Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách và thực tế áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.39 KB, 14 trang )

Mục lục

MỞ ĐẦU
Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề quan trọng được đặt ra đối với
mỗi Nhà nước, nó đảm bảo cho Nhà nước đó thực hiện tốt chức năng và nhiệm
vụ của mình. Cân đối ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng vì ngân sách
nhà nước là một công cụ tài chính cốt yếu đề Nhà nước điều phối toàn bộ xã
hội, giải quyết những vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại cuộc sống đầy đủ
hơn cho người dân…Và để đảm bảo tốt vai trò của Nhà nước nói trên thì ngân
sách nhà nước phải được cân đối. Do đó, trong bài viết này em xin đi nghiên cứu
vấn đề: “Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
theo Luật Ngân sách và thực tế áp dụng”.
NỘI DUNG
I. Những lý luận chung về nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
1. Khái niệm về cân đối ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước ( NSNN) là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước (Điều 1 Luật
ngân sách 2002). NSNN là một phạm trù vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang
tính chất pháp lý. Dưới góc độ kinh tế, ngân sách nhà nước được hiểu là bản dự
toán các khoản thu và chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan có thẩm quyền
của nhà nước quyết định để thực hiện trong thời hạn thất định, thường là một
năm. Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, NSNN lại được hiểu là một đạo luật đặc
biệt do quốc hội ban hành để cho phép chính phủ thực hiện trong thời hạn xác
định.

1


Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bải cho ngân sách nhà
nước được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan giữa tài chính


và kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới huy động được nguồn thu
vào ngân sách nhà nước, còn kinh tế không ổn định, kém phát triển thì nguồn
thu vào ngân sách nhà nước giảm và còn phải chi nhiều để hỗ trợ. Giữa các
khoản thu và các khoản thu trong NSNN có mối quan hệ rất khăng khít, hai
chiều qua lại. Các khoản thu chính là tiền đề để chi, là căn cứ định lượng để đề
ra giới hạn chi. Nói một cách đơn giản thì có thu mới có chi. Ngược lại, chi ngân
sách chính là động lực cho nền kinh tế phát triển, qua đó tạo ra các khoản thu
cho ngân sách. Trong mọi nền kinh tế, nguy cơ mất cân đối ngân sách nhà nước
luôn tồn tại và trở thành một thách thức với các chính phủ.
Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu
mà nhà nước huy động được tập chung vào ngân sách nhà nước trong một năm
và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của nhà nước
trong năm đó.
Xét trên góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương
quan giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa
tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản
thu và cơ cấu các khoản chi của NSNN.
Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà
nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách,
giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau nhằm thực hiện
chức năng và nhiệm vụ được giao. Như vậy, cân đối NSNN không chỉ đơn thuần
là sự cân bằng về số lượng biểu hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi
mà nó còn biểu hiện qua các khía cạnh khác nhau.
Như vậy ta có thể hiểu về cân đối NSNN như sau: Cân đối NSNN là một bộ
phận quan trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ
tương tác giữa thu và chi NSNN nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà
nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực, địa bàn cụ thể.
2



2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
Thứ nhất, cân đối NSNN phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi
NSNN nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tài khóa. Nó vừa là công cụ
thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, vừa bị ảnh hưởng
bởi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
Thứ hai, cân đối NSNN bao gồm cân đối giữa tổng thu và tổng chi, cân
đối giữa các khoản thu và các khoản chi NSNN, cân đối về phân bổ chuyển giao
nguồn lực giữa các các cấp trong hệ thống NSNN, đồng thời phải kiểm soát
được tình trạng NSNN để qua đó thực hiện được các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và từng lĩnh vực, địa bàn.
Thứ ba, cân đối NSNN mang tính định lượng và tính tiên liệu. Trong quá
trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số thu,
chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng
khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với
hoạt động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các
cấp ngân sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu,
chi ngân sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu,
chi ngân sách một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội.
3. Vai trò của việc thực hiện nguyên tắc cấn đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can
thiệp vào hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì
cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
Thứ nhất, việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước thực hiện cân đối NSNN thông qua chính
sách thuế, chính sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có
nhiều tác động đến hoạt động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ
đó góp phần ổn định việc thực hiện các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô
3



như: tăng trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỉ lệ thất
nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự đoán được…
Thứ hai, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước góp phần
phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính có hiệu quả. Giữa việc thực hiện nguyên
tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước với việc phân bổ, sử dụng
nguồn lực tài chính có hiệu quả là mối quan hệ nhân quả liên hoàn. Cân đối
NSNN góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính có hiệu quả. Ngược lại,
phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính hiệu quả sẽ giúp cho cân đối ngân sách kì
sau thuận lợi hơn. Đảm bảo được vai trò ngay từ khi lập dự toán, nhà nước đã
lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết
chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với công tác lập kế hoạch
ngân sách. Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước
phân định nguồn thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa
các địa phương với nhau thì sẽ đảm bảo thực hiện được tốt hơn các mục tiêu
kinh tế - xã hội đã đề ra.
Thứ ba, thực hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN góp phần điều
chỉnh chủ kỳ kinh tế. Do sự chi phối của quy luật kinh tế khách quan, nền kinh
tế thị trường vận hành theo tính chu kỳ của nó. Khi nền kinh tế đi vào giai đoạn
suy thoái, với chính sách tài khóa mở rộng như giảm thuế, tăng chi tiêu, chính
phủ có thể thực hiện chính sách kích cầu để phục hồi kinh tế. Khi nền kinh tế ở
giai đoạn hưng thịnh, chính phủ chủ động thực hiện chính sách tài khóa thận
trọng, thắt chặt trong chi tiêu NSNN nhằm kìm hãm hiện tượng phát triển quá
“nóng” của nền kinh tế. Thặng dư NSNN trong giai đoạn này được sử dụng để
trả nợ nước ngoài hoặc thực hiện những chương trình, dự án dài hạn, có tính bền
vững lâu dài.
Thứ tư, việc thực hiện nguyên tắc trong cân đối ngân sách nhà nước góp
phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa
phương. Nước ta với mỗi vùng lại có những điều khiện kinh tế - xã hội khác

nhau, có những vùng đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, do đó cân đối
4


NSNN, đặc biệt cân đối trong ngân sách giữa các vùng miền với nhau sẽ đảm
bảo được sự công bằng và giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân giữa các
vùng miền đó.
II. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN theo Luật ngân sách
nhà nước
Cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề rất quan trọng và cần thiết để Nhà
nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Luật NSNN năm 2002 (có
hiệu lực từ năm ngân sách 2004) được Quốc hội ban hành với mục đích “quản
lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng NSNN, củng cố
kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả NSNN và tài sản của nhà nước,
tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại”1.
Luật NSNN 2002 đưa ra các quy định về lập, chấp hành, kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước và về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan nhà nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, trong đó có nhiều nội
dung thể hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước. Cụ thể,
Theo Luật ngân sách nhà nước 2002 thì nội dung của nguyên tắc cân đối trong
hoạt động NSNN bao gồm:
Thứ nhất: “NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu về thuế, phí,
lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng
cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi thì số bội chi phải nhỏ
hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu chi ngân sách”2. Nguyên tắc
này phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện
sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Quy định trên của Luật

ngân sách là sự phân định gianh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi thường
1 Lời nói đầu của Luật NSNN năm 2002.
2 Khoản 1 Điều 8 Luật NSNN năm 2002.

5


xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo đó,
các khoản thu thường xuyên được sử dụng để trang trải chi thường xuyên và một
phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp được sử dụng để chi đầu tư phát
triển. Trong đó, chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn, vì nó có thể làm tăng
khả năng thu hồi vốn cho NSNN nhưng phải đảm bảo được sự cân đối giữa chi
đầu tư phát triển và chi thường xuyên, vì giữa chúng có mối quan hệ mật thiết
với nhau trong chi tiêu công của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt động
cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia. Nó tạo ra những
điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo theo
sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất
nước, giúp nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi
đầu tư phát triển là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc
cân đối ngân sách nhà nước.
Đồng thời, quy định này cũng là sự thừa nhận quan điểm về ngân sách
thăng bằng của các nhà tài chính hiện đại, theo đó cho rằng sự thăng bằng giữa
tổng số thu và tổng số chi thực chất là sự cân bằng giữa tổng số thu hoa lợi
(trong đó chủ yếu là thuế) với tổng số chi có tính chất phí tổn. Từ quan điểm này
có thể hiểu là, nếu tổng số các khoản thu có tính chất hoa lợi lớn hơn tổng các
khoản chi có tính chất phí tổn thì khi đó ngân sách nhà nước sẽ có thặng dư và
nược lại, nếu tổng các khoản thu có tính chất hoa lợi nhỏ hơn tổng các khoản chi
có tính chất phí tổn thì sẽ là bội chi ngân sách3.
Thứ hai, Bội chi NSNN được bù đắp vay bù đắp bội chi ngân sách. Đây
là khoản vay của chính quyền trung ương nhằm bù đắp các thâm hụt ngân sách

do tổng số chi ngân sách lớn hơn tổng số thu ngân sách. Vay bù bộ chi ngân sách
nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không sự dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử
dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết hợ
khi đến hạn. Về mặt lí thuyết, vay bù đắp bội chi ngân sách là cần thiết để đảm
bảo năng lực chi ngân sách, đặc biệt là những khoản chi để phát triển kinh tế, từ
3 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Nxb. CAND, Hà Nội, 2005, tr.35.

6


đó nâng cao năng lực ngân sách trong tương lai. Tuy nhiên, để đảm bảo khả
năng trả nợ, các khoản vay bù đắp bội chi thường cần được giới hạn ở một mức
nhất định (thông thường là khoản 5% GDP)4.
Vay bù đắp bội chi ngân sách bao gồm các khoản vay trong nước và ngoài
nước. Vay trong nước là các khoản vay từ các cá nhân, tổ chức trong nước thông
qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó có phương thức phổ biến nhất là
phát hành trái phiếu chính phủ; Vay nước ngoài là các khoản vay huy động từ
các chính phủ, tổ chức phi chính phủ hoặc tổ chức tài chính quốc tế theo các
hiệp định được kí kết giữa chính phủ nước ta với các tổ chức này hoặc phát hành
trái phiếu chính phủ ra nước ngoài. Các khoản vay này được sử dụng và hoàn trả
theo quy chế vay và trả nợ nước ngoài do Chính phủ ban hành.
Theo quy định của Luật ngân sách 2002, Vay bù đắp bội chi NSNN phải
đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục
đích phát triển và bảo đảm bố trí NSNN chủ động trả nợ khi hết hạn. Trong điều
kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề bội chi NSNN không thể tránh
khỏi với các quốc gia. Nhưng chưa hẳn bội chi NSNN là biểu hiện sự yếu kém
của nền kinh tế mà nó còn là một trong các cách thức tạo ra sự cân đối của
NSNN trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định. Nguyên tắc
vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân
sách để chủ động trả nợ khi hết hạn là rất cần thiết để đảm bảo ngân sách nhà

nước được cân đối, tận dụng được nguồn vốn vay một cách có hiệu quả. Chi cho
tiêu dùng là hoạt động chi không mang tính chất thu hồi vốn và không tạo ra
thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ để dành cho mục đích phát triển.
Thứ ba, cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước thể hiện trong việc
phân bố nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp. Theo quy định của
Luật NSNN 2002, nguồn thu của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương
được chia thành 3 nhóm sau:

4 Trần Vũ Hải, Tìm hiểu thuật ngữ pháp luật tài chính công, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội, 2009, tr.241.

7


- Các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% (được quy định chi
tiết tại khoản 1 Điều 30 như: Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu;Thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu;…
- Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100% (Được quy định chi
tiế tại khoản 1 Điều 32) bao gồm: Thuế nhà, đất;Thuế tài nguyên, không kể thuế
tài nguyên thu từ dầu, khí; Thuế môn bài; Thuế chuyển quyền sử dụng đất;…
- Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương
và ngân sách địa phương, bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị
gia tăng hàng hoá nhập khẩu; Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu
nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành; Thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao;…
Mặt khác, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không được
vượt quá số thu; Trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu
đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh
đảm bảo, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định, nhưng không vượt quá khả năng cân đối của ngân sách
cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu

tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
Việc huy động vốn có thể được thực hiện dưới hình thức phát hành trái
phiếu chính quyền địa phương hoặc thông qua hợp đồng tín dụng, hợp đồng đầu
tư…
Việc huy động vốn trong nước của ngân sách địa phương không phải là
vay bù đắp bội chi ngân sách vì ngân sách địa phương được đảm bảo cân bằng
thu, chi. Tuy nhiên, việc cho phép huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng là để địa
phương phát huy tính chủ động trong việc tìm kiếm nguồn lực phát triển kinh tế
- xã hội trên cơ sở bảo đảm khả năng trả nợ khi đến hạn.
Như vậy, thông qua việc phan cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp
ngân sách đã tạo ra những thuận lợi đáng kể, góp phần vào việc ổn định và cân
8


đối ngân sách Nhà nước ở nước ta, nguồn thu ở ngân sách địa phương đã tăng
lên đáng kể, nhiều địa phương đã tự đảm bảo được vấn đề cân đối ngân sách ở
địa phương mình, mỗi địa phương đã có trách nhiệm hơn trong việc thu chi ở địa
phương mình. Trong cân đối ngân sách nhà nước, đặt ra vấn đề phải phân định
rõ ràng nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách là hoàn toàn hợp lý,
vì nhiều nhiệm vụ của mỗi cấp ngân sách là khác nhau: Ngân sách trung ương
phải nắm giữ các nguồn thu cơ bản, quan trọng của đất nước để từ đó thực hiện
vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế và thực hiện những nhiệm vụ chi cần thiết để
đảm bảo cho sự phát triển chung của đất nước.
III. Thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước hiện nay
Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Kể từ khi luật ngân sách nhà nước chính thức được ban hành
đến nay, nguyên tắc này ngày càng thể hiện được vai trò và ý nghĩa của mình
trong các hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Thực tiễn áp dụng nguyên
tắc này kể từ khi luật ngân sách nhà nước được ban hành (năm 1996, sửa đổi bổ

xung năm 2002) cho tới nay thể hiện ở một số nội dung chính sau:
1. Trong việc cân đối thu, chi
Trong báo cáo quyết toán ngân sách hàng năm của quốc hội luôn thể hiện
rõ các nội dung về tổng số thu và tổng số chi. Trong đó tín hiệu khả quan cho
thấy tổng số thu không ngừng được tăng cao, phần nào cân bằng được so với
nhu cầu chi. Mặc dù vẫn còn tình trạng bội chi ngân sách nhà nước, tuy nhiên
đây chỉ là sự quá độ của một thời kì ngân sách – thời kì đất nước đang hội nhập
và đầu tư mạnh mẽ vào các chương trình phát triển đất nước.
Việc cân đối thu chi được tiến hành theo từng năm tài chính. Theo Quyết
toán Thu, Chi cân đối ngân sách nhà nước năm 2008 thì tổng thu cân đối ngân
sách là 548,529 tỷ đồng tổng chi cân đối ngân sách là 590,714 tỷ đồng, qua đó
xác định được bộ chi ngân sách nhà nước là 67,677 tỷ đồng (khoảng 4.58%
9


GDP). Đây là một con số có thể chấp nhận được đối với một nước đang trong
quá trình phát triển của nước ta.
2. Cân đối trong phân cấp thu, chi
Thống kê cho thấy, trong giai đoạn 1996 – 2003 cả nước có trên 20 tỉnh
thành nhưng chỉ có 5 tỉnh – thành tự cân đối được ngân sách, trên 55 tỉnh thành
còn lại trung ương phải cấp bổ xung. Sang giai đoạn từ 2004 đến nay, cùng với
chính sách đẩy mạnh phi tập chung hóa trong quản lý NSNN, địa phương được
mở rộng quyền tự chủ hơn, một số loại thuế trước đây thuộc 100% ngân sách
trung ương hưởng, nay được chuyển thành khoản thu phân chia theo tỉ lệ giữa
ngân sách trung ương và Ngân sách địa phương. Nhờ vậy, số địa phương tự cân
đối được ngân sách tăng lên 15 địa phương. Đến giai đoạn 2004 – 2006, trung
bình mỗi năm có tới 27 địa phương nhận bổ xung cân đối ngân sách.
Đối với vấn đề vay nợ địa phương. Theo báo cáo của Bộ tài chính trình
Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội, thì mức vay nợ của địa phương hiện
nay còn thấp nhưng có chiều hướng gia tăng theo thời gian: 0,43% GDP năm

2003; 0,45% GDP năm 2004; năm 2005 là 0,49% GDP.
3. Đối với vấn đề bội chi ngân sách và vay bù đắp chi
Bội chi NSNN chỉ tính đến bội chi ngân sách trung ương, còn ngân sách
địa phương phải đảm bảo cân bằng thu – chi. Trong giai đoạn 1997 – 2006, bội
chi NSNN vẫn nằm trong phạm vi an toàn, có thể kiểm soát và tôn trọng được
giới hạn mà quốc hội đề ra (mức bội chi bao gồm các khoản trả nợ gốc < 5%
GDP). Tuy nhiên, Theo Quyết toán Thu, Chi cân đối ngân sách nhà nước năm
2008 thì bội chi NSNN ở mức là 67,677 tỷ đồng bằng khoảng 4.58% GDP; năm
2010 mức bội chi là 120,500 tỷ đồng, bằng 5,3% GDP. Những con số trên thực
sự đáng lo ngại đối với nước ta.
Với kết quả bội chi như trên, ta thấy chính phủ cũng cã có nhiều nỗ lực
trong việc duy trì và đảm bảo bội chi NSNN ở mức chấp nhận được. Trong xử lý
bội chi NSNN, các nguyên tắc cân đối NSNN được tuân thủ một cách triệt để,
10


các biện pháp bù đắp bội chi theo quy định của pháp luật được vận dụng một
cách linh hoạt, Nhà nước đã chấm dứt hoàn toàn việc phải phát hành tiền trực
tiếp để bù đắp bội chi, thay vào đó là tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ
và tận dụng nguồn vốn vay nước ngoài dưới hình thức ODA nhằm đảm bảo đủ
nguồn lực tài chính để cân đối NSNN.
Theo cách tính bội chi NSNN của Việt Nam, hàng năm mức bội chi
NSNN được công bố không vượt quá 5% (trừ năm 2010) GDP nhưng có những
khoản chi như: chi cho công trình giao thông thủy lợi, chi kiên cố hóa trường
học thông qua trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục lại để ngoài cân đối
NSNN, vì vậy thực tế con số bội chi NSNN còn lớn hơn 5%. Qua đó, tính minh
bạch trong cân đối NSNN chưa vận dụng triệt để khi xác định tỷ lệ bội chi
NSNN. Bên cạnh đó, vấn đề bội chi NSNN trong thời gian qua cũng tồn tại một
số vấn đề đáng quan tâm, cân nhắc để có những giải pháp tốt hơn trong xử lý bội
chi NSNN trong những năm tới như: số tiền vay đặc biệt là vay nước ngoài cho

đầu tư phát triển chưa được quản lý chặt chẽ, dẫn đến tham nhũng, lãng phí làm
thất thoát một lượng tiền không nhỏ; chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi
đầu tư phát triển và chi thường xuyên, tạo áp lực lên bội chi NSNN; Ngân sách
địa phương vẫn có bộ chi nhưng mức bội chi này lại không được tính vào bội
chi NSN…
IV. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng nguyên
tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước hiện nay
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu đáng lưu ý nhưng thực tế áp dụng
nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước vẫn còn nhiều bất cập,
đòi hỏi phải có những cải cách thực sự hiệu quả để giải quết những vấn đề còn
tồn tại cũng như nâng cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc trên. Có thể đưa
ra một số giải pháp như sau:

11


1. Nhóm giải pháp mang tính kinh tế để đảm bảo cân đối ngân sách
nhà nước bền vững
Thứ nhất, cần đẩy mạnh tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo cho
nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững và ổn định. Đây được coi là biện pháp
căn cơ nhất để nuôi dưỡng và khai thác nguồn thu, đảm bảo sự ổn định và bền
vững cho thu NSNN nói riêng và cân đối NSNN nói chung.
Thứ hai, cần đẩy mạnh chính sách cải cách khu vực công. Mục đích của
giải pháp này là nhằm hướng vào việc xác lập lại quy mô khu vực công, phạm vi
can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế cho phù hợp với năng lực quản lý và
mức độ chi tiêu công. Từ đó tạo môi trường thuận lợi để kích thích đầu tư của
khu vực tư thay vì dựa quá nhiều vào đầu tư công để tạo ra tăng trưởng.
2. Nhóm giải pháp tài chính nhằm đảm bảo cân đối ngân sách nhà
nước theo hướng bền vững
Trước hết cần chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách nhà nước theo hướng bền

vững. Để đảm bảo điều này, thời gian tới cần phải chuyển dịch cơ cấu thu
NSNN theo hướng giảm mức độ phụ thuộc vào các nguồn thu có liên quan đến
hoạtđộng ngoại thương và dầu khí. Tăng tỉ trọng các nguồn thu từ hoạt động
kinh tế trong nước, nâng tỷ trọng từ khu vực kinh tế tư nhân / GDP.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và cải cách công tác quản lý
thu. Hệ thóng chính sách thuế cần được hoàn thiện theo hướng mở rộng diện
chịu thuế đồng thời với việc xác định hợp lý các mức thuế suất để đảm bảo được
tính công bằng và hiệu quả của hệ thống thuế, đáp ứng yêu cầu của quá trinhfh
ội nhập và đảm bảo nguồn thu cho NSNN.
Tôn trọng kỷ luật tài khóa, đổi mới chính sách phân bổ và sử dụng nguồn
lực tài chính của NSNN.
3. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện biện pháp bù đắp bội chi NSNNH đảm
bảo cân đối NSNN

12


Nghiên cứu và tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến bội chi NSNN để từ đó lựa
chọn những giải pháp cho phù hợp. Chính phủ có thể linh hoạt xử lý bội chi
NSNN bằng cách cắt giảm những chi tiêu bất hợp lý, không hiệu quả.
Hoàn thiện các cách thức đo lường bội chi và biện pháp bù đắp bội chi
NSNN.
4. Mở rộng phân cấp quản lý NSNN để đảm bảo cân đối trong hệ
thống NSNN
Qua thực trạng phân cấp quản lý NSNN, vấn đề đáng chú ý gây nhiều bất
cập làm ảnh hưởng đến sự cân đối tổng thể trong NSNN là ngân sách trung
ương thực hiện cân đối thay cho ngân sách địa phương khi có thiếu hụt xảy ra.
Sau những ưu điểm, cơ chế này đã tại cho địa phương quá bị động và không
đảm bảo tính trách nhiệm cũng như tính minh bạch trong quá trình sử dụng và
quản lý nguồn lực tài chính ở địa phương.

Mở rộng phân định nguồn thu và xác định rõ ràng nhiệm vụ chi của từng
cấp chính quyền phù hợp với chức năng và năng lực của từng cấp chính quyền
địa phương.
Hoàn thiện cơ chế bổ sung cân đối NSNN nhằm khắc phục vấn đề ngân
sách địa phương quá lệ thuộc vào sự hỗi trợ của ngân sách trung ương, mà
không linh động, tận dụng khả năng vốn có của địa phương.
KẾT LUẬN
Cân đối ngân sách nhà nước là một trong những vấn đề quan trọng của
một nhà nước, nó phản án sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi
ngân sách nhà nước nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước
đặt ra. Do đó, cần có những chính sách cụ thể để ngân sách nhà nước luôn được
cân đối, không xảy ra tình trạng mất cân đối ngân sách gây khó khăn cho sự phát
triển của nhà nước cũng như toàn xã hội.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật NSNN 2002.
2. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2005.
3. Trần Vũ Hải, Tìm hiểu thuật ngữ pháp luật tài chính công, Nxb. Tư Pháp,
Hà Nội, 2009.
4. />5. />
14



×