Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Địa vị pháp lí của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.64 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
Trong tố tụng hình sự (TTHS), các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng gồm
có cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT), người tiến hành tố tụng (NTHTH), người
tham gia tố tụng (NTGTT) trong đó bị can, bị cáo là những người tham gia tố tụng.
Họ là những người đang bị buộc tội bời cơ quan , người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Quyền lợi và nghĩa vụ của BC, BC bị ảnh hưởng sâu sắc bởi quyết định của tòa
án (TA) khi giải quyết vụ án hình sự. Do đó có nhiều nguyên nhân khác nhau mà
quyền của BC, BC có khả năng bị xâm hại rất cao. Trên thực tế có rất nhiều vụ án oan
sai do NTHTT, CQTHTT đã ra những quyết định gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của BC, BC. Trong bài tập lần này em xin đề cập tới vấn đề “ Địa vị pháp lí
của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”. Trong quá trình làm bài còn có nhiều thiếu
sót mong nhận được sự góp ý từ phía các thầy cô. Em xin chân thành cám ơn.

NỘI DUNG
I/ Khái quát chung về bị can, bị cáo, địa vị pháp lí của bị can, bị cáo.
Địa vị pháp lí (ĐVPL) là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với các
chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lí của chủ
thể pháp luật thể hiên ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể, qua đó
xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Việc
nắm vững địa vị pháp lí của chủ thể trong quan hệ pháp luật có ý nghĩa quan trọng
đối với mọi chủ thể trong TTHS, thì việc nắm giữ địa vị pháp lí của các chủ thể càng
củng cố vai trò quan trong hơn hết vì khi phải giải quyết một vụ án hình sự phải trải
qua nhiều giai đoạn ở nhiều giai đoạn khác nhau thì ĐVPL của các chủ thể tham gia
tố tụng không giống nhau. Khi đó nắm vững ĐVPL của các chủ thể này sẽ đảm bảo
cho việc thực hiện đúng các thủ tục tố tụng và đảm bảo cho việc xác định đúng sự
1


thật vụ án. Trong luật TTHS chưa có một khái niệm chính thức nào quy định về địa vị
pháp lí của bị can, bị cáo. Đối với pháp luật khi một người có địa vị pháp lí là bị can
thì họ sẽ có các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật quy định tại


khoản 2 điều 49, bị cáo khoản 1 điều 50 BLTTHS.
1/ Khái niệm bị can, địa vị pháp lí của bị cán.
Khái niệm bị can được quy định tại khoản 1 điều 49 BLTTHS 2003. Theo đó bị
can là người đã bị khởi tố về hình sự.Như vậy theo quy định của pháp luật bị can sẽ
tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm, tư
cách tố tụng của bị chấm dứt khi cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, VKS đình chỉ vụ
án, TA đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị. Xét xử đối với bị can hoặc tòa án khởi
tố về hình sự và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2/ Khái niệm bị cáo, địa vị pháp lí của bị cáo.
Quy định tại khoản 1 điều 50 BLTTHS Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định
đưa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định đưa vụa án ra xét xử
đến khi bản án hay quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật. Và khái niệm bị cáo
không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của tội phạm, bị cáo không phải là những
người có tội. Họ chỉ trở thành người có tội nếu sau khi xét xử họ bị tòa án ra bản án
kết tội và bản án đã có hiệu lực.
3/ Quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong luật TTHSVN trước
khi BLTTHS 2003 có hiệu lực.
BLTTHS năm 1998 là bộ luật TTHS đầu tiên quy định về địa vị pháp lí của bị
can , bị cáo. Pháp luật TTHS Việt Nam giai đoạn trước BLTTHS 1998 chưa có một
quy định nào về bị can, bị cáo.
Trong thời kì thực dân Pháp xâm lược có 3 BLTTHS khác nhau được áp dụng tại
Bắc Kì, Trung Kì, Nam kì. Trong đó theo quy định tại điều 20, điều 31 BLTTHS tại
Bắc Kì phân loại NTGTT thành bị can, Bị cáo, người làm chứng, người bị hại. Điều
17 BLTTHS Bắc kì, quy định này của pháp luật nhằm thể hiện sự công khai minh
2


bạch của pháp luật khi cho phép bị can có quyền được biết mình bị buộc tội gì, được
nghe lại biên bản hỏi cung bị can. BL Bắc kì không quy định rõ khi nào người bị
buộc tội mang tư cách bị can, khi nào có tư cách bị cáo. Mà ngay trong giai đoạn xét

xử tư cách của người bị buộc tội là bị can.
Sau năm 1945, ngày 18/6/1949 sắc lệnh số 69/SL do Chủ tịch nước ban hành quy
định về việc bào chữa của bị can, quy định tại Điều 1: “Từ nay đến khi nào có thể lệ
khác, trước các toà án thường và toà án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ toà
án binh tại mặt trận, bị can có thể nhờ một công dân không phải là luật sư, bào chữa
cho. Công dân do bị can đã tự chọn để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa
nhận.” ; Điều 2 : “Nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có thể, tự mình
hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra bào chữa cho bị can.” Quy định này
nhằm mở rộng quyền bào chữa của bị can.
Từ năm 1954 đến trước khi có BLTTHS 1988 ra đời có quy định cụ thể hơn về địa
vị pháp lí của Bị can, Bị cáo. Theo mục II thông tư 2225/HCTP về chấn chỉnh việc
thực hiện quyền bào chữa của bị can do Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn: “1) Nói
chung người bị can có quyền tham gia tất cả quá trình điều tra xét xử. Cụ thể là:
- Bị can có quyền trình bày lời lẽ bào chữa, khai nại, đưa ra chứng cớ mới, xin
mời người làm chứng mới, mời người giám định v.v…
- Bị can được đề xuất bất cứ một thỉnh cầu nào hoặc phản đối bất cứ một thỉnh
cầu nào của người khác trong quá trình vụ án;
- Bị can lại có quyền trình bày viết những lời thanh minh và những điều chỉnh
thỉnh cầu của mình.
- Bị can phải được biết về nội dung buộc tội trước ngày phiên tòa xét xử một thời
gian cần thiết để bị can có đủ thì giờ chuẩn bị việc bào chữa trước phiên tòa.
- Trong phiên tòa, bị can được viện dẫn tất cả chứng cớ và lý lẽ để chứng minh
rằng mình không có tội hoặc trình bày những tình huống giảm nhẹ tội mà không bị ai
cản trở.
3


Sau khi cuộc thẩm vấn kết thúc, bị can được nói lời cuối cùng. Bị can có quyền
chống án
trong thời hạn luật định nếu họ không phục bản án xử sơ thẩm.”

Tại điều 4 sắc lệnh số 01/SL – 76 tại điều 4 cũng quy định rõ địa vị pháp lí của
BC, BC. Như vậy thời kì này quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của của BC, BC.
Bộ luật TTHS năm 1998 quy định rõ bị can, bị cáo có các quyền và nghĩa vụ cơ
bản. Các quyền : được biết mình bị khởi tố về điều gì, quyền được nhận các quyết
định khởi tố, quyền bào chữa, quyền đưa ra chứng cứ…. Quy định về quyền và nghĩa
vụ của bị can , bị cáo để đảm bảo có một địa vị pháp lí tôt nhất để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng.
II/ Các quy định của BLTTHS hiện hành về địa vị pháp lí của Bị can, bị cáo.
1 /Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lí của Bị can.
Các quyền và nghĩa vụ của Bị can trong TTHS được quy định tại điều 49
BLTTHS 2003.
1.1 Các quyền tố tụng.
Được quy định tại khoản 1 điều 49 BLTTHS 2003 bao gồm các quyền.
1.1.1 Quyền được biết mình bị khởi tố về điều gì.
Đây là quyền đầu tiên của bị can được pháp luật quy định. Bởi vì mục đích của
việc tiến hành các trình tự tố tụng là nhằm xác định một người có tội hay không? Và
nếu phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế nào. Do vậy người nghi ngờ phạm tội
cần phải biết rằng mình bị khởi tố về việc gì để họ tự bào chữa cho mình. Nếu không
biết mình bị khởi tố về việc gì thì họ khó có thể đưa ra các chứng cứ gỡ tội cho mình
cùng những lời bào chữa.
Quyền này thể hiện sự công bẳng, bình đẳng tiến bộ của pháp luật VN và pháp
luật XHCN. Trên thực tế để bị can, biết mình bị khởi tố về điều gì thì các CQTHTT
và NTHTT phải giao các quyết định tố tụng và giải thích các quyền và nghĩa vụ cho
bị can. Bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì thông qua quyết định khởi tố bị can.
4


Quyết định khởi tố bị can phải đầy đủ và có nội dung theo quy định tại khoản 2 điều
126 BLTTHS và phải được truyền đạt đến bị can theo đúng quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật thì CQĐT phải giao ngay QĐ khởi tố bị can và giải

thích các quyền và nghĩa vụ cho bị can.
Theo quy định tại điều 34 BLTTHS 1998 quy định: “ bị can có quyền biết mình
bị khởi tố về điều gì”. Và quy định tại BLTTHS 2003 “Bị can có quyền được biết
mình bị khởi tố về điều gì” từ “có quyền biết” và “có quyền được biết” mình bị khởi
tố về điều gì là khác nhau. Từ được them vào đã tọa thế chủ động cho bị can trong
QTTT khi thực hiện quyền của mình. Như một sự đương nhiên bị can có quyền biết
mình bị khởi tố về điều gì mà không còn phụ thuộc quá nhiều vào CQTHTT, NTHTT.
1.1.2 Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ.
Khi biết mình bị khởi tố về tội gì thì bị can sẽ rất mong muốn biết được mình có
quyền và nghĩa vụ gì để thực hiện nhằm gỡ tội cho mình. Vì để đảm bảo cho bạ can
được biết mình có quyền và nghĩa vụ gì thì BLTTHS 2003 đã quy định cụ thể là BC
có quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Việc thực hiện quyền này của BC
đồng nghĩa với việc CQTHTT, NTHTT phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Đó là
nghĩa vụ giải thích cho BC hiểu rõ họ có quyền và nghĩa vụ gì. Việc đảm bảo quyền
này của BC cũng như có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con người của BC
cũng như góp phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án xác minh sự thật vụ án.
1.1.3 Quyền được trình bày lời khai.
Đây cũng là một trong những quy định mới của BLTTHS 2003 về các quyền và
nghĩa vụ của BC trong TTHS. Theo quy định này BC có quyền trình bày lời khai ,
những vấn đề liên quan đến vụ án mà họ bị khởi tố. Đây là quyền chứ không phải
nghĩa vụ của BC. Do vậy nhiều khi bị can đã sử dụng quyền này của mình để khai
báo những tình tiết có lợi cho mình nhằm chứng minh mình vô tội hoặc phạm tội ở
mức độ nhẹ hơn tội đã bị khởi tố hay đưa ra những tình tiết lí do để giảm nhẹ TNHS

5


cho mình. Cũng có những TH bị can đã từ chối không khai về những hành vi của
mình.
Trong TH nào CQĐT cũng phải tôn trọng quyền được trình bày của bị can. Bởi

vì qua lời khai của chính bị can, người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật ta
có thể xác định sự thật một cách khách quan không phiến diện. Đặc biệt những TH tố
tụng không cho phép dùng các biện pháp trái pháp luật để buộc tội bị can khai báo.
Điều đó làm ảnh hưởng đến kết quả điều tra của vụ án.
1.1.4 Quyền được đưa ra các tài liệu đồ vật yêu cầu.
Theo quy định này thì bị cáo có quyền cung cấp những tài liệu đồ vật có liên quan
đến vụ án cũng như những yêu cầu như yêu cầu giám định , giám sát bổ sung hay
giám định lại ,yêu cầu điều tra lại.
BLTTHS 2003 đã có sự thay đổi trong quy định của pháp luật từ việc bị can có
quyền đưa ra chứng cứ thì nay đã trở thành những tài liệu đồ vật. Sự thay đổi này
trong quy định của pháp luật là hoàn toàn hợp lí góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật nước ta. Bởi khi bạ can cung cấp cho CQĐT những tài liệu đồ vật thì không phải
mọi tài liệu đồ vật đều là chứng cứ. Khi CQĐT nhận được các tài liệu đồ vật đó thì
phải tiến hành điều tra, đánh giá kết quả để xác định tài liệu đồ vật đó có phải là
chứng cứ hay không? Và chỉ khi tài liệu đồ vật đó đáp ứng những yêu cầu của pháp
luật thì nó mới trở thành chứng cứ.
1.1.5 Quyền được đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định( NGĐ), người
phiên dịch( NPD).
NTTTT, NGĐ, NPD là những người đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác
định sự thật của vụ án. Sự thật vụ án chỉ được xác định một cách chính xác nhất nếu
các chủ thể thực hiện tốt vai trò của mình trong các giai đoạn tố tụng. Bởi vậy việc
thay đổi NTHTT, NGĐ, NPD để đảm bảo vụ án được xét xử một cách công khai
minh bạch.

6


Theo đó bị cáo có quyền thay đổi NTHTT, NGĐ, NPD nếu có căn cứ rõ ràng để
họ cho rằng không thể vô tư trong khi đi làm nhiệm vụ và việc họ tiến hành tố tụng
hoặc tham gia TT có thể làm cho vụ án được giải quyết theo hướng có lợi cho bị can.

Khi các CQTHTT nhận được yêu cầu thay dổi NTHTT, NGĐ, NPD của bị can thì cần
phải xem xét giải quyết yêu cầu đó, nếu thấy yêu cầu đó là có căn cứ của PLTTHS.
1.1.6 Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Đây là một trong những quyền quan trọng của bị cáo trong TTHS. Bị can có
quyền tự bào chữa. Theo đó thì bị can có quyền dùng lời lẽ và chứng cứ để giũ tội và
bảo về quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình trong QTTT. Việc thực hiện quyền
này của bị cáo không chỉ nhằm gỡ tội cho bị cáo mà còn bảo về quyền và lợi ích hợp
pháp khác của bị can. Thông qua quyền này thì nhà nước đã cho phép bị can tự vệ,
chống lại sự buộc tội của CQTHTT, NTHTT. Quyền này thể hiện sự bình đẳng giữa
bị can với NTHTT, mặc dù giữa một bên là người bị buộc tội với một bên là người
mang quyền lực NN.
Ngoài quyền tự bào chữa bị can còn có quyền nhờ người khác bào chữa cho
mình. Quyền này thể hiện sự bình đẳng cho quyền bào chữa của bị can. Pháp luật quy
định cho bị can được nhờ người khác bào chữa cho mình nếu không tự mình bào
chữa được. Người được bị can nhờ phải là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của
pháp luật theo quy định tại khoản 1 điều 305 và khoản 2 điều 305 BLTTHS.
Bị can hoặc người đại diện của họ có quyền thay đổi yêu cầu hoặc từ chối người
bào chữa được đoàn luật sư cử đến bào chữa cho bị can. Các CQTHTT phải tôn trọng
và đảm bảo quyền bào chữa của bị can.
1.1.7 Quyền được nhận các quyết định và các văn bản tố tụng.
Theo quy định tại điểm 9 khoản 2 điều 49 BLTTHS 2003. Thì khi tham gia vào
quá trình tố tụng, bị can có quyền nhận được các quyết định và các văn bản tố tụng.
Các quyết định và các văn bản tố tụng như quyết định khởi tố bị can, quyết định áp
dung thay đổi bổ sung hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn , bản kết luận điều tra, quyết
7


định đình chỉ , tạm đình chỉ vụ án, bản cáo trạng, quyết định khởi tố và các quyết
định khởi tố khác theo quy đinh của BLTTHS.
Các quyết định và các văn bản tố tụng trên có liên quan trực tiếp đến quyền lợi

và nghĩa vụ của bị can. Việc PLQĐ bị can có quyền được nhận các quyết định và các
văn bản tố tụng nhằm đảm bảo bị can có thể thực hiện tốt quyền bào chữa và các
quyền tố tụng khác của mình.
1.1.8 Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của CQTHTT, người có thẩm
quyền THTT.
Không phải trong mọi TH mọi quyết định và hành vi tố tụng của CQTHTT,
NTHTT đều đúng theo quy định của pháp luật. Do vậy để đảm bảo thực hiện tốt các
quy định của pháp luật cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can thì
pháp luật đã cho phép bị can có quyền khiếu nại các quyết định và hành vi tố tụng
của CQTHTT và NTHTT.
Bị can có thể khiếu nại các quyết định các hành vi tố tụng của CQTHTT, NTHTT
nên các chủ thể có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật được quy định
tại điều 328 BLTTHS 2003, điều 329 BLTTHS, điều 330 BLTTHS 2003.
1.2 Các nghĩa vụ tố tụng.
Bị can có các quyền tố tụng thì cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định.
Khoản 3 điều 49 BLTTHS 2003 quy định:“ Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập
của Toà án;trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp
giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.” Như vậy trong TH bị can được tại ngoại thì khi cần
có sự có mặt của Bị can để tiến hành các hoạt động điều tra hoặc các hoạt động tố
tụng khác thì cơ quan THTT có quyền triệu tập bị can. Bị can có nghĩa vụ phải có mặt
theo các giấy tờ triệu tập. Việc triệu tập bị can phải tuân thủ theo đúng quy định tại
điều 129 BLTTHS 2003. Giấy triệu tập phải được gửi cho cơ quan xã phường thị
trấn, nơi bị can cư trú hoặc cho CQ tổ chức nơi bị can làm việc. Cơ quan tổ chức
nhận được giấy triệu tập phải chuyển ngay giấy triệu tập cho bị can. Khi bị can nhận
8


được giấy triệu tập phải kí nhận và có nghĩa vụ ghi rõ ngày giờ. Người chuyển giấy
triệu tập cho bị can còn có nghĩa vụ phải gửi phần giấy có chữ kí nhận của bị can cho
cơ quan triệu tập bị can. TH bị can nhận được giấy nhưng không kí nhận thì người

chuyển giấy triệu tập cho bị can phải lập biên bản và gửi cho cơ quan triệu tập bị can.
Nếu bị can vắng mặt có thể giao giấy triệu tập cho 1 người đã thành niên trong gia
đình kí nhận và chuyển cho bị can.
TH bị can vắng mặt không có lí do chính đáng thì có thể bị áp giải. Việc áp giải
bị cáo cũng phái tuân theo những quy định của pháp luật được quy định tại khoản 1
điều 30 BLTTHS. Trong TH bị can bị tạm giam thì việc triệu tập bị can của CQTHTT
sẽ được thông qua ban giám thị trại giam. Trong quá trình xét xử tòa án cũng có
quyền triệu tập bị can để giải quyết vấn đề dấn sự hoặc cam đoan trước khi QDAD
biện pháp ngăn chặn như cấm đi khởi nơi cư trú, đặt tiền hoắc tài sản có giá trị để bị
can sẽ có mặt khi được triệu tập.
2/ Các quy định của pháp luật hiện hành về địa vị pháp lí của bị cáo.
Các quyền và nghĩa vụ cụ thể của bị cáo được quy định cụ thể tại điều 50
BLTTHS 2003.
2.1 Các quyền tố tụng.
2.1.1 Quyền được nhận các quyết định , văn bản tố tụng
Quyền đầu tiên của bị cáo là quyền được nhận các quyết định đưa vụ án ra xét
xử. Quyết định áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đình
chỉ vụ án, bản án quyết định của tòa, các quyết định tố tụng khác theo quy định của
BLTTHS. Trong đó quyền được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyền quan
trọng của bị cáo. Vì quyết định đưa vụ án ra xét xử có vai trò quan trọng trong việc
giải quyết vụ án. Quyết định đó sẽ khiến người bị buộc tội chuyển từ tư cách bị can
sang bị cáo. Và bị caó dựa vào quyết định đưa vụ án ra xét xử sẽ có thể biết được
mình bị đưa ra xét xử với tội danh gì, thời gian địa điểm mở phiên tòa, thẩm phán ,
hội thẩm, thư kí tòa án tham gia phiên tòa, kiểm sát viên tham gia phiên tòa, người
9


bào chữa, người phiên dịch, người được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa, vật chứng
cần xem xét tại phiên tòa. Quyền đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ các nội dung
theo quy định tại điều 178 BLTTHS và theo khoản 1 điều 182 BLTTHS.

Trong quá trình xét xử, khi có lí do hợp pháp và xét thấy cần thiết hoặc không
cần thiết phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì CQTHTT, NTHTT có thể ra quyết
định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn. Để đảm bảo quyền lợi
và nghĩa vụ của bị cáo thì bị cáo cũng có quyền nhận được quyết định áp dụng thay
đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn .
Ngoài hai quy định trên bị cáo còn có quyền nhận được quyết định đình chỉ tạm
đình chỉ vụ án, bản án , quyết định của tòa án theo quy định của pháp luật. Các quy
định này là căn cứ pháp lí để bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến
các quyết định đó.
2.1.2 Quyền được tham gia phiên tòa.
Đây là quyền vô cùng quan trọng của bị cáo trong TTHS. Vì phiên tòa là nơi
diễn ra hoạt động thẩm vấn xét xử công khai. Bản án quyết định của tòa án phải dựa
trên những chứng cứ đã được thẩm định điều tra tại phiên tòa. Vì vậy quyền tham gia
phiên tòa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo thực hiện các quyền bào chữa và đảm
bảo các quyền lợi ích hợp pháp khác của mình. Thể hiện sự bình đẳng khách quan
trong TTHS. Điều 178 BLTTHS 2003 quy định về sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa.
Pháp luật quy định sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa xét xử đảm bảo cho bị cáo
thực hiện tốt quyền bảo vệ lợi ích , quyền lợi cho mình. Thể hiện tính công khai minh
bạch bình đẳng trước tòa án của bị cáo.
Theo hướng dẫn của HĐTPTANDTC NQ 05/2005 NQHĐTP ngày 8/12/2005
hướng dẫn một số quy định trong phần xét xử phúc thẩm của BLTTHS thì trong TH
bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo kháng nghị thì Tòa án xét xử vắng mặt cho họ theo
quy định tại khoản 2 điều 178 BLTTHS. Theo khoản 2 điều 178 thì TA xét xử vắng
mặt bị cáo trong TH bị cáo bị cáo là người bị kháng cáo kháng nghị là phù hợp.
10


Nhưng trong TH bị cáo là người có kháng cáo là không hợp lí. Việc bị cáo vắng mặt
mà không có lí do chính đáng sẽ gây khó khăn trở ngại cho việc xét xử của tòa án thì
cần phải quyết định là bị cáo đã từ bỏ việc kháng cáo của mình và phiên tòa phúc

thẩm sẽ được hủy bỏ.
2.1.3 Quyền được giới thiệu về quyền và nghĩa vụ.
Trong quá trình tham gia tố tụng , người bị buộc tội sẽ có địa vị pháp lí khác
nhau tương ứng với mỗi tư cách tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng. Và khi người bị
buộc tội tham gia tố tụng với tư cách bị cáo thì họ sẽ có quyền và nghĩa vụ tương ứng
với tư cách bị cáo. Do vậy họ cần được CQTHTT, NTHTT giải tích cho họ biết
quyền và nghĩa vụ của mình.
Bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định của tòa án đưa vụ án ra xét xử.
Theo quy định tại điều 201 BLTTHS 2003 về thủ tục đảm bảo phiên tòa thì chủ tọa
phiên tòa là người giải thích cho bị cáo cũng như những người được triệu tập có mặt
tại phiên tòa về quyền và nghĩa vụ của của họ.
Quyền này giúp cho bị cáo thực hiện tốt hơn các quyền tố tụng của mình và đặc
biệt là quyền tự bào chữa và quyền đưa ra các tài liệu đồ vật, yêu cầu và quyền kháng
cáo.
2.1.4 Quyền được yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định
người phiên dịch, theo quy định của pháp luật.
Quyền này được quy định tại điều 42 BLTTHS. Quyền này thể hiện sự đảm bảo
khách quan trong quá trình xét xử. Đây là nguên tắc cơ bản trong TTHS, nhằm đảm
bảo sự vô tư của những người tiến hành tố tụng.
Ngoài ra bị cáo cũng có quyền yêu cầu thay đổi người giám định, người phiên
dịch. Họ là những chủ thể có vai trò quan trọng trong việc xác minh sự thật của vụ
án. Cũng như những người THTT khác khi người giám định, người phiên dịch thuộc
TH phải từ chối tham gia tố tụng mà không từ chối thì bị cáo có quyền yêu cầu thay
đổi người giám định. Bị cáo có quyền yêu cầu thay đổi NTHTT, người giám định ,
11


người phiên dịch trước khi phiên tòa xét xử. Khi có yêu cầu từ bị cáo thì chánh án
TAND, hội đồng xét xử phải xem xét và quyết định trong trường hợp cần thiết phải
hoãn phiên tòa. Thời hạn hoãn phiên tòa không quá 30 ngày kể từ ngày ra quyết

định.
2.1.5 Quyền đưa ra tài liệu đồ vật.
Tại phiên tòa xét xử bị cáo có quyền đưa ra các tài liệu đồ vật. Quyền đưa ra tài
liệu đồ vật, yêu cầu của bị cáo phải được đảm bảo trong suốt quá trình xét xử kể từ
khi bắt đầu phiên tòa đến phần xét hỏi tại phiên tòa cũng như phần tranh luận tại
phiên tòa. Đảm bảo tốt quyền đưa ra tài liệu , đồ vật, yêu cầu (yêu cầu thêm người
làm chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng,tài liệu xem xét chứng minh, yêu cầu hoãn
phiên tòa....). Đảm bảo tốt quyền đưa tài liệu đồ vật , yêu cầu của bị cáo trong quá
trình xét xử sẽ góp phần đảm bảo việc xác định sự thật của vụ án, đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của bị cáo. Để bị cáo có thể thực hiện tốt các quyền này thì việc đảm
bảo quyền tham gia phiên tòa của bị cáo có ý nghĩa quyết định , 2 quyền này có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
2.1.6 Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị cáo.
Quyền bào chữa là một quyền trong các quyền con người được Luật Quốc Tế
ghị nhận tại điều 14 Công Ước Quốc Tế về các quyền dân sự và chính trị. Quyền bào
chữa được thể hiện ngay từ khi một người bị khởi tố về hình sự. Khi họ trở thành đối
tượng bị buộc tội thì quyền bào chữa được thể hiện trong suốt quá trình điều tra, truy
tố, xét xử dưới các hình thức khác nhau được quy định tại điều 127 BLTTHS 2003,
điều 190 BLTTHS 2003. Trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy
định tại khoản 2 điều 57 BLTTHS “2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can,
bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng
luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
12


a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy
định tại Bộ luật hình sự;
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc

thể chất.
Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này, bị can, bị
cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối
người bào chữa.” mà người bào chữa vắng mặt thì hội đồng xét xử phải hoãn phiên
tòa. Quy định này của pháp luật nhằm đảm bảo cho bị cáo thực hiện tốt nhất các
quyền tự bào chữa tại tòa.
2.1.7 Quyền tự trình bày ý kiến tranh luận tại tòa.
Quyền này cho phép bị cáo đưa ra những ý kiến những lập luận của mình và đối
đáp với những ý kiến không thống nhất với các chủ thể khác. Theo quy định tại điều
218 BLTTHS 2003 “Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình;
Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên
toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia
tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan
đến vụ án.
Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên
quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những
ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.”
Quyền này của bị cáo thể hiện sự bình đẳng, khách quan trong quá trình xét xử,
qua việc bị cáo phát biểu ý kiến đưa ra những yêu cầu cũng như đối đáp với VKS.
Việc bị cáo thực hiện quyền trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa chính là bị cáo
thực hiện quyền tự bào chữa của mình tại tòa.
2.1.8 Quyền nói những lời sau cùng trước khi kháng nghị án.
13


Theo quy định tại điều 220 BLTTHS 2003 thì sau khi những người tham gia
tranh luận không trình bày ý kiến gì thêm, chủ tọa phiên tòa sẽ tuyên bố kết thúc phần
tranh luận và bị cáo sẽ được nói lời sau cùng trước khi hội đồng xét xử vào phòng

nghị án. Quyết định của hội đồng xét xử có ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng sức
khỏe,danh dự của bị cáo nên có ý nghĩa rất quan trọng. Pháp luật quy định cho bị cáo
nói lời cuối cùng là tạo điều kiện, cơ hội cho bị cáo được bày tỏ thái độ, nguyện vọng
của mình trước khi HĐXX đưa ra những quyết định của mình đối với vụ án.
Khi nói xong lời sau cùng, bị cáo có quyền trình bày mọi vấn đề có liên quan đến
vụ án và bày tỏ thái độ của mình đối với việc buộc tội. Pháp luật quy định trong khi
bị cáo nói lời sau cùng thì Hội đồng xét xử không được phép đặt câu hỏi. Quy định
này nhằm nhấn mạnh về việc hội đồng xét xử cần phải chủ yếu tôn trọng quyền và lời
nói sau cùng của bị cáo. Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo không được trình
bày những vấn đề không liên quan đến vụ án nhưng không được hạn chế thời gian đối
với bị cáo.
2.1.9 Quyền kháng cáo.
Kháng cáo là quyền cho phép bị cáo chống lại bản án và quyết định của tòa án
chưa có hiệu lực pháp luật và đòi hỏi xét xử lại. Theo đó bị cáo có quyền kháng cáo
các bản án, các quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án chưa có hiệu lực pháp luật
của tòa án. Theo quy định tại điều 233 BLTTHS 2003 thì Bị cáo phải gửi đơn đến tòa
án đã xử sơ thẩm hoặc tòa án phúc thẩm , trong trường hợp bị cáo đang bị tam giam
thì ban giám thị trại giam phải đảm bảo cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo. Bị cáo
cũng có thể trình bày trực tiếp với tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc kháng cáo, trường
hợp này tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo theo quy định tại điều 95
BLTTHS. Bị cáo có quyền kháng cáo trong trường hợp 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Điều 235 BLTTHS cũng quy định về việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận
nếu có lí do chính đáng.

14


Quyền kháng cáo tạo ra một trong những điều kiện để làm cơ sở cho việc xét xử
của tòa án cấp trên trực tiếp đối với bản án. Quyết định chưa có hiệu lực pháp luật
của tòa án cấp dưới trực tiếp nhằm kiểm tra tính hợp pháp , tính có căn cứ của bản án

quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của pháp luật và phát hiện các thiếu sót sai lầm.
Là điều kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặc biệt là của bị cáo
trong TTHS.
2.1.10 Quyền khiếu nại hành vi, quyết định của CQTHTT, NTHTT.
Cũng giống như bị can , khi bị cáo nhận thấy các quyết định, hành vi của
CQTHTT, NTHTT vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì bị cáo có quyền
khiếu nại. Bị cáo có quyền khiếu nại các quyết định , hành vi tố tụng của Chánh án,
Thẩm phán, Hội thẩm, thư kí tòa án..
Đối tượng của khiếu nại là các quyết định không thuộc vào đối tượng của kháng
cáo như : quyết định áp dung, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn , quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án của Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên
tòa. Bị cáo cũng có quyền khiếu nại hành vi của người THTT nếu các hành vi đó trái
pháp luật. Thời hạn khiếu nại được quy định tại điều 331 BLTTHS. Đối với khiếu nại
đối với các quyết định, các hành vi tố tụng của Chánh án tòa án do Tòa án cấp trên
giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định này là
quyết định cuối cùng , không thể bị khiếu nại tiếp và bị cáo có nghĩa vụ chấp hành .
Khi bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì về nguyên tắc bị
cáo không thể kháng cáo và phải chấp hành nhưng vẫn có thể khiếu nại. Việc giải
quyết khiếu nại trong trương hợp này được giải quyết theo trình tự thủ tục quy định
tại chương XXX về thủ tục giám đốc thẩm, chương XXXI về thủ tục tái thẩm của
BLTTHS. Thời hiệu khiếu nại của Bị cáo là 15 ngày kể từ ngày xác định hoặc biết
được hành vi của CQTHTT, NTHTT có vi phạm. Trừ TH do nguyên nhân khách quan
mà người bị kết án không thực hiện được quyền khiếu nại của mình thì thời gian gây
trở ngại không được tính vào thời hiệu khiếu nại.
15


2.2 Các nghĩa vụ tố tụng.
Được quy định tại khoản 3 điều 50 BLTTHS : “. Bị cáo phải có mặt theo giấy
triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể

bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.”
Như vậy cũng giống như bị can, bị cáo cũng có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy
triệu tậpcủa CQTHTT và ở đây là tòa án. Do tư cách bị cáo chỉ hình thành khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử của tòa án có thẩm quyền nên bị cáo phải có mặt theo
giấy triệu tập của tòa án.
Trong TH bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam thì có thể đảm bảo
được việc bị cáo có mặt theo giấy triệu tập của tòa án. Trong trường hợp bị can đang
tại ngoại thì nhiều khi tòa án gặp khó khăn trong việc triệu tập. Do vậy pháp luật đã
quy định nếu bị cáo vắng mặt mà không có lí do chính đáng khi tòa án triệu tập thì bị
cáo sẽ bị áp giải. Trong trường hợp bị cáo có hành vi bỏ trốn thì bị cáo sẽ bị truy nã
theo quy định của pháp luật.
III/Thực tiễn đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong tố tụng hình
sự.
3.1 Thực trạng.
Sau năm 1945, Nhà nước đã quan tâm đến tố tụng hình sự và đặc biệt là đảm
bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Đất nước ngày càng phát
triển thì công tác đảm bảo quyền con người nói chung và đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo nói riêng ngày càng có những tiến bộ đáng kể. Hiện nay
quyền và lợi ích hợp pháp khác của bị can, bị cáo trong TTHS đã được đảm bảo
tương đối tốt, tuy nhiên bên cạnh những kết quả còn tồn tại nhiều hạn chế.
3.1.1 Những kết quả đạt được trong đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị can, bị
cáo trong TTHS.
3.1.1.1 BLTTHS 2003 đã có những sự kế thừa những quy định của pháp luật tố
tụng trước và tiếp nhận thêm những tư tưởng quan điểm để hoàn thiện thêm 1 bước
16


đáng kể các quy định của pháp luật về quyền hạ, nghĩa vụ, trách nhiệm của những
người tham gia tố tụng. Quy định này có ý nghĩa rât lớn trong việc đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo, được đảm bảo xác định nhanh chóng sự thật của vụ án.

Thông qua số liệu thống kê của TANDTC, VKSNDTC về công tác giải quyết xét xử
vụ án hình sự thấy được sự cố gắng của CQTHTT, NTHTT trong việc xác định sự
thật của vụ án.
Báo cáo ngành tòa án cho thấy năm 2004 tòa án thụ lí 271 605 vụ án các loại,
giải quyết trên 194 652 vụ chiếm 89,45%. Đối với các vụ án hình sự đã giải quyết,
xét xử được 67 158 vụ trong tổng số 71 268 vụ chiếm 94,23%. So với năm 2003
nâng cao, án oan sai giảm, tình trạng án quá hạn luật định đã được khắc phục về cơ
bản. Theo thống kê của VKSNDTC từ 2005 đến 2009 số lượng án đình chỉ của hai
ngành VKS và CQĐT là 10 925 vụ với 17 130 bị can. Đây là số lượng đình chỉ khá
lớn. Có thể thấy trong 5 năm CQĐT và VKS đã làm tốt công tác của mình. Báo cáo
thống kê năm 2010 của ngành TAND thì TAQS các cấp đã thụi lí 7368 vụ án, giải
quyết và xét xử được 68 381 vụ án đạt 95%. Nhìn chung các vụ án hình sự đều được
xét xử và giải quyết trong thời hạn quy định của pháp luật. Một số tòa giải quyết
>95% như tòa quân sự, TANDTP Hà Nội, Hải phòng, Đà Nẵng... đảm bảo quyển và
nghĩa vụ của các đương sự trong TTHS đặc biệt là của Bị can, bị cáo..
Quyền bào chữa của bị cáo ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Theo thống kê của
TANDTC thì số vụ án có người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
khác tăng : 2006 là 6007 vụ, 2007 là 5933 vụ, 2008 là 7355 vụ, 2009 là 7255 vụ. Sự
tham gia của người bào chữa trong TTHS sẽ đảm bảo quyền cho đương sự nói chung
và của bị can, bị cáo nói riêng để đảm bảo tốt nhật về quyền bà nghĩa vụ của họ.
3.1.1.2 Bản thân bị can, bị cáo là những người bị buộc tội trong TTHS quyền và
lợi ích của họ bị ảnh hưởng nhiều nhât là khi tham gia vào quá trình tố tụng. Họ cũng
đã có những hoạt động tích cực trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Khi công nghệ truyền thông ngày càng phát triển thì bị can, bị cáo cũng đã hiểu hơn
17


về quyền và nghĩa vụ của mình trong TTHS. Đặc biệt là quyền bào chữa và quyền
nhờ người khác bào chữa được BC, BC thực hiện khá tốt nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.

Bên cạnh đó những quyền cơ bản như: quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
kháng cáo... đã được thực hiện tương đối tốt góp phần xác định sự thật khách quan
của vụ án.
3.1.1.3 Ngoài bị can, bị cáo, NTHTT thì người tham gia tố tụng khác cũng góp
phần không nhỏ trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho BC, BC đặc biệt
là người bào chữa, người giám định và người phiên dịch. Họ đã có những đóng góp
rất lớn trong việc xác định sự thật của vụ án đảm bảo quyền cho BC, BC có thể thực
hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
3.1.2 Hạn chế.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được như trên, không còn tránh khỏi những hạn
chế vẫn còn tồn tại.
3.1.2.1 Nhìn vào số liệu như đã nêu trên từ năm 2005 đến 2009 số lượng án
đình chỉ của VKS và CQĐT là 10 925 với 17130.
Qua số liệu trên ta cũng thấy được rằng những NTHTT, CQTHTT đã không thực
hiện tốt quyền hạn và trách nhiệm của mình, dẫn đến việc truy tố không đúng người,
đúng tội xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là bị cáo.
Theo báo cao tổng kết của TANDTC 2010 thì tỷ lệ các bản án bị hủy là 51%,
trong đó nguyên nhân chủ quan là 0,44%, nguyên nhân khách quan 0,31%. Tỉ lệ các
bản án bị sửa là 5,1% trong đó nguyên nhân chủ quan là 0,4%, nguyên nhân khách
quan là 4,65% so với cùng kì năm trước tỉ lệ các bản án và quyết định bị hủy do
nguyên nhân khách quan tăng 0,6%, bị sửa do nguyên nhân chủ quan tăng 0,09%.
Như vậy tỉ lệ các bản án bị hủy, sửa vẫn còn cao nguyên nhân phần lớn là do vi
phạm nghiêm trọng trong tố tụng, tình trạng các cấp sơ thẩm điều tra, thu thập chứng
cứ không đầy đủ. Bên cạnh đó việc chậm ban hành các bản án tại các tòa vẫn chưa
18


được khắc phục làm ảnh hưởng đến công tác thi hành án cũng như quyền lợi của BC,
BC. Hơn nữa việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS áp dụng quy định
tại điều 47 BLHS và việc trả hồ sơ cho VKS để điều tra vẫn còn chưa chính xác

trong quá trình xét xử phúc thẩm. Có những vụ án không xét xử một cách toàn diện
mà chỉ xem xét những tình tiết liên quan đến bị cáo có kháng cao kháng nghị, nên khi
quyết định hình phạt đã giảm hình phạt cho các bị cáo đầu vụ thấp hơn hình phạt đối
với các bị cáo có vai trò thứ yếu.
Sự chuẩn bị của 1 số cấp thẩm phán còn chưa tốt, thể hiện ở việc điều khiển
phiên tòa, phần xét hỏi. Có những TH thẩm vấn bị cáo còn chưa khách quan, tên tuổi
bị cáo, số liệu còn bị nhầm lẫn...
Trong TTHS quyền bào chữa của BC, BC là một phần quan trọng và có ý nghĩa
rất lớn trong việc xác định sự thật của vụ án. Nhưng việc giao chứng nhận cho người
bào chữa còn gặp nhiều khó khăn. Về thủ tục cấp GCN NBC theo điều 27 Luật luật
sư quy định gồm có 3 laoij giấy tờ, nhưng cơ quan điều tra thường đòi hỏi họ thêm
chứng chỉ hành nghề luật sư, hành vi pháp lí giữa đương sự và luật sư. Rõ ràng đây là
yêu cầu trái với quy định của Luật luật sư và để làm khó luật sư. Ảnh hưởng đến
quyền lợi hợp pháp của BC, BC.
Trong TTHS còn tồn tại những vấn đè như mớm cung, ép cung, dùng nhục
hình.. việc làm trái quy định của pháp luật đó của NTHTT đã xâm hại nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích của BC, BC và làm sai sự thật của vụ án.
3.1.2.2 Từ phía bị can, bị cáo.
Đây là những người có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng rất nhiều trong TTHS,
nhưng nhiều bị can, bị cáo chưa thực sự có ý thức bảo vệ quyền lợi. Đặc biệt là
những người ở vùng sâu vùng xa, những vùng có nền kinh tế kém phát triển, trình độ
dân trí của người dân còn chưa cao.
Theo số liệu thống kê của TANDTC thì năm 2006 TAND đã xét xử 61 634 vụ án
với 99 340 bị cáo nhưng chỉ có 6 007 vụ án có sự tham gia của người bào chữa bảo
19


vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.Năm 2008 số vụ án đã xét xử là 65 073
vụ trong đó chỉ có 7 355 vụ án có người bào chữa tham gia. Đến năm 2009 số vụ án
xét xử là 68 425 vụ, số vụ có người bào chữa tham gia là 7 355. Điều đó cho thấy số

vụ án có đương sự tham gia bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự vẫn còn thấp chưa đáp ứng được đòi hỏi của công tác điều tra xét xử, nhằm
xác định sự thật của vụ án, bảo vệ các quyền lợi liên quan.
3.1.2.3 Về phía người bào chữa người phiên dịch, giám định.
Một số trường hợp người giám định, người phiên dịch, người bào chữa không
làm tốt nghĩa vụ của mình đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, trong việc xác định sự thật của vụ án.
Trong đó có những trường hợp tại phiên tòa xét xử, người bào chữa đã từ chối
bào chữa cho bị cáo mặc dù bị cáo đã bị truy tố về tội giết người ở khung hình phạt
cao nhất là tử hình. Cụ thể là vụ án Nguyễn Trường Nhân và Lương Hoài Sang sát hại
phó bí thư quận Ủy Phú Nhuận là Đặng Thu Hồng( TPHCM) . Sau khi kết thúc phần
xét hỏi, luật sư Phạm Quốc Hùng ( đoàn luật sư thành phố HCM) bào chữa cho cả hai
bị cáo, bất ngờ đứng lên từ chối bào chữa cho cả hai bị cáo với lí do: “lời khai tại tòa
ngày hôm nay của 2 bị cáo mâu thuẫn nhau, nếu bào chữa cho cả hai sẽ làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của các bị cáo”. Mặc dù tòa đã giải thích và Nhân đã có hai vị
luật sư khác bào chữa và tòa yêu cầu Luật sư Hưng bào chữa cho bị can Sang, nhưng
luật sư này đã từ chối. Điều nầy ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bị cáo Sang.
3.2 Nguyên nhân.
3.2.1 Khi nói đến nguyên nhân khiến cho quyền và nghĩa vụ của những người
tham gia tố tụng nói chung thì nguyên nhân đầu tiên phải nhắc đến cũng chính là
nguyên nhân từ phía pháp luật.

20


Các quy định được nêu ra nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những
người tham gia tố tụng. Nhưng nếu các quy định đó không hợp lí sẽ tác dụng ngược
trở lại ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của BC, BC.
Quyền tự bào chữa của BC, BC và nhờ người khác trong LTTHS có vai trò rất

quan trọng trong việc bảo vệ các vấn đề liên quan đến BC, BC. Trong TH bị can, bị
cáo không hiểu biết về pháp luật thì người bào chữa càng đóng vai trò quan trọng
hơn. Pháp luật đã có những quy định về việc mời người bào chữa cũng như điều kiện
để trở thành người bào chữa của BC, BC.

Nhưng thủ tục xem xét và cấp

GCNNBC là khó khăn điều 56 BLTTHS. Nhưng rất ít trường hợp luật sư được cấp
GCNNBC đúng trong thời hạn như trong quy định trên. Lí do cơ quan điều tra
thường đưa ra là do bưa điện đến chậm nếu đề nghị đó là đề nghị của người bào chữa
kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa được gửi qua đường bưu điện hoặc cấp
có thẩm quyền đi công tác vắng.
Người bào chữa cũng có khá nhiều quyền và nghĩa vụ quan trọng trong TTHS
nhưng cho đến nay lại không hề có 1 quy định nào đối với những người THTT để
đảm bảo thực hiện quyền lợi của người bào chữa góp phần đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của BC, BC.
3.2.2 Nguyên nhân từ phía người tham gia tố tụng.
Bị cáo, bị can không hiểu biết pháp luật đã gây ra rất nhiều khó khăn cho việc
giải quyết vụ án cũng như quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình.
Vì khi bại cáo biết được mình có quyền và nghĩa vụ gì trong tố tụng hình sự thì họ sẽ
chủ động hơn trong quá trình điều tra, truy tố xét xử nhằm chứng minh người không
phạm tội hay có thể đưa ra các tình tiết giảm nhẹ TNHS của mình, chủ động hợp tác
với CQĐT hay VKS trong quá trình tố tụng. Nhằm nhanh chóng xác định sự thật của
vụ án, xét đúng người, đúng tội và có tính răn đe đối với các chủ thể khác
Như vây có thể thấy việc bị can, bị cáo không biết pháp luật không nắm rõ quyền
và nghĩa vụ của mình là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng không bảo
21


vệ được quyền và nghĩa vụ của mình trong tố tụng hình sự nói riêng và trong tố tụng

nói chung. Do vậy cần phải có các biện pháp để nâng cao hiểu biết pháp luật của BC,
BC.
3.2.3 Nguyên nhân từ phía các CQTHTT, NTHTT.
Đây là nguyên nhân trực tiếp và phổ biến nhất bởi CQTHTT, NTHTT là người
trực tiếp áp dụng các quy định của pháp luật vào giải quyết vụ án. Nhiều trường hợp
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị xâm hại do sự thiếu hiểu biết hoặc
hiểu biết không đúng của NTHTT, CQTHTT về các quy định của pháp luật gây ra
nguyên nhân là do chất lượng NTHTT của nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu của
thực tế hiện nay. Trong khi các vụ án hình sự ngày càng trở lên quy mô và phức tạp
hơn trong khi cán bộ có trình độ chuyên môn cao trong tố tụng hình sự lại không
nhiều. Do vậy kéo theo đó là việc giải quyết các vu án hình sự sẽ không tránh khỏi
những sai lầm và có thể gây ra tình trạng án oan sai trong tố tụng.
Theo báo cáo của CATANDTC về công tác tòa án trong nhiệm kì 2007-2011 số
bị cáo tuyên có tội và sau khi kháng cáo được tuyên bố vô tội vẫn còn tuy đã giảm đi
đáng kể qua các năm. Năm 2007 số vụ án đã được giải quyết ở cấp tỉnh là 19 394 vụ,
số bị cáo được tuyên là không có tội là 22 bị cáo, đến năm 2009 số vụ án đã được giải
quyết là 11 637 vụ, số bị cáo được tuyên là không có tội là 15 bị cáo, năm 2012 số vụ
án đã được giải quyết ở cấp tỉnh là 8587 vụ, số bị cáo được tuyên không có tội là 3
người. Tình trạng đã có giảm so với các năm về trước.
Ngoài ra một thực tế cho thấy, nhiều khi những NTHTT cố tình làm sai các quy
định của pháp luật như bức cung ép cung, nhằm giải quyết nhanh chóng các vụ án
theo ý chủ quan của mình. Nguyên nhân là do chưa có một chế tài đủ mạnh để đảm
bảo NTHTT không vi phạm các quy định của pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp khác của BC, BC.
3.2.4 Nguyên nhân khác.

22


- Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lí: đây là một trong những nguyên nhân có ảnh

hưởng không nhỏ đến công tác điều tra xét xử nhằm xác định sự thật của vụ án. Ở
vùng sâu xa, nơi điều kiện còn khó khăn thì việc điều tra thu thập chứng cứ ở đây còn
gặp nhiều khó khăn, nhất là trong việc đi lại điều tra, thu thập chứng cứ ( những
chứng cứ thu thập liên quan đến vụ án có thể bị hủy bỏ hoặc mất).
- Điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật, kinh phí hoạt động: ở vùng sâu, xa các hoạt
động điều tra truy tố còn gặp nhiều khó khăn do thiếu thốn những cơ sở này, nó ảnh
hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án, không đảm bảo được tốt các quyền và
nghĩa vụ của BC, BC trong quá trình giải quyết vụ án.
3.3 Giải pháp.
Trước thực trạng ADPL của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của BC, BC thì
chúng ta cần có các giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo tốt nhất có thể quyề của BC, BC
trong thời gian hiện nay.
-Thứ nhất là cần phải sửa đổi bổ sung một số quy định của pháp luật không
phù hợp với tình hiện nay:
+ Quy định của pháp luật về thời điểm xác định tư cách bị can cho người bị khởi
tố. Như đã phân tích ở trên chưa có một quy định cụ thể nào của pháp luật quy định
về việc xác định thời điểm người khởi tố có tư cách bị can. Kể từ khi có quyết định
khởi tố người bị khởi tố có tư cách bị can hay phải đến khi quyết định đó được phê
chuẩn. Theo đó cần phải có sự hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Theo em nên quy
địnhthời điểm người bị khởi tố có tư cách bị can kể từ khi quyết định khởi tố được
VKS phê chuẩn.
+ Quy định tại điểm b khoản 1 điều 179 BLTTHS trong phần chuẩn bị xét xử.
Theo đó thẩm phán sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra BC cho VKS khi có các căn
cứ chứng minh rằng bị cáo có phạm tội hay không phạm tội hoặc có đồng phạm khác.
Theo quy định tại điều 50 BLTTHS thì bị cáo là người đã bị tòa quyết định đưa vụ án
ra xét xử. Nhưng quy định trên lại thuộc về phần chuẩn bị xét xử. Khi đó thẩm phán
23


đang xem xét để ra quyết định đưa vụ án ra xét xử hay không? Và tư cách của người

bị khởi tố trong VAHS vẫn là bị can. Bởi vậy quy định của pháp luật là “ Cho rằng bị
cáo phạm một tội khác” là không đúng phải sửa thành “cho rằng bị can đã phạm một
tội khác”.
+ Quy định về thủ tục cấp GCN NBC. Cần quy định bổ sung về thủ tục cấp GCN
NBC ngay trong BLTTHS đồng thời bổ sung chế tài đối với người có hành vi vi
phạm thời hạn cấp GCN. Đặc biệt là có phần chế tài xử lí nghiêm đối vơi những
NTHTT có hành vi tác động đến BC, BC để họ phải từ chối luật sư, nhằm ngăn cản
luật sư tham gia tố tụng.
+ Sửa đổi điều 196 BLTTHS về giới hạn việc xét xử. Theo quy định tại điều này
tòa án có thể xét xử BC theo khoản khác với khoản mà VKS truy tố trong cùng một
điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố. Điều này có
thể gây bất lợi cho bị can trong việc thực hiện quyền bào chữa của mình. Do vậy cần
phải sửa đổi bổ sung theo hướng để tòa án trong bất kì trường hợp nào cũng không
được vượt quá giới hạn truy tố của VKS điều đó làm bất lợi cho bị cáo. TA chỉ có thể
vượt quá giới hạn truy tố của VKS nếu không làm bất lợi cho BC, không làm ảnh
hưởng đến quyền bào chữa.
Tòa án còn phải tập trung tăng cường và làm tốt hơn nữa công tác hướng dẫn
ADPL tập trung vào 1 số vấn đề thực tiễn xét xử đang được đặt ra, những vấn đề mà
TANDTC được giao hướng dẫn trong quá trình triển khai, thi hành các VBPL mới
ban hành như: Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS, pháp lệnh án phí, lệ phí
tòa án, ủy thác tư pháp....
-Thứ hai là nâng cao kiến thức pháp luật cho người tham gia tố tụng đặc biệt là
BC,BC.
Những người TGTT đặc biệt là BC,BC là người có quyền và lợi ích hợp pháp
ảnh hưởng nhiều nhất trong TTHS, nhưng nhiều khi do không hiểu biết pháp luật mà
chính bản thân họ đã không thực hiện được các quyền và nghĩa vụ và tự mình đánh
24


mất những quyền và lợi ích hợp pháp khác mà họ được hưởng. Do vậy cần thường

xuyên tuyên truyền nâng cao chất lượng, kiến thức pháp luật cho người dân. Đối với
BC, BC thì cần những NTHTT phải đảm bảo thực hiện đúng trách nhiệm cụ thể về
các quyền và nghĩa vụ của BC, BC cho họ biết.
-Thứ ba là nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ của những NTHTT.
Chúng ta cần phải có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và số lượng đội
ngũ NTHTT, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng , đạo đức nghề nghiệp. Tiếp tục
kiện tòa về tổ chức tăng cường công tác về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tòa
án trong sạch vững mạnh, có lộ trình từng bước đảm bảo đầy đủ về số lượng, chất
lượng chuyên môn... Làm tốt công tác đào tạo nghiệp vụ xét xử, để đào tạo nguồn bổ
nhiệm thẩm phán. Chú trọng làm tố công tác tổng kết thực tiễn xét xử.
-Thứ tư một số giải pháp khác.
Đổi mới ứng dụng CNTT vào công tác chuyên môn và hoạt động quản lí của
các CQTHTT. Tăng cường kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, điều kiện làm
việc cho những người THTT. Xây dựng đề án về cải tiến chất lượng , chế độ tiền
lương, kinh phí nghiên cứu, sửa đổi chế độ, tiền lương phù hợp với đặc thù công việc,
tạo điều kiện nâng cao cuộc sống cho NTHTT, có cơ chế thu hút nhân lực có chất
lượng cao và đội ngũ NTHTT.

KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên ta có thể thấy được vai trò quan trọng của việc nghiên
cứu một cách tổng thể địa vị pháp lí của BC, BC trong TTHS. Địa vị pháp lí của BC,
BC được xây dựng dựa trên những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho BC,
BC khi tham gia vào quá trình tố tụng. Đảm bảo quyền và nghĩa vụ của BC, BC được
thể hiện trên thực tế đòi hỏi bản thân BC, BC và các CQTHTT, NTHTT và những
25


×