mà chỉ quy định Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát các cấp có thẩm quyền ra lệnh tạm giam ở giai đoạn này, có
thể trên cơ sở đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc do Viện kiểm sát tự quyết định
khi có căn cứ. Vì với quy định về thẩm quyền tạm giam tại Điều 88 BLTTHS thì
việc ra quyết định áp dụng BPNC tạm giam của Cơ quan điều tra phải được Viện
kiểm sát phê chuẩn, như vậy, nó sẽ chỉ mang tính hình thức
3.2 Giải pháp tăng cường năng lực và nâng cao phẩm chất đạo đức của
chủ thể áp dụng BPNC tạm giam:
Đôi vớ cơ quan điều tra : cần nâng cao chất lượng đội ngũ Điều tra viên,
thường xuyên mở các lớp huấn luyện nhằm nâng cao ý thức pháp luật, trình độ
nghiệp vụ cho Điều tra viên. Bởi vì trên thực tế Điều tra viên là người tiến hành tố
tụng trực tiếp điều tra lập hồ sơ vụ án, đề xuất thủ trưởng cơ quan Điều tra ra lệnh
tạm giam. Đặc biệt trong tình hình tội phạm ngày càng tinh vi với nhiều thủ đoạn
thì cũng đòi hỏi trình độ của Điều tra viên cũng ngày càng nâng cao hơn về nghiệp
vụ để nhận biết được rõ rằng đâu mới là hành vi phạm tội
Đối với Viện kiểm sát: Với chức năng là kiểm sát hoạt động tố tụng nói
chung trong đó việc áp dụng BPNC tạm giam nên vai trò của VKS có ý nghĩa rất
to lớn trong quá trình áp dụng biện pháp này. Chính vì vậy mà VKS cần kiểm sát
chặt chẽ việc phê chuẩn lệnh tạm giam, đảm bảo không gây khó dễ cho cơ quan
điều tra trong quá trình điều tra vụ án mà cũng không gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền của những người không thực sự phải tạm giam. Để thực hiện được điều
này thì VKS trước hết cần hoàn thiện toàn đội ngũ KSV, nâng cao nghiệp vụ, tăng
cường tập huấn cho đội ngũ Kiểm sát viên. Đồng thời VKS cũng phải tăng cường
hơn nữa hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của cơ quan
tiến hành tố tụng khác nhằm.
Đối với tòa án: cần phải tiến hành thường xuyên việc tập huấn nghiệp vụ
cho các thẩm phán và hội thẩm vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPNC tạm giam.
Cần có văn bản hướng dẫn chi tiết các trường hợp áp dụng, về thẩm quyền ra lệnh
bắt bị can, bị cáo để tạm giam của Chánh án,Phó chánh án và của HĐXX, về thời
hạn tạm giam trong từng giai đoạn của quá trình xét xử.
3.3 Các giải pháp việc xử lý các trường hợp vi phạm:
14
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
Cần phải nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong quá trình áp
dụng BPNC tạm giam bằng cách phải quy định rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm cũng
như chế tài của những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam nếu họ có
những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình để
nâng cao tinh thần trách nhiệm của họ, tránh xảy ra tình trạng oan sai, áp dụng biện
pháp tạm giam trái pháp luật. Hiện nay, pháp luật cũng đã có những quy định cụ
thể đối với trường hợp này. Vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra được quy định trong Nghị
quyết số 388 ngày 17/3/2003; còn trách nhiệm hình sự cũng đã được BLHS quy
định tại chương XXII BLHS 1999. Nhưng trong nhiều vụ án có liên quan đến sai
phạm của cá nhân có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật liên quan đến
tạm giam thì Cơ quan có thẩm quyền thường “nhắm mắt làm ngơ” hoặc giải quyết
qua loa cho xong chuyện gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Điều này cần
được các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nghiêm minh theo đúng quy định của
pháp luật.
C – KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất trong hệ thống các BPNC được quy
định trong BLTTHS Việt Nam. Việc áp dụng BPNC này đúng người, đúng tội, có
căn cứ pháp lí sẽ mang lại hiệu quả rất cao tạo thuận lợi cho cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình điều tra, xét xử và thi hành án hình sự. Ngược lại, nếu lợi dụng
BPNC tạm giam để giam giữ người không có căn cứ thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và lợi ích cơ bản của công dân, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân
vào cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nói chung và Cơ quan tố tụng nói riêng. Vì
vậy, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng BPNC tạm giam theo đúng
quy định của pháp luật để tránh tính trạng oan sai, vi phạm pháp luật, tạo niềm tin
trong quần chúng nhân dân.
15
Bài tập lớn học kì _ Đề bài số 6
Hà Thị Mai Na N05_TL4_Nhóm2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng
hình sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2004.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.
3. Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005.
4. Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
5. Hà Đình Hiệu, Khóa luận tốt nghiệp “Tạm giam trong tố tụng hình sự Một số vấn đề lí luận và thực tiễn”, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội 2010.
6. Nguyễn Văn Điệp, Luận án tiến sĩ Luật học: “Các biện pháp ngăn chặn
bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân
và giải pháp”, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2005.
16