Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.43 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Cơ quan tiến hành tố tụng: CQTHTT
Người tiến hành tố tụng: NTHTT
Bộ luật tố tụng 2003: BLTTHS
Cơ quan điều tra: CQĐT

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong tố tụng hình sự, có nhiều người tham gia nhưng vị trí người bào
chữa rất quan trọng, nó có tác dụng giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý, kiểm
tra, giám sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm cho quá trình giải quyết
vụ án hình sự được khách quan và đúng pháp luật. Trong tố tụng hình sự, người
bào chữa là người tham gia tố tụng được đặt bên cạnh những người bị buộc tội
như bị can, bị cáo. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa luôn luôn gắn liền
với quyền của bị can, bị cáo. Khi tham gia tố tụng, người bào chữa có nhiệm vụ
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để gỡ
tội cho thân chủ mình, cùng thân chủ hợp thành một bên tranh tụng. Sự tham gia
của người bào chữa trong tố tụng hình sự là cần thiết và khách quan, trước hết là

2


thực hiện nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo”. Sự tham gia
của người bào chữa trong tố tụng hình sự đảm bảo cho việc giải quyết vụ án
được khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Chính vì vậy có thể nói rằng,
trong tố tụng hình sự, sự tham gia của người bào chữa là rất cần thiết, nó có cả ý
nghĩa về pháp lý và ý nghĩa xã hội. Xuất phát từ điều này mà trong Hiến pháp,


pháp luật của nước ta nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng luôn luôn
có các quy định thể chế hoá quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Vì vậy,
nghiên cứu về “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự”
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thực tiễn pháp luật tố tụng của nước ta
hiện nay.

PHẦN NỘI DUNG
I.
1.
a.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BÀO CHỮA CHO BỊ CAN, BỊ CÁO
Khái niệm chung
Khái niệm người bào chữa cho bị can, bị cáo
Theo từ điển luật học của Nhà xuất bản Tư pháp và Nxb. Từ điển bách
khoa 2006 thì “Bào chữa là việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho bị can, bị cáo”.
Khi một công dân trở thành đối tượng bị Nhà nước nghi là một tội phạm
và phải tham gia vào quá trình tố tụng hình sự thì họ có quyền biện minh cho
bản thân mình. Vì vậy, pháp luật quy định cho những người này có quyền bào
chữa để biện minh cho những gì hành vi của mình, có thể chứng minh sự vô tội
hay để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà họ phải chịu đối với tội phạm mà mình
thực hiện. Tuy nhiên, khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự không phải bị
can, bị cáo nào cũng nắm rõ về các thủ tục tố tụng, các quy định của pháp luật
về quyền bào chữa cho để họ có thể tự mình bào chữa; hơn thế nữa, họ thường
không có kinh nghiệm khi tiếp xúc với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng. Chính vì vậy, một nhu cầu khách quan là bị can, bị cáo cần có
người hiểu biết về pháp luật, có kinh nghiệm tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và

3



lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo trước sự buộc tội của các CQTHTT, đó
chính là người bào chữa.
Điều 11 BLTTHS đã cụ thể hóa quyền bào chữa của bị can, bị cáo
“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa”. Nhờ người khác bào chữa là việc bị can, bị cáo nhờ người bào chữa
bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tuy nhiên, ở nước ta chưa
có một khái niệm thống nhất về người bào chữa trong tố tụng, mỗi tác giả khi
nghiên cứu về quyền bào chữa đều đưa ra cho mình một khái niệm khác nhau.
Giáo trình Luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà
Nội 2008 đưa ra khái niệm: “Người bào chữa là người được các cơ quan tiến
hành tố tụng chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra những tình tiết xác định
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội; những tình tiêt giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và giúp đỡ người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Chương IV, Điều 56 BLTTHS quy định người bào chữa là tham gia tố tụng để
bào chữa cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo.
Mặc dù có nhiều quan điểm được đưa ra như vậy nhưng đều có điểm
chung là người bào chữa là người được pháp luật công nhận bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho người bị tạm giam, bị can, bị cáo.
b.

Khái niệm địa vị pháp lý của người bào chữa cho bị can, bị cáo
Địa vị pháp lý của một người là vị trí của người đó trong mối quan hệ
pháp luật nhất định. Điều này có nghĩa là khi tham gia vào một quan hệ pháp
luật họ sẽ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý tương xứng với vị trí của họ trong
quan hệ pháp luật đó.
Người bào chữa khi tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự có quyền và
nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Với địa vị pháp lý là người bào chữa trong


2.

tố tụng hình sự, pháp luật quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ cơ bản.
Các chủ thể có thể trở thành người bào chữa cho bị can, bị cáo

4


Khoản 1, Điều 56 BLTTHS quy định người bào chữa có thể là luật sư;
người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên
a.

nhân dân.
Luật sư
Theo quy định tại Điều 2, Luật luật sư 2006 thì: “Luật sư là người có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ
pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”.
Luật luật sư 2006 cũng quy định các tiêu chuẩn và điều kiện để trở thành
Luật sư:

-

Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp

-

luật.
Có phẩm chất đạo đức tốt.
Có bằng cử nhân luật.

Đã được đào tạo nghề Luật sư.
Ngoài các tiêu chuẩn trên để có thể hành nghề Luật sư trong các vụ án hình sự
cần phải có các điều kiện sau:

-

Phải có chứng chỉ hành nghề Luật sư.
Phải ra nhập một đoàn luật sư
Luật sư và người bào chữa là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất
với nhau. Theo quy định của pháp luật thì luật sư chỉ trở thành người bào chữa
khi tham gia quá trình tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can,
bị cáo; được các CQTHTT cấp giấy chứng nhận bào chữa. Trong quá trình tố
tụng nếu luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì họ

b.

tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Người đại diện hợp pháp cho bị can, bị cáo
BLTTHS chưa có quy định cụ thể về những người có thể là đại diện hợp
pháp của bị can, bị cáo; nhưng dựa trên Luật hôn nhân và gia đình 2000, Bộ luật
dân sự 2005 và các văn bản có liên quan thì người đại diện hợp pháp của bị can,
bị cáo là cha mẹ hoặc người giám hộ của bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc

5


người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Người giám hộ có thể là người
c.


giám hộ đương nhiên hoặc người giám hộ được cử.
Bào chữa viên nhân dân
Theo khoản 2 và khoản 3 Điều 57 BLTTHS có thể hiểu bào chữa viên nhân
dân là người được Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận
tổ quốc Việt Nam cử để bào chữa cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức
mình.
Hiện chưa có quy định của pháp luật hướng dẫn về tiêu chuẩn và điều kiện
trở thành bào chữa viên nhân dân và về việc cấp giấy chứng nhận bào chữa cho
bào chữa viên nhân dân.

3.

Những người không được bào chữa, lựa chọn và thay đổi người bào chữa
Khoản 2 Điều 56 BLTTHS quy định: “Những người sau đây không được
bào chữa: a) Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người thân thích của
người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó; b) Người tham gia vụ án
đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc nguời phiên dịch”.
Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội. Trong khi
đó, người bào chữa tham gia tố tụng là nhằm gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những người này. Một bên
đứng trên góc độ Nhà nước và một bên lại đứng trên góc độ cá nhân. Thế nên
trong cùng một vụ án, một người không thể thủ một lúc hai vai để thực hiện tốt
trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa. Bên cạnh đó, người thân
của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong
vụ án đó bởi nó sẽ ảnh hưởng đến sự khách quan của trong việc giải quyết vụ án
của người tiến hành tố tụng.
Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch là những người
tham gia tố tụng có nghĩa vụ trung thực, khách quan đảm bảo tính chính xác. Họ
không phụ thuộc vào bất kỳ một bên nào, mà chỉ tham gia tố tụng theo quy định


6


của pháp luật. Chính vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong
cùng một vụ án.
4.
a.

Các hình thức tham gia bào chữa
Trường hợp bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ mời
Quyền lựa chọn người bào chữa thuộc về một trong hai chủ thể là bị can,
bị cáo hoặc đại diện hợp pháp của họ. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số
03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thì:

-

Đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên; người có nhược điểm về mặt
tâm thần hoặc thể chất thì họ và người đại diện hợp pháp của họ đều có quyền

-

lựa chọn người bào chữa.
Đối với bị can, bị cáo là người từ đủ mười tám tuổi trở lên, không có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất, thì chỉ có họ mới có quyền lựa chọn người bào
chữa; do đó, trong trường hợp người thân thích của họ hoặc người khác lựa
chọn (nhờ) người bào chữa cho họ.
Theo hướng dẫn trên thì quyền lựa chọn của người bào chữa cho bi can,
bị cáo có thể thuộc về cả hai chủ thể là bị can, bị cáo và người đại diện hợp

pháp của họ. Quyền này là độc lập trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa
thành niên; có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất; và sẽ không có mâu thuẫn
nếu hai chủ thể này thống nhất với nhau, vấn đề phát sinh trên thực tế sẽ xuất
hiện khi không có sự đồng thuận giữa hai chủ thể này. Trường hợp này hai chủ

b.

thể có thể trao đổi và đi đến thống nhất.
Trường hợp Cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định
Để đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo trong trường hợp người
đại diện hợp pháp của họ hoặc họ không mời được người bào chữa, CQTHTT
phải thực hiện yêu cầu người bào chữa cho bị can, bị cáo.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 57 BLTTHS “Trong những trường hợp
sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời
người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu
Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề

7


nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử
người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình: a) Bị can, bị cáo về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự;
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất. Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 2
Điều này, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu
cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa”.
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI

II.


BÀO CHỮA CHO BỊ CAN, BỊ CÁO
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp
bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của BLTTHS về trường hợp bắt
người trong trường hợp khẩn cấp và trường hợp bắt người phạm tội quả tang
hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định
tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh
quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia
1.

tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Các quyền tố tụng
Theo quy định khoản 2 điều 58 BLTTHS thì người bào chữa có các
quyền sau:

-

Quyền có mặt khi hỏi cung bị can
Đây là quyền mở rộng sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt
động điều tra. Việc tham gia này của người bào chữa cũng có ý nghĩa trợ giúp
ban đầu đối với bị can, bị cáo, giúp cho bị can, bị cáo có tâm lý ổn định hơn khi
trả lời các câu hỏi của điều tra viên, đảm bảo việc hỏi cung, lấy lời khai không
chủ quan, duy lí trí theo hướng của điều tra viên.

-

Người bào chữa còn có thể hỏi cung bị can nếu được sự đồng ý của điều tra
viên.
Đây là quy định thể hiện sự công bằng của pháp luật. Người bào chữa
cũng có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra khác như: hoạt động đối


8


chất, nhận dạng, hoạt động khám nghiệm, thực nghiệm hiện trường, khám xét,
thu giữ tài sản.
Khi tham gia các hoạt động điều tra, người bào chữa được quyền xem các
biên bản về hoạt động tố tụng hình có sự tham gia của mình và các quyết định
tố tụng có liên quan tới người mà mình bào chữa. Khi xem xét, người bào chữa
có thể đối chiếu với biên bản xem có phù hợp với quá trình tiến hành hoạt động
điều tra hay không. Nếu nhận thấy hành vi tố tụng của điều tra viên không phù
hợp với các quy định của pháp luật hoặc biên bản có những yếu tố vi phạm pháp
luật, người bào chữa có thể khiếu nại đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
-

Quyền đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có
mặt khi hỏi cung bi can
Việc quyết định địa điểm, thời gian hỏi cung thuộc quyền hạn, trách
nhiệm của cơ quan điều tra. Người bào chữa chỉ được mời hoặc cử sau khi bị
can, bị cáo đã bị bắt, tạm giam hoặc khởi tố. Do đó, họ cần nắm rõ thông tin về
địa điểm, thời gian hỏi cung để có sự chủ động cần thiết.

-

Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định người phiên
dịch
Người bào chữa nếu xét thấy việc tham gia của những người tiến hành tố
tụng, người giám định, người phiên dịch có thể không khách quan, vô tư ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình; có thể dựa vào căn cứ
luật định để đề nghị thay đổi những người này.

Điều 42 BLTTHS quy định người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành
tố tụng hoặc bị thay đổi nếu:
+ Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân
thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;
+ Họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám
định, người phiên dịch trong vụ án đó;

9


+ Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm
nhiệm vụ.
Đối với người giám định quy định tại khoản 4, Điều 60 BLTTHS:
+ Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42
của BLTTHS;
+ Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án hoặc đã
tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người phiên dịch
trong vụ án đó.
Đối với người phiên dịch quy định tại Điều 61 BLTTHS:
+ Thuộc một trong những trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 42
của BLTTHS;
+ Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án hoặc đã
tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định
trong vụ án đó.
-


Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa
Khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, người bào chữa phải căn cứ vào các
chứng cứ, tình tiết có liên quan đến vụ án, các tài liệu thu thập được từ phía
CQĐT. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu do CQĐT thu thập
được thì người bào chữa sẽ không nắm bắt được những tình tiết có lợi cho bị
can, bị cáo. Vì vậy, pháp luật cho phép người bào chữa được quyền tự mình thu
thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác. Sau đó, người bào chữa sử dụng những gì thu
thập được để thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho bị can, bị cáo hiệu quả hơn.

-

Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu

10


Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu theo hướng có
lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra
yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy
điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố
tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa.
-

Quyền được đi gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam
Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc với người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết cảu vụ án, các
đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được
bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu được những tình tiết gỡ tội,

giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào
chữa giải thích những vấn đề pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

-

Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án
Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội
dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với
người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa,
tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
Ngoài ra, người bào chữa cũng có điều kiện để phát hiện những sai lầm,
thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những

-

yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.
Quyền tham gia tra hỏi, tranh luận tại phiên tòa
Tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất.
Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của
vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận,
người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và
bác bỏ những lời buộc tội bị cáo.

11


-


Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, người có
thẩm quyền tố tụng
Khi tham gia bào chữa dù ở giai đoạn nào nếu phát hiện quyết định hoặc
hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tham gia tố tụng có những điểm bất
hợp lý thì họ có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng đó. BLTTHS cũng
quy định chi tiết về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, đó là phương tiện
pháp lý cần thiết để qua đó quyền này của người bào chữa được thực hiện có
hiệu quả hơn.

-

Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án
Đây là quyền độc lập trong tố tụng hình sự của người bào chữa, không
phụ thuộc vào ý chí của người được bào chữa hay đại diện hợp pháp của họ.
Giới hạn của quyền này là người bào chữa chỉ được kháng cáo với nhứng bản
án của người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, thể chất quy
định tại khoản 2, Điều 57 BLTTHS vì họ có thể không có khả năng nhận thức
được hoặc nhận thức không đúng đắn nội dung của bản án. Vì vậy, người bào
chữa với cương vị là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo
có trách nhiệm kháng cáo nếu bản án đó chưa đúng pháp luật, đúng tội.

2.
-

Các nghĩa vụ tố tụng
Khoản 3, Điều 58 BLTTHS quy định các nghĩa vụ của người bào chữa:
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sang tỏ những tình tiết xác
định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên

quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra,
viện kiểm sát, tòa án. Việc giao nhận tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và
cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của

-

BLTTHS.
Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án

12


Quy định này nhằm đảm bảo cho quá trình tố tụng được diễn ra đúng thời
gian, tiến độ theo dự định, tránh gây mất thời gian, công sức của CQTHTT cũng
-

như những người tham gia tố tụng.
Tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục

-

người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật
Giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
họ
Đây là nghĩa vụ đương nhiên của người bào chữa, họ phải trợ giúp người
được bào chữa những vấn đề về mặt pháp lý như giải thích về quyền và lợi ích

-

hợp pháp của họ, cung cấp những tình tiết có liên quan đến vụ án có lợi cho họ.

Không được quyền từ chối bào chữa cho bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận
bào chữa nếu không có lý do chính đáng
Quy định này thể hiện sự ràng buộc giữa người bào chữa và bị can, bị
cáo, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của họ; bởi khi đã nhận bào chữa cho bị
can, bị cáo trong một vụ án thì người bào chữa là người nắm rõ được những nội
dung liên quan đến vụ án một cách rõ ràng, rành mạch nhất, vì vậy, khi người
bào chữa từ chối bào chữa tiếp cho bị can, bị cáo sẽ làm gián đoạn quá trình tố

-

tụng, tạo tâm lý không tốt cho người được bào chữa.
Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào
chữa
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA CHO BỊ CAN, BỊ

III.
1.

CÁO Ở NƯỚC TA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Thực trạng hoạt động của người bào chữa ở nước ta trong thời gian vừa
qua
Có thể nói luật sư được coi là người bào chữa chuyên nghiệp, bởi người
bào chữa trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay chủ yếu là luật sư, còn bào
chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo dường như
chỉ tồn tại trong pháp luật thực định, kể cả những người đã làm trong lĩnh vực
pháp luật lâu năm, được chứng kiến những vụ án có sự tham gia của người bào
chữa là bào chữa viên nhân dân là rất hiếm. Vì vậy, khi nói đến thực tiễn hoạt

13



động của người bào chữa thực chất là nói đến thực trạng hoạt động bào chữa
của luật sư.
Trong những năm gần đây, hoạt động bào chữa của luật sư trong tố tụng
hình sự nói chung và trong các phiên toà xét xử nói riêng đã có những bước tiến
bộ rõ rệt. Các đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, số lượng
luật sư ngày một nhiều hơn và luật sư cũng tham gia nhiều hơn trong các phiên
toà xét xử của Toà án các cấp. Khi tham gia vào các vụ án, thực hiện nhiệm vụ
bào chữa cho các bị can, bị cáo, luật sư đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, giúp cho hội đồng xét xử xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, hạn chế tình trạng oan, sai cũng như tình trạng bỏ lọt tội phạm. Trong tố
tụng hình sự, mối quan hệ giữa luật sư bào chữa với các cơ quan tiến hành tố
tụng và những người tiến hành tố tụng như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm
phán, hội thẩm nhân dân nói chung được thiết lập một cách chặt chẽ. Đa số
những người tiến hành tố tụng ở các địa phương đều thực hiện đúng các quy
định của pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư bào chữa thực hiện nhiệm
vụ của mình. Đa số các luật sư bào chữa đã tuân thủ pháp luật, thực hiện nghĩa
vụ bào chữa của mình trước các phiên toà xét xử, tạo điều kiện cho quá trình
xét xử được tiến hành đúng thời hạn và có hiệu quả cao. Không ít vụ án, trên cơ
sở ý kiến của luật sư bào chữa trước hoặc trong phiên toà xét xử, kiểm sát viên
đã rút truy tố hoặc truy tố theo tội danh nhẹ hơn so với cáo trạng, hội đồng xét
xử đã tuyên bị cáo không phạm tội hoặc chuyển sang một tội danh khác, áp
dụng một hình phạt khác nhẹ hơn so với đề nghị của đại diện viện kiểm sát.
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, trong thực tế vẫn còn những vi phạm và
thiếu sót của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, luật sư bào
chữa xâm phạm tới quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Trong thời gian vừa qua, bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội
vẫn chưa có những điều kiện tối ưu để họ thực hiện quyền bào chữa. Ở giai

14



đoạn điều tra, người đại diện hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội
(cha, mẹ, anh, chị...) có quyền có mặt trong các buổi hỏi cung, lấy lời khai
nhưng trong số họ rất ít người có kiến thức pháp lí cần thiết nên việc bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người chưa thành niên còn nhiều
bất cập.
Khoản 1 Điều 58 BLTTHS quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
khởi tố bị can”. Mặc dù luật quy định như vậy nhưng trong hầu hết các vụ
án, luật sư bào chữa chưa được tham gia tố tụng từ giai đoạn này bởi nhiều lý
do khác nhau trong đó có sự suy nghĩ của một số điều tra viên là sự tham gia
của luật sư từ giai đoạn khởi tố bị can sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra
của họ. Thậm chí có điều tra viên còn cho rằng, nếu tham gia từ giai đoạn này
người bào chữa sẽ bày đặt cho bị can khai không đúng hoặc giấu tội...Việc tham
gia tố tụng từ khi khởi tố bị can không được bảo đảm nên đã dẫn tới việc thực
hiện các quyền khác của họ trong giai đoạn điều tra là rất khó khăn.
Khoản 2 Điều 36 BLTTHS quy định: Người bào chữa có quyền có mặt
khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên
đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động
điều tra khác. Theo quy định này thì việc có cho phép được hỏi cung bị can hay
không là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của điều tra viên, do vậy có
trường hợp điều tra viên không cho người bào chữa hỏi mà chỉ cho “ngồi nghe”
hỏi cung. Việc gặp bị can đang bị tạm giam cũng rất khó khăn. Nếu người bào
chữa có được gặp bị can thì họ phải chịu sự giám sát trực tiếp của điều tra viên
và giám thị trại giam. Điều đó khiến cho bị can không dám phản ánh những vấn
đề cần thiết cho người bào chữa.
Như vậy, từ thực tiễn nêu trên chúng ta thấy quyền bào chữa của bị cáo
trong phiên tòa vẫn chưa được thực hiện tốt, bị cáo trong phiên toà bị coi là

15



người đã có tội cho nên quyền bào chữa về hình thức vẫn được thực hiện nhưng
tác động của nó đến hội đồng xét xử là rất nhỏ.
Bên cạnh những khiếm khuyết nêu trên từ phía cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng, thời gian qua, trong hoạt động của mình, luật sư bào
chữa cũng còn có một số thiếu sót, vi phạm. Vì ở nước ta hiện nay trong tổng số
hơn 2000 luật sư thì có tới trên 40% là luật sư kiêm nhiệm cho nên nhiều trường
hợp sau khi đã được mời hoặc cử tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo nhưng vì
không có thời gian, công việc chồng chéo, luật sư đã không tham gia phiên toà.
Không ít phiên toà phải hoãn do vắng mặt luật sư mặc dù thời hạn xét xử đã hết.
Có những luật sư thay vì công việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị bài bào chữa cho
bị cáo tại phiên toà lại đi gặp gỡ người này, người khác để “chạy án”. Việc làm
này có tác động xấu tới quá trình xét xử vụ án, làm cho vụ án được giải quyết
không khách quan. Và trong thực tế, có không ít luật sư còn vi phạm đạo đức
nghề nghiệp như đặt mục đích kinh tế lên trên hết, làm việc thiếu trách nhiệm.
2.

Một số giải pháp hoàn thiện
Cho tới nay, ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước đã có hàng trăm văn

phòng luật sư và công ti luật hoạt động với số lượng gần 3000 luật sư. Tuy
nhiên, số lượng luật sư nêu trên vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu tư vấn cũng
như bào chữa cho các bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự. Để bảo đảm có đủ
chất lượng và số lượng luật sư tham gia vào quá trình giải quyết các vụ án hình
sự, cần để các viên chức nhà nước bao gồm các nhà khoa học, nhà giáo... tham
gia các đoàn luật sư và hành nghề luật sư. Nhà nước cần ban hành các quy định
đạo đức của luật sư làm cơ sở cho hoạt động của luật sư vừa phù hợp với pháp
luật, vừa phù hợp với đặc thù của nghề luật sư.


16


Trong xu thế cải cách hành chính hiện nay, trong tố tụng hình sự cũng
cần đơn giản hoá thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa cho luật sư và thủ tục
cho phép luật sư vào gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam.
Để thực sự có tranh tụng tại phiên toà, phải xóa bỏ được việc “chạy án”.
Nguyên tắc “khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” cần được tôn trọng và tuân thủ. Các ý kiến của luật sư cần được
đánh giá như các ý kiến của kiểm sát viên và chúng phải được chấp nhận khi có
căn cứ. Các ý kiến không được chấp nhận cũng phải được lập luận, phân tích
trong bản án hoặc quyết định của hội đồng xét xử.
Và cuối cùng, để nâng cao địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố
tụng hình sự cần thay đổi trong nhận thức mà trước hết là nhận thức của các cơ
quan và những người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của luật sư và nghề luật
sư trong xã hội.

PHẦN KẾT LUẬN
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã mở rộng quyền của người bào chữa
nhưng những quy định đảm bảo cho các quyền ấy được thực hiện trên thực tế
vẫn chỉ là lý thuyết nên việc bổ xung và hoàn thiện các quy định của BLTTHS
là một yêu cầu tất yếu, bởi người bào chữa có vai trò rất quan trọng trong tố
tụng hình sự, họ là một mắt xích quan trọng trong cơ chế giám sát hoạt động tố
tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, là người giúp cho chế độ dân chủ
trong một xã hội văn minh, tiến bộ được thực thi, giúp cho quyền con người
được tôn trọng, góp phần xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.

17



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Bộ luật dân sự 2005.
Bộ luật hình sự 1999.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Hiến pháp 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Khoá luận tốt nghiệp, Địa vị pháp lý của người bào chữa cho bị can, bị cáo
là người chưa thành niên, Ngô Thị Ánh Tuyết - Người hướng dẫn: ThS.

Nguyễn Hải Ninh, Hà Nội 2010.
6. Khoá luận tốt nghiệp, Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình
sự, Văn Hoàng Anh - Người hướng dẫn: PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn, Hà
Nội 2010.
7. Luật Luật sư 2006.
8. PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải, Vai trò của luật sư, người bào chữa - thực
trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng hình
sự.
9. Trường Đại học Luật Hà Nội , Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb.Tư pháp,
Hà Nội 2006.

18




×