Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Trình bày quan điểm cá nhân về vấn đề có ghi nhận " quyền được chết" của cá nhân trong pháp luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.11 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc sống đối với mỗi người có lẽ là “tài sản” quí nhất mà không ai
muốn rời bỏ, do đó quyền sống của con người luôn được Nhà nước và pháp luật
tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên hiện nay, ngày càng xuất hiện nhiều căn bệnh nan
y, khoa học vẫn chưa tìm ra được phương pháp chữa trị, vì vậy có nhiều trường
hợp bệnh nhân mắc bệnh nan y và có nguyện vọng “được chết” để được giải thoát
nhưng không được pháp luật cho phép. Từ thực tiễn đó, đã xuất hiện khái niệm về
”quyền được chết” tại những nước tư bản phương Tây – nơi mà xã hội luôn luôn
biến động với những thay đổi lớn. Với Việt Nam, vấn đề này không còn quá mới
mẻ, đây vẫn là vấn đề gây ra nhiều tranh cãi trong nhiều năm qua và hiện tại chưa
có bất cứ một định cụ thể nào về vấn đề này. Vậy có nên chấp nhận cho một công
dân có quyền được chết hay không? Nếu cho phép thì được sử dụng quyền này
trong những trường hợp nào? Liệu quyền được chết có đi ngược lại quyền được
sống hay không? ,…Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này em đã quyết định lựa chọn
bài tập số 9: “Trình bày quan điểm cá nhân về vấn đề có ghi nhận " quyền được
chết" của cá nhân trong pháp luật dân sự.” để hoàn thành bài tập lớn của mình.
Do nhận thức và kinh nghiệm bản thân còn hạn chế, bài viết của em chắc
chắn có nhiều thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của thầy cô để em có thể
hoàn thiện bài làm của mình. Em xin chân thành cảm ơn!


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền

NỘI DUNG
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN HIỆN NAY VỀ “QUYỀN ĐƯỢC CHẾT”
1. Khái niệm quyền được chết
Quyền được chết ban đầu xuất hiện gắn liền với khái niệm “cái chết êm ả”.
Lịch sử của thuật ngữ euthanasia (Tiếng Anh) hay euthanasie (Tiếng Pháp), an tử
(Tiếng Trung) mà chúng ta vẫn thường gọi là “cái chết êm ả” bắt nguồn từ một từ


Hy Lạp là “euthanatos”. Danh từ cái chết êm ả bắt đầu xuất hiện rộng rãi hơn vào
thế kỷ XVII, nhằm khuyến khích các bác sỹ quan tâm đến sự đau đớn của người
bệnh và giúp đỡ người “gần đất xa trời” thoát khỏi thế giới này một cách nhẹ
nhàng và dễ dàng hơn. Như vậy, lúc đó chưa xuất hiện khái niệm quyền được chết
như khoa học hiện đại nhưng đã có những mầm mống sơ khai của khái niệm quyền
được chết.
Trên thế giới đã có một số nước thừa nhận quyền được chết như Hà Lan
năm 2000, Bỉ năm 2002, Mỹ năm 2005….nhưng ở Việt Nam hiện nay, trong các
văn bản pháp luật chưa hề có quy định nào về quyền được chết( chưa được pháp
luật chính thức công nhận). Mặc dù quyền này là một quyền đã phát sinh trong
thực tế và có rất nhiều người mong muốn được thực hiện quyền đó. Khi chưa được
công nhận về mặt pháp luật, một người thực hiện hành vi nhằm hiện luật hóa
quyền được chết (trợ giúp tự tử, thực hiện trực tiếp đưa bệnh nhân “ra đi” (chết))
được quy vào một số tội: giết người, giúp người khác tự sát, không cứu giúp người
bị nạn…
Hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể về quyền được chết. Giới khoa học hầu
như chỉ tập trung vào việc xem xét xem nó có phù hợp với quốc gia mình hay
không. Tuy nhiên, nếu dựa vào nội dung của quyền được chết hiện nay được đa số
quan điểm đồng tình và theo các đạo luật của các nước đã thông qua “cái chết êm
ả” thì có thể rút ra định nghĩa quyền được chết như sau:
“Quyền được chết là một quyền nhân thân của người đã thành niên đang phải
chịu sự đau đớn về thể chất hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được

-2-


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền


sau một tai nạn hay một bệnh lý không thể cứu chữa, rơi vào tình huống y tế không
lối thoát.” (Trương Hồng Quang - Số Thông tin Khoa học Pháp lý tháng 3/2011)
2. Phân loại phạm vi thực hiện quyền được chết

a – Về phạm vi các loại bệnh nhân
Đến nay, ở các nước đã công nhận và chưa công nhận quyền được chết về
việc phân loại bệnh nhân trong cái chết êm ả còn nhiều quan điểm khác nhau, tồn
tại. Do đó, trong giới pháp lý thì chưa có các quy định cụ thể và thống nhất về đối
tượng của quyền được chết. Tuy nhiên, giới y học hầu hết thống nhất có 2 dạng
bệnh nhân:
Dạng thứ nhất- Những trường hợp chết não: “tình trạng toàn não bộ bị
thương tổn nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không
thể sống lại được”. Bệnh nhân sống hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ như hô
hấp, tuần hoàn và nuôi dưỡng nhân tạo… nếu rút máy thì coi như sự sống chấm
dứt.
Dạng thứ hai - trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và không có khả
năng hồi phục. Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia
đình (bản thân họ không còn biết khổ hay sướng). Đôi lúc người bệnh biểu lộ được
ý chí của mình và hoàn toàn không sống nhờ các biện pháp nhân tạo. Trường hợp
này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau đớn kéo dài nhưng không mất ý thức
thường xuyên.
Nguyên nhân dẫn đến các tình trạng trên có thể là sau một tai nạn hay bị
mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa.
b – Về cách thức thực hiện
Có 2 cách thức như sau:
Thứ nhất, Cái chết êm ả chủ động: Bác sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu
của bệnh nhân (tiêm thuốc…)
Thứ hai, Cái chết êm ả thụ động: Không điều trị. Bác sỹ ngưng mọi biện
pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân (rút ống dẫn…).


-3-


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền

3. Phân biệt quyền được chết với những hành vi mang tính chất tương tự
Có nhiều người cho rằng khi quy định quyền được chết và hành vi của bác sĩ
sẽ vi phạm rất nhiều quyền khác được quy định trong nhiều ngành luật trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Nhưng đó là cách hiểu rất sai lầm xuất phát từ việc
chưa hiểu rõ về bản chết của hành vi này, sau đây em xin phân tích điểm khác nhau
giữa quyền được chết và các hành vi tương tự được cho là có liên quan. Việc phân
biệt này rất có ý nghĩa trong thời điểm hiện nay khi hầu hết các quốc gia đều chưa
cho phép và thông qua luật về quyền được chết. Việc phân biệt này càng có ý nghĩa
trong việc nghiên cứu, xây dựng Luật An tử.
a – Đối với hành vi tự sát.
Hai hình thức, ý chí về chấm dứt sự sống này khác nhau. Hành vi thực
hiện quyền được chết có thể được tiến hành bởi chính bác sỹ và chính bệnh nhân
(dưới sự trợ giúp của bác sỹ). Điều kiện về tình trạng nan nhân để diễn ra việc thực
hiện quyền được chết có điểm phân biệt với hành vi tự sát là điều kiện sống của
bệnh nhân đó không được đảm bảo nữa do đang ở giai đoạn cuối của bệnh vô
phương cứu chữa, chịu nhiều đau đớn. Còn hành vi tự sát do chính người tự sát
thực hiện và có thể do sự quẫn bách về tinh thần hay sai lệch về ý chí, không chỉ
đơn thuần gắn với quyền được chết. Nếu một bệnh nhân mắc bệnh vô phương cứu
chữa tự mình tìm đến cái chết, không có sự trợ giúp của bác sỹ hay của ai đó thì
không hội tụ đủ những yếu tố cấu thành việc thực hiện quyền được chết, hành vi
này sẽ được coi là hành vi tự sát.
b - Phân biệt hành vi giúp người bệnh thực hiện quyền được chết với
hành vi giúp người khác tự sát

Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát được quy định rất cụ thể trong điều
101 BLHS 1999 quy định chi tiết về việc làm tước đi tính mạng của nạn nhân
thông qua những hành vi nhất định. Về hành vi xúi giục người khác tự sát rõ ràng
khác hành vi thực hiện quyền được chết bởi trong việc thực hiện quyền được chết,
bác sỹ chỉ làm theo yêu cầu của bệnh nhân chứ không xúi giục bệnh nhân. Về hình
thức, hành vi giúp người khác tự sát có nhiều loại và đa dạng về chủ thể. Chủ thể
thực hiện việc kết thúc sự sống của bệnh nhân để người này thực hiện quyền được

-4-


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền

chết phải là bác sỹ, còn trong việc giúp người tự sát thì phạm vi chủ thể tham gia
thực hiện rộng hơn nhiều. Đó có thể là bât kỳ ai, có thể là những người không có
chuyên môn y tế, những người hoàn toàn không biết nạn nhân là ai… Hơn nữa,
điều kiện tình trạng của bệnh nhân trong quyền được chết là điểm mấu chốt để
phân biệt với các hành vi khác.
c - Phân biệt với Tội giết người
Trong hành vi giết người, cái chết xảy ra không có sự đồng ý của nạn nhân
còn trong hành vi của bác sỹ khi giúp một người thực hiện quyền được chết thì có
sự đồng ý của bệnh nhân. Tuy nhiên, ở các nước chưa hợp pháp hóa quyền được
chết, việc bác sỹ thực hiện an tử theo yêu cầu của bệnh nhân/gia đình của bệnh
nhân thường bị xem là hành vi giết người, đi ngược lại với chức năng của một
người thầy thuốc. Bên cạnh đó, tại Hoa Kỳ đã có những trường hợp Tòa án xét xử
bác sỹ thực hiện hành vi có liên quan đến an tử với tội danh giết người (cho dù
bệnh nhân có giấy đề nghị yêu cầu bác sỹ thực hiện an tử). Nguyên nhân của
những vấn đề này có thể xuất phát từ quan niệm của các nước có sự nhìn nhận sai

lầm về bản chất của an tử.
Cũng có quan điểm cho rằng, tình tiết tăng nặng “giết người thuê” tại điểm
m, khoản 1, Điều 93 Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, có điểm giống với hành vi
của quyền được chết. Không khó để phân biệt hành vi giết người với hành vi thực
hiện quyền được chết bởi người giết thuê thực hiện hành vi này vì lợi ích của bản
thân( phần lớn là được hưởng 1 khoản tiền từ người thuê giết nạn nhân), còn trong
việc giúp thực hiện quyền được chết, người thực hiện phải là bác sỹ, vì mục đích
tốt đẹp, tuân theo những quy định nghiêm ngặt của pháp luật hiện hành.
II – QUAN ĐIỂM CỦA CÁ NHÂN VỀ VẤN ĐỀ “QUYỀN ĐƯỢC CHẾT”
1. Đánh giá của cá nhân về một số quan điểm hiện nay về vấn đề này
a – Về những quan điểm phản đối quyền được chết
Thứ nhất, một số quan điểm phản đối cho rằng quyền được chết làm sói mòn
quyền cơ bản được sống (được coi là quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của con
người). Theo em, quan điểm này là đúng nhưng chưa không nên áp đặt trong mọi

-5-


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền

trường hợp. Ai cũng khao khát được sống dù chỉ còn một hi vọng sống nhỏ nhoi
nhất, theo nhà văn T.Halibuton thì “Tình yêu cố xưa nhất và cũng vĩ đại nhất là
tình yêu cuộc sống”, điều này cho thấy những người bệnh muốn được chết trong
“êm ái” đã phải trải qua đau đớn, dằn vặt như thế nào khi mà ngay cả một hi vọng
sống cũng không còn. Khi người bệnh giai đoạn cuối chịu nhiều đau đớn không chỉ
cho bản thân mà còn cho cả gia đình. Quyền được chết giúp họ thoát khỏi những
dày vò về tâm lý cũng như thể xác, đây là hành vi vì mục đích nhân đạo. Họ không
chối bỏ quyền tự nhiên là được sống của mình mà họ từ bỏ vì không đủ điều kiện

đẻ đảm bảo sự sống nữa. Điều này hoàn toàn khác với những người còn có khả
năng sống mà lại từ bỏ, do đó pháp luật cần phải quy định rất chặt chẽ ở việc quy
định đối tượng của quyền được chết. Xin được trích một đoạn khá hay trên
/>
như

sau: “Chính vì do cuộc sống là quí giá nhất, nên hơn ai hết, chính những người bị
bệnh muốn chết hẳn hiểu rõ vì sao mình lại muốn chết. Suy cho cùng, quyền được
sống cũng chính là quyền được chết. Vì xét về mặt pháp lý, nếu “sống” được xem
là quyền - chứ không phải là nghĩa vụ. Thì một người cũng có quyền từ chối quyền
đó – của chính mình – mà không làm ảnh hưởng tới ai”
Thứ hai, một số luật gia lo ngại rằng nếu thông qua luật an tử sẽ dẫn đến tình
trạng bị lạm dụng để thực hiện tội ác vô nhân đạo. Nhưng có lẽ lý do để không
công nhận “quyền được chết” này lại không thuyết phục. Bởi vì, Nhà nước có trách
nhiệm trong việc bảo đảm thực thi quyền của công dân và bảo vệ các quyền đó
không bị xâm hại. Nếu quan điểm này là nguyên nhân của việc không công nhận
“quyền được chết” phải chăng là thể hiện sự yếu kém trong công tác quản lý, giải
quyết những vấn đề nảy sinh khi quyền này đc công nhận. Tuy nhiên, đối với các
nước có hệ thống pháp luật lỏng lẻo thì điều này thực sự là một mối lo. Nhưng cá
nhân tôi tin chắc rằng với vai trò là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khi đã
tìm ra được nguyên nhân và hậu quả của việc lạm dụng “quyền được chết” để thực
hiện các tội ác vô nhân đạo, Nhà nước và hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ có
những biện pháp phòng ngừa cụ thể và từ đó có những quy định thắt chặt vấn đề
này.

-6-


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân


Nguyễn Thế Quyền

Thứ ba, một số ý kiến khác thì cho rằng nếu có Luật An tử thì nhiều người
sẽ giảm ý chí muốn sống và muốn chiến đấu với bệnh tật, niềm tin vào cuộc sống.
Thực hiện cái chết êm ả là giết người, điều này đi ngược lại giá trị đọa đức truyền
thống của lương y. Theo quan điểm cá nhân, cả hai ý kiến trên đều mang cách nhìn
tiêu cực do chưa hiểu rõ bản chất của của Luật an tử. Bản thân bác sĩ sẽ không bao
giờ mong muốn bệnh nhân của mình ra đi nếu còn có khả năng sống, còn đối với
các bệnh nhân đã không thể đủ điều kiện sống thì giúp bện nhân thoát khỏi đau
đớn chính là cứu bệnh nhân khỏi cuộc sống đâu khổ- nhìn trên phương diện nhân
sinh quan thì đo slaf cứu người chú không phải giết người. Mặt khác khi đã được
quy định một cách chi tiết về trình tự, thủ tục thì bác sĩ sẽ rất sợ mình phạm tội nên
càng phải tuân thủ nghiêm ngặt. Đối với bệnh nhân không phải muốn an tử là được
an tử vì nó còn tuân theo rất nhiều thủ tục, đây chỉ là biện pháp cuối cùng không
còncách nào khác, khi y học cũng phải “ bó tay”. Đây là một quyền dân sự do đó
cả nạn nhân và bác sĩ đều có thể lựa chọn việc thực hiện hay không thực hiện chứ
không hề có sự ép buộc ai phải có suy nghĩ là phải an tử và trợ giúp an tử.
b – Về những quan điểm ủng hộ quyền được chết
Bên cạnh những quan điểm phản đối cũng có rất nhiều quan điểm ủng hộ
quyền được chết:
- Thứ nhất, có rất nhiều trường hợp trên khắp thế giới, những bệnh nhân
sống trong đau khổ, dằn vặt về thể xác kéo dài hoặc sống mà không biết mình tồn
tại. Việc công nhận quyền được chết hướng tối mục đích tốt đẹp giúp nạn nhân
trong tình trạng đau đớn kéo dài, bệnh nan y vô phương cứu chữ ở giai đoạn cuối,
sống cuộc sống “địa ngục trần gian” được ra đi một cách thanh thản. Đây là một
hành động nhân đạo.
- Thứ hai, Nếu không công nhận quyền được chết sẽ làm cho không những
bệnh nhân mà cả bác sĩ cũng như gia đình bệnh nhân rất lo âu và đau khổ. Có
nhiều trường hợp bệnh nhân đã quá mệt mỏi và vô phương cứu chữa nhưng chưa
chết đã cầu xin bác sĩ giúp mình được giải thoát, nhìn thấy bệnh nhân sống mà khổ

sở hơn chết, bác sĩ rất muốn giúp nhưng lại là vi phạm pháp luật. Điều này khiến

-7-


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền

bác sĩ cũng như bệnh nhân ngày ngày sống trong sự phiền lòng, dằn vặt. Việc công
nhận “quyền được chết” là tốt cho cả bác sĩ và bệnh nhân.
2. Quan điểm của cá nhân
Chúng ta cũng biết rằng, sự sống và cái chết là một chuỗi tuần hoàn, một qui
luật của tạo hóa. Không có gì là tồn tại vĩnh cửu và bất biến. Con người luôn mong
mình được sống và nhà nước đã quy định cho họ rất nhiều quyền để đảm bảo cuộc
sống. Nhưng khi điều kiện để đảm bảo cuộc sống không còn thì sống không còn
giá trị nữa, sống sẽ gây thêm đau khổ hơn cho người bệnh vô phương cứu chữa.
Theo những phân tích ở trên về các ý kiến ủng hộ cũng như phản đối ta thấy
rằng cả 2 ý kiến đều đề cao giá trị cuộc sống. Chính vì do cuộc sống là quí giá
nhất, nên hơn ai hết, chính những người bị bệnh muốn chết hẳn hiểu rõ vì sao mình
lại muốn chết. Suy cho cùng, quyền được sống hay được chết cũng chỉ muốn
hướng tới mục đích thoải mái. Việc chúng ta từ chối cái chết an tử chính là duy trì
nỗi đau thể xác và có lẽ là cả tinh thần đối với người bệnh. Tại sao chúng ta đã biết
chắc người đó sắp chết, đang chịu đau đớn và có nguyện vọng được chết một cách
nhẹ nhàng, trong sự tỉnh táo giữa những người thân yêu nhất – mà vẫn đang tâm
đứng nhìn và chờ đợi cái kết cục tất yếu và đau lòng ấy.
Theo khảo sát gần đây của Google beta về câu hỏi về bạn nghĩ gì về quyền
được chết với 1455 người truy cập đã có 63,64% cho rằng quy định quyền được
chết là nhân đạo, 9.09% cho là phi nhân đạo và 27,27% người có ý kiến khác. Mặc
dù con số người tham gia là không nhiều, đa phần là người trẻ tuổi nhưng qua đó ta

thấy được phần nào cách nhìn của người trẻ về quyền được chết.
Cá nhân em ủng hộ việc công nhận “quyền được chết” và hi vọng Việt Nam
sớm công nhận quyền được chết của cá nhân. Nhưng hiện nay với tư tư tưởng
truyền thống và điều kiện thực tế tại Việt Nam, em thấy Việt Nam chưa thực sự
sẵn sàng để ban hành quyền được chết. Qua tham khảo cũng như ý kiến của bản
thân em xin đưa ra một số để bước đầu tạo khung pháp lý cơ bản cho việc từng
bước xây dựng quyền được chết.
III – VỀ VIỆC CÔNG NHẬN “QUYỀN ĐƯỢC CHẾT” TẠI VIỆT NAM

-8-


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền

1. Quan điểm của Việt Nam
Hiện nay Việt Nam chưa ban hành cụ thể văn bản nào công nhận quyền
được chết là một quyền nhân thân. Nhưng như chúng ta đã thấy quyền này đã được
đưa vào dự thảo của BLDS 2005 nhưng cuối cùng không được thông qua. Điều
này xuất phát từ rất nhiều lý do mang tính đặc trưng của Việt Nam:
Thứ nhất: việc công nhận “Quyền được chết” đi ngược lại quan điểm
truyền thống tại Việt Nam là coi trọng sự sống, với suy nghĩ “Còn nước còn tát.
Nếu ở phương Tây quyền được chết dễ dàng hơn trong việc nhận được ủng hộ thì
ở phương đông đây lại là vấn để hết sức khó khăn. Tuy chúng ta không quy định
về quyền được chết nhưng chúng ta không thể phủ định đó không phải là quyền
con người. Tức là dù thừa nhận hay không thì quyền này vẫn luôn hiện hữu và sẽ
có một lúc nào đó con người sẽ được thực hiện và bảo đảm thực hiện quyền này.
Nhưng để thực hiện vấn đề này cần chờ đợi vào thời gian và tình hình kinh tế,
chính trị của Việt Nam. Thay đổi một quan niệm truyền thống là rất khó khăn, tuy

nhiên với nhu cầu được “an tử” của bệnh nhân ngày càng tăng như hiện nay, Nhà
nước ta cần có những bước đi chính thức đầu tiên về vấn đề này.
Thứ hai: Hệ thống pháp luật Việt Nam còn nhiều điểm bất cập: đồng bộ và
chồng chéo, kỹ thuật lập pháp còn kém, ý thức tuân thủ pháp luật của người Việt
Nam chưa cao. Nếu ban hành quyền được chết trong thời điểm này sẽ dẫn đên việc
bị lạm dụng và gây nguy hiểm cho xã hội do tội phạm trá hình để lẩn tránh pháp
luật. Hệ thống y tế công cộng chưa thực sự phát triển, nếu luật an tử ra đời thì
khung pháp lý để kết luận là đủ điều kiện để hưởng quyền được chết hay không sẽ
rất khó xác đinh vì nếu chuẩn đoán thông thường thì số người được hưởng quyền
là quá nhiều, còn nếu yêu cầu xác định mất thời gian, tốn kém thì có lẽ bệnh nhân
không đủ kinh phí thực hiện.
2. Khả năng xây dựng Luật An tử ở Việt Nam
Tiền đề để Việt Nam có thể ban hành luật an tử, quyền được chết trong
tương lai:
- Nhu cầu xã hội: Số lượng bệnh nhân vô phương cứu chữa nhiều (và có
thống kê đầy đủ) xin được chết. Sự lên tiếng của các bác sĩ về vấn đề này. Khi xã

-9-


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền

hội đã có nhu cầu thì cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ chăm lo mọi mặt đời sống
của nhân dân phải có những thay đổi phù hợp với ý dân mà vẫn đảm bảo kỷ cương,
đường lối của mình.
- Nhà nước và hệ thống pháp luật ngày càng được kiện toàn và củng cố. Nhà
nước có khả năng đảm bảo quyền của công dân được thực thi và bảo vệ. Hệ thống
pháp luật phải chặt chẽ, nghiêm minh, đồng bộ nhằm mục đích quyền được chết

không bị lợi dụng vào việc gây hại cho xã hội. Thật ra, đây không chỉ là tiền đề
cho riêng việc xây dựng “quyền được chết” mà còn là tiền đề cho việc xây dựng,
củng cố bộ máy Nhà nước.
- Ý thức pháp luật: Do điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa, xã hội ngày
càng được nâng cao, đặc biệt là công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, từ đó
hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của công dân trong xã hội ngày
càng cao.
3. Biện pháp cụ thể
- Điều quan trọng bây giờ là thay đổi những quan niệm, những cách nhìn
nhận sai lầm về quyền được chết và cái chết êm ả chứ không phải là cố gắng ban
hành Luật An tử trong điều kiện chưa phù hợp như hiện nay.
- Cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức về quyền được chết thông
qua sách báo, tuyên truyền. Chúng ta phải giải thích cho người dân hiểu cặn kẽ về
quyền được chết cũng như tác dụng của nó trong cuộc sống. Đồng thời phải tránh
cho người dân những cách hiểu sai lầm, những bi quan trong cuộc sống khi có
bệnh tật mà tìm tới việc áp dụng ngay quyền được chết.
- Thống kê số lượng bệnh nhân đang mắc bênh nan y giai đoạn cuối và xin
được chết. Việc này, thực hiện không quá khó khăn nhưng lại tốn rất nhiều thời
gian, công sức và tiền của. Ta không thể tổ chức theo kiểu tự đăng kýmột cách tùy
tiện, mà cần tới hỏi từng người bị bệnh hoặc bác sĩ trực tiếp điều trị cho họ.
- Tổ chức thăm dò lấy ý kiến của nhân dân. Người dân là người được trực
tiếp hưởng các quyền và gánh vác trách nhiệm vì vậy chúng ta cần nghe ý kiến của
họ trước khi đưa ra bất cứ quyết định nào có liên quan tới họ. Đó là hành động cho

- 10 -


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền


thấy sự tôn trọng người dân của Nhà nước. Qua đó, người dân càng tin tưởng thêm
vào pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật tốt hơn.
- Học hỏi kỹ năng của các nước đã xây dựng thành công và nội luật hóa để
phù hợp với Việt Nam. Học hỏi là rất quan trọng nhưng quan trọng hơn là nó phải
phù hợp với pháp luật trong nước cũng như phong tục tập quán của Việt Nam vì
đây là Luật áp dụng cho người dân Việt Nam.
- Ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết để tránh hiểu lầm và áp dụng sai.
Các quy phạm pháp luật nếu không chặt chẽ sẽ rất nguy hiểm cho xã hội. Do đó
cần có các hướng dẫn chi tiết để người dân không hiểu sai trong áp dung cũng như
không để tội phạm tìm được kẽ hở và lẩn tránh pháp luật.

KẾT LUẬN
Qua tìm hiểu và phân tích về quyền được chết, bản thân em nhận thấy thực
sự cần thiết phải xây dựng quyền được chết tại Việt Nam trong thời gian tới.Với
những đóng góp nho nhỏ của mình em hy vọng Việt Nam sẽ sớm có những thay
đổi tích cực để có thể đưa quyền được chết vào nhóm quyền nhân thân. Đây sẽ là
hướng mở cho các bệnh nhân mắc bệnh nan y giai đoạn cuối cũng như các bác sĩ
điều trị cho các bệnh nhân này không phải chịu những bức xúc về tâm lý cũng như
thể xác nữa.

- 11 -


Bài tập học kỳ môn Pháp luật Quyền nhân thân

Nguyễn Thế Quyền

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bàn về quyền được chết và luật an tử tại Việt Nam, Trương Hồng Quang,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật 6/2009. Hà Nội 2009
2. Nghiên cứu xây dựng một số nội dung cơ bản của Luật An Tử – Trương
Hồng Quang, Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
3. Một số Website:
o/2011/09/quyen-uoc-chet-right-to-die.html
/> />
- 12 -



×