Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tạm giam trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.62 KB, 18 trang )

Đề bài số 6 : Tạm giam trong tố tụng hình sự

Bài làm
Phần mở đầu
Trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS Việt Nam,
tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất và có tầm
quan trọng đặc biệt. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này đã tạo điều kiện cho các
cơ quan tiến hành tố tụng có thể tiến hành giải quyết được vụ án , ngăn chặn bị cáo
bỏ trốn hoặc tiếp tục hành vi phạm tội. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy việc áp
dụng chế định tạm giam vẫn còn nhiều bất cập cần phải hoàn thiện hơn. Trong
khuôn khổ bài tập học kì, em xin trình bày những hiểu biết của mình về chế định Tạm
giam trong tố tụng hình sự.

Phần nội dung
I.
1.

Nhận thức chung về biện pháp ngăn chặn tạm giam
Khái niệm biện pháp ngăn chặn

BLTTHS quy định một loạt các biện pháp cưỡng chế Nhà nước do cơ quan tiến
hành tố tụng áp dụng nhằm thực hiện những mục đích tố tụng nhất định. Căn
cứ vào mục đích của chúng có thể chia các biện pháp cưỡng chế thành các
nhóm:
Nhóm các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu thập chứng cứ như khám
người, khám chỗ ở..
Nhóm các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo cho quá trình tố tụng được tiến
hành bình thường và thuận lợi
Nhóm các biện pháp cướng chế nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người
có hành vi phạm tội bỏ trốn hoăc có hành vi gây khó khăn cho quá trình giải
quyết vụ án…


Khái niệm các biện pháp ngăn chặn được định nghĩa trong Giáo trình Luật tố
tụng hình sự :”là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng với vị can, bị
cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm
1


cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc
có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố , xét xử và thi hành án hình sự”
BLTTHS không đưa ra khái niệm thế nào là biện pháp ngăn chặn nhưng tại
điều 79 BLTTHS 2003 có quy định mục đích, thẩm quyền và các căn cứ áp dụng
biện pháp ngăn chặn như sau: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn
cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần đảm bảo thi hành án, thì cơ quan điều
tra, viện kiểm sát hoặc Tòa án có thể áp dụng một trong các Biện pháp ngăn
chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.”
2.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam

Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tạm giam. Trong sổ tay thuật ngữ
pháp lí thông dụng, tạm giam được hiểu :”là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc
nhất để cách li người bị tạm giam với xã hội trong một thời gian nhất định, hạn
chế một số quyền của công dân, do cơ quan điều tra, viện kiểm sát , tòa án áp
dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong những trường hợp nghiêm trọng
hoặc bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy định hình phạt tù trên một năm và
có căn cứ cho rằng người có có thể bỏ trốn hoặc cản trở viêc điều tra, xét xử
hoặc có thể tiếp tục phạm tội”. Khái niệm này đã nêu được thẩm quyền áp dụng
biện pháp tạm giam, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam, nhưng chưa nêu

được mục đích của việc áp dụng biện pháp tạm giam.
Trong giáo trình Luật tố tụng hình sự, Biện pháp ngăn chặn tạm giam được
hiểu :”Là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm
trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố , xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội” . Khái niệm này cũng vẫn chưa làm rõ được mục đích của việc áp
dụng biện pháp tạm giam.
2


Như vậy, cần phải có một khái niệm rõ hơn về biện pháp ngăn chăn tạm
giam.
Theo quy định của BLTTHS Việt Nam, hệ thống các biện pháp ngăn chặn có 6
biện pháp : bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong đó, biện pháp ngăn chặn tạm giam là
biện pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Các biện pháp như cấm đi khỏi
nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm chỉ ảnh hưởng
đến quyền tự do đi lại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích tài sản mà không ảnh hưởng
đến các quyền bất khả xâm phạm khác của công dân. Đối với biện pháp ngăn
chặn tạm giữ, bắt cũng là biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc cao, hạn
chế quyền tự do của công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do của công
dân trong bắt và tam giữ ngắn hơn nhiều so với thời gian hạn chế quyền tự do
của biện pháp tạm giam. Theo khoản 1 Điều 83 BLTTHs thì trong vòng 24 giờ
sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai , ra quyết định tạm giữ
hoặc trả tự do cho người bị bắt. Điều 87 BLTTHS cũng quy định thời hạn tạm
giữ là ba ngày và tối đa là 9 ngày đối với trường hợp có gia hạn tạm giữ. Trong
khi đó, tại khoản 2 Điều 120 BLTTHS thì thời hạn tạm giam để điều tra có thể

kéo dài tối đa lên tới 20 tháng. Như vậy, biện pháp tạm giam có tính nghiêm
khắc hơn hẳn so với các biện pháp ngăn chặn trên.
3.

Mục đích, ý nghĩa của biện pháp ngăn chặn tạm giam

Để giải quyết một vụ án hình sự, cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
và có sự tham gia của rất nhiều người như cơ quan tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên,
không phải lúc nào những người tham gia tố tụng đặc biệt là bị can, bị cáo
cũng tham gia tố tụng và thực hiện nghĩa vụ của mình một cách tự giác, có
nhiều trường hợp họ trốn tránh và cản trở viêc tiến hành tố tụng. Vì vậy, để
ngăn chặn và phòng ngừa việc bị can, bị cáo không thực hiện nghĩa vụ của
mình và ngăn chặn việc họ bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, pháp luật quy định
và cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng được áp dụng biện pháp ngăn chặn
3


tạm giam với bị can, bị cáo trong những trường hợp nhất định, khi có đủ các
căn cứ áp dụng theo quy định của BLTTHS. Việc quy định này là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa to lớn đối với đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm ở
nước ta hiện nay.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn do vậy mục đích của việc
tạm giam trước hết cũng là đảm bảo mục đích của các biện pháp ngăn chặn nói
chung, đó là tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự.
Theo quy định tại điều 88 BLTTHS thì biện pháp tạm giam có thể được áp dụng
nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo có thể bỏ trốn hoặc gây cản trở việc điều tra,
truy tố xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Mục đích của việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam được thể hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam để tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình điều tra xử lí tội phạm. Việc này sẽ đảm bảo sự có mặt của bị
can, bị cáo trong các hoạt động tố tụng khi cần thiết, bảo đảm để bản án tuyên
có điều kiện thi hành khi có hiệu lực pháp luật cũng như đảm bảo tính chính
xác, khách quan của các hoạt động tố tụng.
Thứ hai, việc quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thể hiện sự
cưỡng chế của nhà nước trong việc đấu tranh chống tội phạm góp phần nâng
cao hiệu quả quản lí Nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội. Biện pháp
này mang tính cưỡng chế sâu sắc, sử dụng quyền uy của Nhà nước để bắt buộc
những người đã thực hiện hành vi phạm tội phải tuân thủ các mệnh lệnh của
cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền theo luật định với mục
đích ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử cũng như thi hành án.
Thứ ba, việc quy định và áp dụng đúng Biện pháp ngăn chặn tạm giam tạo cơ
sở pháp lí vững chắc, góp phần bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của
công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân là một nguyên tắc quan trọng trong Tố tụng hình sự nước ta.
4


Do vậy, trong thời hạn tạm giam, cán bộ điều tra , truy tố xét xử cần phải đối xử
với bị can, bị cáo như một công dân bình thường.
Thứ tư, tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta. Đây là hoạt động
nhằm phục vụ quyền lợi nhân dân lao động. Pháp luật không cho phép một
hành vi trái pháp luật nào xâm phạm đến các quyền và lợi ích của công dân dù
hành vi đó là của cơ quan nhà nước hay là của người tiến hành tố tụng. Do đó,
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần phải nghiêm chỉnh chấp
hành các quy định của pháp luật về tạm giam. Mọi hành vi trái với quy định của
pháp luật sẽ bị xử lí theo pháp luật, có thể bị xử lí theo Điều 119 BLHS về tội bắt
giữ

người trái pháp luật.
BLTTHS cũng thể hiện được tính nhân đạo qua chế định tạm giam. Đó là các
quy định đối với người chưa thành niên ( Điều 3004 BLTTHS) và các quy định
về tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kì
nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư
trú rõ ràng ( khoản 2 Điều 88 BLTTHS).
4. Các căn cứ quy định biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự
4.1.
Căn cứ vào Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam

Hiến pháp quy định các quyền cơ bản của công dân và các quyền bất khả xâm
phạm của họ. Điều 71 Hiến pháp 1992 có quy định :” Công dân có quyền bất khả
xâm phạm về than thể , được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định
hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giữ
phải đúng pháp luật”.
Như vậy, Hiến pháp là một căn cứ pháp luật để BLTTHS có thể đưa ra các quy
định về biện pháp ngăn chặn, cụ thể là biện pháp ngăn chặn tạm giam.
4.2.

Căn cứ vào các quy định của BLHS

Sự ra đời của BLHS năm 1985 đã dẫn đến sự xuất hiện của BLTTHS đầu tiên
của nước ta năm 1988 nhằm quy định về các trình tự, thủ tục để giải quyết vụ
án hình sự và các vấn đề có liên quan. Qua mỗi lần BLHS được sửa đổi, BLTTHS
5


cũng được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với các quy phạm của BLHS. BLHS năm
1999 ra đời với rất nhiều thay đổi trong các quy định tại phần chung và phần

riêng đòi hỏi các quy phạm của BLTTHS cũng phải thay đổi để phù hợp. Vì vậy,
BLTTHS năm 2003 ra đời, với rất nhiều sửa đổi bổ sung trong quy định về trình
tự, thủ tục của việc khởi tố, truy tố xét xử vụ án hình sự nói chung và Biện pháp
ngăn chặn tạm giam nói riêng.
4.3.

Căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS

Đây là cơ sở cho việc quy định và thực hiện các hoạt động của TTHS. CHính vì
vậy, trong bất kì một chế định nào, kể cả chế định về Biện pháp ngăn chặn tạm
giam, các nhà làm luật phải dựa vào các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS như :
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc đảm
bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, nguyên tắc không ai bị
coi là có tội nếu như chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án…
4.4.

Căn cứ vào chủ trương đường lối của Đảng, chính sách nhà nước
trong từng thời kì cách mạng.

Trong bất kể một xã hội nào, nếu còn các hành vi vi phạm pháp luật thì còn
những biện pháp trừng phạt, ngăn ngừa tất yếu được áp dụng. Ở nước ta, việc
áp dụng biện pháp tạm giam trong từng thời kì cách mạng, từng thời điểm
khác nhau của đất nước là khác nhau, căn cứ vào chủ trương, đường lối của
đất nước trong từng thời kì. Nếu như trước đây, trong thời kì đấu tranh cách
mạng, biện pháp tạm giam được coi là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất
được áp dụng đối với mọi đối tượng bị nghi là phạm pháp thì ngày nay, để
tránh tình trạng lạm dụng trong việc tạm giữ người gây nên những bất cập và
những ảnh hưởng không tốt trong dư luận quân chúng và làm cho các quyền
và lợi ích của công dân bị xâm hại, trong chương trình cải cách tư pháp, đặc

biệt là Nghị quyết 49 – NQ/TW của Bộ chính trị có yêu cầu :” Xác định rõ căn cứ
tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội
phạm, thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện
pháp tạm giam”.
6


Như vậy, việc quy định này đã hạn chế được những bất cập trước đó, và bảo
đảm được các quyền cơ bản của công dân.
Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của Tố tụng hình sự Việt

II.

1.

Nam
Đối tượng bị tạm giam

Khoản 1 Điều 88 quy định :” Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị
cáo trong những trường hợp sau đây:
a)
b)

Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng;
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ
Luật Hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể
tiếp tục phạm tội”

Theo quy định trên thì đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị

can, bị cáo. Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng biện pháp
tạm giam mà chỉ áp dụng biện pháp này đối với họ trong những trường hợp
sau:
Trường hợp thứ nhất, bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội
rất nghiêm trọng. Nếu họ ở trong trường hợp này, những người có thẩm quyền
có thể ra lệnh tạm giam có thể ra lệnh tạm giam ngay mà không cần có thêm
các căn cứ khác.
Trường hợp thứ hai: bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng
mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có
thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Như vậy, trong trường hợp này, để có thể ra quyết định tạm giam thì cần phải
thỏa mãn ba điều kiện:
-

Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo
Họ phạm tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà trong BLHS quy

-

định hình phạt trên hai năm
Phải có căn cứ cho rằng họ có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố
xét xử hoặc có thể tiếp tuc phạm tội.

7


Để xác định bị can, bị cáo có thể cản trở việc điều tra, truy tố xét xử hoặc bỏ
trốn thì thường phải căn cứ vào yêu cầu của việc điều tra, xét xử và tính cần
thiết phải ngăn chặn tội phạm, nhân thân của bị can , bị cáo hoặc những vi
phạm nghĩa vụ của bị can , bị cáo khi được áp dụng những biện pháp ngăn

chặn ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam. Chỉ khi có đầy đủ ba điều kiện
trên thì mới quyết định tạm giam.


Những trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam

Khoản 2 điều 88 quy định:”Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang
nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng
mà nơi cư trú rõ ràng thì không áp dụng tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn
chặn khác..”
Tuy nhiên các đối tượng đặc biệt này vẫn có thể bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam nếu :”Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã
Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử
Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng
nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”
2.

Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam

BLTTHS không trực tiếp quy định căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam mà chỉ quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn. Điều 79
BLTTHS quy định:” Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng
tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp
tục phạm tội , cũng như khi cần đảm bảo thi hành án…”. Đó là các căn cứ để áp
dụng biện pháp ngăn chặn. Biện pháp ngăn chặn tạm giam cũng áp dụng điều
luật này để làm căn cứ áp dụng.
Trong số các căn cứ kể trên, căn cứ để kịp thời ngăn chăn tội phạm chỉ áp dụng
cho các trường hợp bắt người phạm tội quả tang theo khoản 1 điều 82 hoặc
bắt người trong trường hợp khẩn cấp theo điểm a khoản 1 điều 81 BLTTHS

nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hoặc
hoàn thành hoặc không để người phạm tội kết thúc hành vi của mình.
8


Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm:
-

Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử

Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thể hiện qua việc
sau khi thực hiện hành vi phạm tội , người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn,
tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, bàn bạc
nhau trốn tránh pháp luật…dẫn đến việc gây khó khăn phức tạp cho việc xác
định, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
-

Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội.

Những căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội có thể được thể hiện
qua yếu tố phản ảnh về nhân thân của bị can, bị cáo…hoặc hành vi đe dọa
người làm chứng nếu như họ đứng ra làm nhân chứng cho vụ án.
-

Để đảm bảo thi hành án

Các bản án khi đã có hiệu lực cần được đưa ra thi hành. Việc tạo điều kiện để
thi hành án là vấn đề rất quan trọng. Tùy theo tính chất cụ thể của từng vụ án,
tùy theo nhân thân của người bị kết ánTòa án có thể áp dụng Biện pháp ngăn

chặn thích hợp, trong đó có biện pháp ngăn chặn tạm giam. Trong trường hợp
nếu có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo không bỏ trốn, không gây cản trở đối với
quá trình thi hành bản án thì không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam mà có thể áp dụng các biện pháp khác.
3.

Thẩm quyền ra lệnh tạm giam

Khoản 3 điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:”Những người có thẩm quyền
ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này đều có quyền ra lệnh tạm
giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d Khoản 1 Điều
80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành. “
Điểm d khoản 1 điều 80 quy định:” Thủ trưởng , Phó thủ trưởng cơ quan điều
tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp
phê chuẩn trước khi thi hành”.
9


Theo quy định tại hai điều luật này thì có thể thấy rằng về thực chất quyết định
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ
quan điều tra các cấp chỉ mang tính hình thức, còn thực chất thì các quyết định
này do Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định.
4.

Thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam

Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của
người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định, nên khi áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định.

Theo quy định cuả Bộ luật tố tụng hình sự thì để có thể áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam thì phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do người có thẩm
quyền kí. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày tháng, năm, họ tên chức vụ của
người ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, lý do tạm giam , thời hạn
tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản. Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ
quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm
xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn. Đồng thời
cơ quan đã ra lệnh tạm giam phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm
giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan tổ chức nới người
bị tạm gia cư trú hoặc làm việc để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ chức
biết được sự việc và không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm thông báo
không cần thiết, gây tốn kém.
5.

Thời hạn tạm giam

Thời hạn tạm giam không được quy định trong một điều luật mà quy định theo
từng giai đoạn của quá trình tố tụng. được chia thành các giai đoạn : Tạm giam
để điều tra, tạm giam trong giai đoạn truy tố, tạm giam để xét xử sơ thẩm, tạm
giam để xét xử phúc thẩm và tạm giam để đảm bảo thi hành án.
5.1.

Tạm giam để điều tra

Vấn đề này được quy định trong BLTTHS tại điều 120. Theo đó:” Thời hạn tạm
giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng , không quá
ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng , không quá bốn tháng đối với tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Ngoài ra còn có
10



thể gia hạn tạm giam đối với những trường hợp xét thấy cần có nhiều thời gian
để điều tra.
So sánh với điều 119 BLTTHS thì thời hạn tạm giam bằng với thời hạn điều tra,
thời hạn gia hạn tạm giam đối với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất
nghiêm trọng ngắn hơn , nhằm hạn chế việc lạm dụng lệnh tạm giam, đồng thời
đảm bảo cơ quan điều tra cần phải đẩy nhanh tiến độ giải quyêt vụ án, nế
không thời hạn tạm giam với bị cáo sẽ hết mặc dù thời hạn điều tra vẫn còn.
5.2.

Tạm giam trong giai đoạn Truy tố

Khoản 2 điều 166 BLTTHS quy định :”Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có
quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, yêu cầu
cơ quan điều tra truy nã bị can, Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn
quy định tại khoản 1 Điều này” . Theo đó, thời hạn tạm giam đối với tội phạm ít
nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng có thể lên đến 30 ngày, đối với tội rất
nghiêm trọng có thể lên đến 40 ngày , đối với tội đặc biệt nhghieem trọng có
thể lên đến 60 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và quyết định điều tra.
5.3.

Tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Điều 177 BLTTHS quy định :”thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được
quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật này”. Theo quy
định tại điều 176 BLTTHS thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối với tội
phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng , hai tháng đối
với tội pham rất nghiêm trọng và ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Đối với những vụ án phức tạp thì
Chánh án tòa án có thể quyết định gia hạn nhưng không quá mười lăm ngày

đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi
ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sau
khi có quyết định đưa ra xét xử thì thời hạn tạm giam để mở phiên tòa là từ
mười lăm ngày đến ba mươi ngày. Ngoài ra, đối với bị cáo đang bị tạm giam
mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết thì
tòa án có thể ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
5.4.

Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm
11


Theo quy định tại Điều 243 BLTTHS năm 2003 thì sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa
án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ Biện
pháp ngăn chặn. Việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm
giam do chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu,
Chánh tòa, Phó chánh tòa phúc thẩm TANDTC quyết định. Thời hạn tạm giam
không được quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 BLTTHS. Tức
là thời hạn tạm giam không được quá sáu mươi ngày đối với TAND cấp tỉnh và
TAQS cấp quân khu,và không được quá chín mươi ngày đối với Tòa án nhân
dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương.
5.5.

Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án

Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm , Hội đồng xét xử có thể quyết định
việc tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo
quy định tại điều 228 BLTTHS thì thời hạn tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành
án là bốn mươi lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Tại phiên tòa phúc thẩm, theo quy
định tại Điều 243 BLTTHS thì nếu bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến

ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm
giam cho bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm
ngày, kể từ ngày tuyên án.
6. Các quy định chung khác về Biện pháp ngăn chặn tạm giam
6.1.
Chế độ tạm giam

Tạm giam khác với giam giữ, đây chỉ là một biện pháp ngăn chặn để thuận lợi
cho việc xét xử vụ án, không phải là hình phạt tù, nên chế độ tạm giam khác với
chế độ của người đang chấp hành hình phạt tù. Theo đó, chế độ cụ thể này được
quy định tại Điều 89 BLTTHS như sau:” Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế
độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ
sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện
theo quy định của Chính phủ.”
6.2.

Chế độ chăm nom

12


Người bị tạm giam được khấu trừ phần hình phạt của mình theo quy định tại
Điều 33 BLHS năm 2005 :” Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn
chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.”
Chế độ chăm nom cũng được quy định rõ trong BLTTHS năm 2003.
III.

Thực trạng tình hình tạm giam, những tồn tại, nguyên nhân và giải
pháp


Có thể nói rằng việc áp dụng biện pháp tạm giam trng TTHS đã mang lại những
hiệu quả rất lớn, đã góp phần rất lớn để quá trình tiến hành tố tụng được diễn
ra một cách có hiệu quả hơn, đồng thời có tác dụng lớn đối với quá trình đấu
tranh phòng chống tội phạm ở nước ta hiện nay.
Khi áp dụng biện pháp này, bởi vì nó trực tiếp xâm hại đến quyền lợi ích hợp
pháp của công dân nên các cơ quan có thẩm quyền luôn chú trọng tuân thủ
những quy định của pháp luật nhằm bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can bị cáo. Đại đa số các trường hợp tạm giam đều có căn cứ
pháp luật, đúng đối tượng, thẩm quyền và thủ tục pháp luật theo quy định của
pháp luật.
Tuy nhiên, có thể nói rằng vẫn còn khá nhiều bất cập đối với chế định tạm giam.
Thứ nhất, vướng mắc về căn cứ tạm giam đối với người chưa thành niên.
Khoản 2 điều 303 BLTTHS 2003 quy định :”người từ đủ mười sáu tuổi đến dưới
mười tám tuổi chỉ có thể bị tạm giam trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng
do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”. Như
vậy, đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội
nghiêm trọng do vô ý thì không thể bắt họ để tạm giam vì bất cứ lí do gì. Thực
tế cho thấy có nhiều trường hợp bị can bị cáo là người chưa thành niên phạm
tội ít nghiêm trọng được tại ngoại đã bỏ trốn nhiều lần và bị bắt theo lệnh truy
nã, nhưng khi cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam thì Viện
kiểm sát không biết xử lí như thế nào vì không có một quy định nào của Luật
quy định về vấn đề này. Như vậy, dù có thực sự cần phải bắt thì kẻ phạm tội vẫn
cứ được nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật mà không có cách giải quyết thỏa
đáng. Đây là một bất cập lớn mà Luật nên sửa đổi cho phù hợp với thực tế.
13


Thứ hai,vướng mắc về thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra
Theo quy định tại điều 120 BLTTHS thì thời hạn tạm giam để điều tra không quá
ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, 9 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng,

16 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi đó, điều 119 BLTTHS lại
quy định thời hạn điều tra là 4 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 12 tháng đối
với tội phạm nghiêm trọng,16 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng. Quy định thời hạn tạm giam ngắn hơn thời hạn điều tra để tránh tình
trạng cơ quan điều tra có thể lạm dụng để kéo dài thời hạn, không tập trung và dẫn
đến tình trạng làm việc không hiệu quả. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử lại cho
thấy thời hạn điều tra dài hơn thời hạn tạm giam để điều tra lại gây ra những bất
cập lớn. Đối với những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, khi đã hết thời hạn tạm
giam kể cả gia hạn tạm giammà vẫn chưa thể điều tra xong thì không thể trả tự do
cho bị can được. Nhưng nếu không trả thì lại vi phạm luật, lại xâm phạm đến quyền
lợi của công dân. Nếu trả thì rất có thể bị can sẽ bỏ trốn gây khó khăn cho hoạt
động điều tra hoặc có thể sẽ lại phạm tội tiếp. Như vậy, trong trường hợp này, cơ
quan điều tra sẽ không biết phải xử lí như thế nào. Liệu áp dụng các biện pháp ngăn
chặn thay thế khác có đảm bảo được cho quá trình tiến hành tố tụng được diễn ra
suôn sẻ? Đây là một vướng mắc mà các nhà làm luật nên sửa đổi để phù hợp hơn.
thẩm quyền áp dụng. cơ quan điều tra chỉ mang tính hình thức, còn lại là vks
Thứ ba, còn tồn tại nhiều vi phạm pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giam như tình trạng tạm giam quá thời hạn mà có thể nguyên nhân
là do những bất cập liên quan đến thời hạn điều tra. Hay như về chế độ tạm
giam cũng có nhiều bất cập. Có nhiều cán bộ tạm giam đã đối xử không tốt đối
với người bị tạm giam, họ có những lời lẽ xúc phạm hoặc có những hành động
đánh đập , ép cung đối với bị can bị tạm giam. Thực tế này đang gây rất nhiều
bức xúc trong người dân. Hơn thế nữa, diện tích cho bị can bị cáo bị tạm giam
hiện nay là còn quá thiếu thốn, nên chưa đảm bảo được diện tích tối thiểu cho
một bị can, bị cáo bị tạm giam.
Thứ tư, về thẩm quyền ra lệnh tạm giam, như đã trình bày ở trên, cơ quan điều
tr thực tế chỉ ra những quyết định tạm giam mang tính hình thức, còn có được
14



thông qua hay không là do sự đồng ý của Viện kiểm sát. Đây là một bất cập
trong quy định của pháp luật

-

Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như:
Xuất phát từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

Các cơ quan tiến hành tố tụng. người tiến hành tố tụng chưa nhận thức đúng
về tính hệ trọng của tạm giam dẫn đến tình trạng tạm giam một cách bừa bãi,
thiếu căn cứ và trái pháp luật .
Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực giam giữ chưa được
Viện kiểm sát ở nhiều địa phương kiểm tra thường xuyên và đều khắp.
Điều kiện cần thiết để đảm bảo cho công tác tạm giam chưa được chú trọng
đúng mức, cơ sở vật chất thiếu thốn, kinh phí để xây dựng sửa chữa còn hạn
hẹp nên nhiều trại tạm giam bị xuống cấp…
-

Tiếp theo là những nguyên nhân thuộc về công tác xây dựng pháp luật.

Đối tượng và các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam hiện nay Luật chưa dự
liệu hết, về thẩm quyền ra lệnh tạm giam cũng còn nhiều vướng mắc cần phải
được tiếp tục hoàn thiện, thủ tục tạm giam hiện nay cũng chưa được quy định cụ
thể chặt chẽ…
Từ đó có thể khuyến nghị một số giải pháp để hoàn thiện chế định về biện pháp
ngăn chặn tạm giam như sau:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức về tính hệ trọng của tạm giam đối với các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cần tổ chức thường xuyên
những lớp tập huấn ngăn hạn về từng chuyên đề tố tụng hình sự, chú trọng hơn
nữa đến công tác tạm giam nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ, kiến thức pháp

luật cho những người có trách nhiệm và quyền hạn trong việc tạm giam.
Thứ hai, Cần tăng cường hơn nữa công tác kiểm sát giam giữ nhằm khắc phục
tình trạng tạm giam nhiều lần, không đúng đối tượng, tạm giam quá hạn. Bổ
sung cán bộ làm công tác giam giữ, xử lí nghiêm những trường hợp vi phạm.
Thứ ba, cần có một khái niệm cụ thể rõ ràng hơn về khái niệm biện pháp ngăn
chặn tạm giam để có thể hiểu rõ đầy đủ bản chất của biện pháp ngăn chặn này.
15


Thứ tư, cần có sự điều chỉnh các quy định về tạm giam đối với bị can, bị cáo là
người chưa thành niên, về thẩm quyền ra quyết định tạm giam, về thời hạn tạm
giam để có thể phù hợp với thực tiễn và yêu cầu của pháp luật hơn nữa.

Lời kết
Chế định tạm giam là một trong những chế định phức tạp , quan trọng của luật
tố tụng hình sự. Là cơ sở pháp lí để đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự
được tiến hành thuận lợi đồng thời còn là phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các
quyền tự do dân chủ của công dân. Việc năm vững bản chất pháp lí của chế
định này sẽ giúp cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả
cao, hạn chế tình trạng oan sai trong việc áp dụng biện pháp tạm giam từ phía
các cơ quan tiến hành tố tụng.

Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Công trình dự thi Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2001, tên đề

2.

tài :”Biện pháp tmaj giam trong tố tụng hình sự”.

Tạm giữ, tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt Nam, luận án tiến sĩ Luật

3.

học, Phan Thanh Bình, 1996
Các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt
Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án tiến sĩ Luật học,

4.
5.
6.

NGuyễn Văn Điệp, 2005.
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, nxb.CAND, 2009
Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003

16


Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
I.
1.
2.
3.
4.

Nhận thức chung về biện pháp ngăn chặn tạm giam

Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam
Mục đích, ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam
Căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của Pháp

II.
1.
2.
3.
4.
5.
6.
III.

luật Việt Nam
Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của pháp luật hiện hành
Đối tượng áp dụng
Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Thẩm quyền ra quyết định tạm giam
Thủ tục tạm giam
Thời hạn tạm giam
Các quy định khác về tạm giam
Thực trạng, tồn tại, nguyên nhân và giải pháp để hoàn thiện chế định
tạm giam

Lời kết
17


Danh mục tài liệu tham khảo


18



×