Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phương hướng xây dựng mô hình thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.18 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG TÌM HIỂU

2

I. Khái niệm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong TTDS

2

1. Khái niệm

2

2. Ý nghĩa

2

II. Cơ sở để xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS

3

1. Đường lối của Đảng và Nhà nước – Tiền đề lý luận của việc xây dựng
thủ tục rút gọn trong TTDS


3

2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự - Cơ sở pháp lý của việc
xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS

4

3. Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự hiện nay và yêu cầu đổi mới thủ
tục tố tụng

5

III. Phương hướng xây dựng mô hình thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt
Nam hiện nay

6

1. Sự cần thiết phải xây dựng mô hình thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt
Nam hiện nay

6

2. Các tiêu chí xác định để áp dụng thủ tục rút gọn trong TTDS

6

3. Phạm vi những vụ kiện được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút
gọn

7


4. Mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn

9

5. Kiến nghị nhằm xây dựng thành công mô hình thủ tục dân sự rút gọn ở
Việt Nam hiện nay

13

KẾT LUẬN

15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

16

1


Vấn đề xây dựng thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự ở nước ta hiện nay tuy
vẫn còn rất mới mẻ nhưng nó lại đang ngày càng cần thiết vì những vai trò, ý nghĩa
mà nó mang lại cho xã hội hiện đại trong nên kinh tế thị trường với xu thế hội nhập
này. Nhận thức được tầm quan trọng đó, em xin chọn đề tài số 13: “Vấn đề xây dựng
thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự Việt Nam” để nghiên cứu và hoàn thiện bài tập
lớn học kỳ môn học này.
NỘI DUNG TÌM HIỂU
I. Khái niệm và ý nghĩa của thủ tục rút gọn trong TTDS
1. Khái niệm

Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự là thủ tục đơn giản hơn thủ tục thông
thường về thành phần Hội đồng xét xử, các bước tiến hành, sự rút ngắn thời hạn giải
quyết và được áp dụng đối với các loại việc có nội dung đơn giản, rõ ràng; Tòa án
không mất thời gian xác minh làm rõ vụ việc.
Như vậy, thủ tục rút gọn về bản chất là thủ tục sơ thẩm, được tiến hành tại Tòa
án cấp sơ thẩm để xét xử những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, có giá trị tranh
chấp nhỏ. Thủ tục rút gọn là thủ tục được hình thành trên cơ sở sự đơn giản hóa thủ
tục xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự thông thường, nhiều quy định của thủ tục thông
thường sẽ được lược bớt đi. Nhưng thủ tục rút gọn không phải là thủ tục phụ thuộc
vào thủ tục xét xử thông thường, cũng không phải là bộ phận của thủ tục thông
thường, mà nó là một loại trình tự, thủ tục tố tụng độc lập tương đối so với thủ tục xét
xử thông thường.
2. Ý nghĩa
Việc xét xử theo thủ tục rút gọn mang lại nhiều ý nghĩa tích cực không chỉ cho
các đương sự, cho tòa án mà còn có ý nghĩa cho cả xã hội.
Thứ nhất, xét xử theo thủ tục rút gọn sẽ giảm nhẹ đáng kể gánh nặng chi phí tố
tụng cho đương sự. Pháp luật của các quốc gia có quy định về thủ tục rút gọn đều quy
định án phí trong các vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn thấp hơn án phí trong các vụ án
xét xử theo thủ tục tố tụng thông thường, ví dụ Điều 123 BLTTDS Liên Bang Nga
quy định án phí vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn chỉ bằng 50% án phí các vụ án xét
xử theo thủ tục thông thường. Đồng thời, vì vụ án đơn giản nên các chi phí khác như
đi lại, thuê luật sư, thu thập chứng cứ, các chi phí tòa án như chi phí giám định, định
giá, thu thập chứng cứ đều không phát sinh.

2


Thứ hai, thời gian tiến hành thủ tục xét xử rút gọn được rút ngắn góp phần giải
quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp đơn giản, rõ ràng; giúp cơ quan tiến hành
tố tụng tập trung nguồn lực và thời gian để giải quyết vào những vụ án phức tạp hơn.

Thứ ba, xét xử theo thủ tục rút gọn tạo nhiều thuận lợi cho đương sự trong việc
khởi kiện và tham gia vào hoạt động tố tụng, đồng thời tạo thuận lợi cho việc xét xử
của tòa án. Vì trong các vụ án này, đương sự chỉ phải thực hiện một số thủ tục luật
định cần thiết để giải quyết vụ án và Thẩm phán cũng được chủ động và thuận lợi hơn
khi không phỉa thực hiện đầy đủ các quy định thủ tục thông thường.
Thứ tư, khi giải quyết các tranh chấp dân sự theo thủ tục rút gọn, phán quyết
của Tòa án có giá trị chung thẩm. Do vậy, tránh được tình trạng đương sự lạm quyền
kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của đương
sự và tránh được những tổn thất không đáng có.
Thứ năm, xét xử theo thủ tục rút gọn góp phần nâng cao hiệu quả công tác xét
xử Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng, tạo điều kiện cho thẩm phán chủ động
giải quyết vụ việc một cách linh hoạt, thúc đẩy Tòa án giải quyết kịp thời hàng loạt vụ
án dân sự đơn giản.
II. Cơ sở để xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS
1. Đường lối của Đảng và Nhà nước – Tiền đề lý luận của việc xây dựng thủ tục
rút gọn trong TTDS
Kể từ ngày mới lập nước, Đảng ta đã chủ trương phải cải cách hoàn thiện hệ
thống pháp luật, trong đó có cải cách tư pháp của nước ta và trong chủ trương đó đã
đề cập tời việc xây dựng thủ tục rút gọn trong công tác tư pháp. Tại Nghị quyết số 08NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đã chỉ thị phải “nghiên cứu
để quy định thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang,
chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng”. Tiếp sau đó, tại Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị có nêu rõ: “cải cách mạng mẽ thủ tục tố
tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, thuận
tiện”. Định hướng này tạo điều kiện cho cơ quan lập pháp, hành pháp phải chủ động
rà soát các văn bản pháp luật hiện hành để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp
luật. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 có quy định: “Xây dựng cơ chế xét xử
theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”. Các qua
điểm trên của Đảng ta đã tạo tiền đề cho việc xây dựng thủ tục rút gọn trong TTDS.

3



2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự - Cơ sở pháp lý của việc xây dựng
thủ tục rút gọn trong TTDS
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định từ Điều 4 đến Điều
12 trong BLDS 2005. Khi xây dựng các thủ tục rút gọn trong TTDS, các nhà làm luật
không thể tách rời các nguyên tắc của pháp luật dân sự. Đó là các nguyên tắc: nguyên
tắc tự do, tự nguyện cam kết; bình đẳng; thiện chí, trung thực; chịu trách nhiệm dân
sự; tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tôn trọng và bảo vệ các quyền
dân sự; tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác; tuân thủ pháp luật và nguyên tắc hòa giải.
Theo các nguyên tắc này thì các bên có quyền tự do cam kết, thỏa thuận phù
hợp với pháp luật trong việc xác định quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết thỏa
thuận giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện và nếu hợp pháp sẽ được pháp luật bảo hộ.
Khi các bên xảy ra tranh chấp, trong quá trình hòa giải nếu đương sự đã thừa nhận
nghĩa vụ của mình. Như vậy, để buộc người đó thực hiện nghĩa vụ thì cần phải có
phán quyết của Tòa án, tuy nhiên trong trường hợp này, mọi việc đã quá rõ ràng và
đơn giản nên khi Tòa án tiến hành giải quyết không cần phải mất thời gian điều tra,
xác minh. Lúc này thì thủ tục tố tụng thông thường không còn phù hợp nên đòi hỏi
phải xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết vụ việc nhanh chóng và hợp lý.
Trong trường hợp các bên đương sự tham gia giao dịch dân sự không tuân theo
các nguyên tắc của pháp luật dân sự như giao dịch được ký kết do một bên bị ép buộc,
năng lực hành vi dân sự không đầy đủ hoặc các bên xác lập giao dịch nhằm che dấu
giao dịch trái pháp luật thì Tòa án có thể buộc các bên xác lập, thực hiện quyền và
nghĩa vụ theo đúng các nguyên tắc mà pháp luật quy định hoặc tuyên bố giao dịch dân
sự vô hiệu. Trong trường hợp này Tòa án cũng không mất thời gian điều tra, xác minh
và việc áp dụng pháp luật để giải quyết là đơn giản và thủ tục thông thường cũng
không còn phù hợp, do đó cần phải có thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết nhanh gọn.
Trên cơ sơ nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, dựa
trên tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái và các giá trị đạo đức cao đẹp của người
Việt Nam, đối với những tranh chấp có giá ngạch thấp, các bên đương sự thương

lượng hòa giải với nhau để giải quyết tranh chấp hoặc tôn trọng bản án, quyết định sơ
thẩm của Tòa án. Với những vụ án như vậy, việc điều tra, xác minh là không phải
thực hiện và thủ tục thông thường cũng không phù hợp và đòi hỏi phải có một thủ tục
rút gọn để giải quyết những vụ án tương tự một cách nhanh chóng, không để xảy ra
tình trạng bị đơn lạm dụng quyền kháng cáo để trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ, ảnh
hưởng đến quyền lợi của đương sự.
4


Qua các nội dung nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy rằng, từ những đường
lối chính sách của Đảng cùng với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là
những cơ sở lý luận quan trọng để các nhà làm luật nước ta nghiên cứu và xây dựng
thủ tục tố tụng dân sự rút gọn ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn của hoạt động tố tụng hiện nay, việc xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn phải
được đặt trong hoàn cảnh thực tiễn, phải đáp ứng được những yêu cầu của công tác
xét xử. Khi đó, thủ tục tố tụng dân sự rút gọn được xây dựng mới có giá trị thực tiễn
và hiệu quả cao khi áp dụng.
3. Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự hiện nay và yêu cầu đổi mới thủ tục tố
tụng
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường thì các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động phát sinh ngày càng phức tạp với
chiều hướng gia tăng. Do vậy, số lượng các vụ tranh chấp phát sinh mà Tòa án thụ lý
giải quyết ngày càng nhiều, ngành Tòa án chịu áp lực lớn về số lượng công việc. Hơn
nữa, hiện nay, nhiều địa phương số lượng Thẩm phán xét xử còn thiếu khá nhiều.
Điều đó sẽ dẫn tới tình trạng quá tải về số vụ cần giải quyết đối với 1 thẩm phán.
Theo một báo cáo cụ thể của ngành Tòa án tỉnh Đắc Lắc thì 1 ngày có thẩm phán phải
xét xử 4 vụ án, tính trung bình một năm, mỗi thẩm phán phải xét xử 210 vụ án. Việc
xét xử với số lượng lớn vụ án như vậy sẽ dẫn đến chất lượng xét xử không cao, khiến
cho nhiều bản án, quyết định của Tòa án bị kháng cáo, kháng nghị, sửa nhiều lần và
có trường hợp bị hủy án. Hơn nữa, các quy định của thủ tục tố tụng chưa mềm dẻo,

linh hoạt để phù hợp với tính chất từng loại tranh chấp khiến cho vụ án kéo dài qua
các cấp xét xử, không chỉ gây tốn kém cho đương sự và Nhà nước mà thực tế còn
khiến cho các vụ án còn kéo dài qua hàng năm. Trong khi các tranhc chấp loại này
việc giải quyết là đơn giản, việc thu thập chứng cứ, điều tra, xác minh không tốn
nhiều thời gian. Có thể thấy việc nâng cao chất lượng Thẩm phán hiện nay còn gặp
nhiều khó khăn. Hơn nữa, khi chúng ta tăng số lượng thẩm phán tại các Tòa án đồng
nghĩa với việc tăng kinh phí của Tòa án trong hoạt động xét xử. Trong công cuộc cải
cách tư pháp thì yếu tố hiệu quả, hợp lý và tiết kiệm được đặt lên hàng đầu. Vì vậy,
việc xây dựng một thủ tục tố tụng dân sự rút gọn, đơn giản hơn thủ tục tố tụng thông
thường sẽ giải quyết dứt điểm và đúng pháp luật những tranh chấp đơn giản, rõ ràng,
bị đơn thừa nhận nghĩa vụ, vụ án có giá trị tranh chấp nhỏ. Qua đó, tạo điều kiện cho
Tòa án tập trung nguồn lực con người vào những vụ án phức tạp hơn. Với ý nghĩa mà
thủ tục rút gọn mang lại rõ ràng sẽ là một giải pháp để khắc phục một cách hiệu quả
tình trạng gia tăng án và tồn đọng án.
5


III. Phương hướng xây dựng mô hình thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam
hiện nay
1. Sự cần thiết phải xây dựng mô hình thủ tục rút gọn trong TTDS ở Việt Nam
hiện nay
Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành không có quy định về thủ tục tố tụng rút
gọn. Dù trong dự thảo luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLTTDS có đề cập đến
việc quy định về thủ tục rút gọn nhưng lại không được thông qua trong đợt sửa đổi bổ
sung BLTTDS ngày 29/03/2011 vừa qua. Tuy nhiên, việc xáy dựng thủ tục tố tụng rút
gọn trong TTDS là điều hết sức cần thiết và hợp lý. Bởi vì BLTTDS với tư cách là
luật quy định về những nguyên tắc cơ bản trong TTDS, trình tự, thủ tục khởi kiện để
Tòa án giải quyết các tranh chấp trong dân sự nên chưa đựng các quy phạm về thủ tục
tố tụng rút gọn là phù hợp. Chúng ta nên thiết kế những quy định mềm dẻo, mang tính
linh hoạt để vừa phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan, vừa tối đa giải

quyết yêu cầu của thực tiễn vừa, bảo vệ người dân trước thực tế ngày càng có nhiều
sự vi phạm đến quyền lợi hợp pháp của họ. Thủ tục rút gọn là một trong những công
cụ hữu ích của người dân trong việc tự bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Các tiêu chí xác định để áp dụng thủ tục rút gọn trong TTDS
Hiện nay trên thế giới có hai cách để xác định loại vụ án nào có thể xét xử theo
thủ tục rút gọn là căn cứ vào tính chất, mức độ và căn cứ vào giá trị tranh chấp.
Căn cứ vào tính chất, mức độ thì các vụ án được xét xử theo thủ tục tố tụng rút
gọn thường chỉ giới hạn ở những vụ có tranh chấp nhỏ, giá trị tranh chấp không lớn,
chứng cứ rõ ràng, tranh chấp giữa các bên không gay gắt.
Căn cứ vào giá trị tranh chấp thì tranh chấp có giá trị dưới một khoản tiền nhất
định sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn không phân biệt đó là tranh chấp
loại gì. Ví dụ theo pháp luật tố tụng dân sự Canada Điều 1481 quy định việc xét xử
theo thủ tục rút gọn được áp dụng đối với các loại tranh chấp dưới 50.000 $.
Như vậy, các tiêu chí để xác định loại vụ việc được xét xử theo thut tục rút gọn
có thể có nhiều cách thức khác nhau. Việc lựa chọn mô hình nào cho phù hợp cần
phải tính đến điều kiện, đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hóa của từng quốc gia.
Ở Việt Nam, chúng ta xác định yêu cầu xây dựng thủ tục rút gọn như sau:
- Việc áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử phải đảm bảo tuân thủ các quy định của Hiến
pháp, pháp luật và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng giải quyết các vụ án theo thủ tục rút gọn vừa đảm bảo giải quyết nhanh
chóng yêu cầu khởi kiện, vừa đảm bảo bán án, quyết định của Tòa án không vi phạm
quyền lợi hợp pháp của đương sự.
6


- Điều kiện xét xử theo thủ tục rút gọn phải rõ ràng, trình tự, thủ tục phải đảm bảo
được nguyên tắc đơn giản, nhanh chóng. Xây dựng một cơ chế có thể chuyển hóa từ
vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn sang thủ tục thông thường.
- Xây dựng cơ chế chặt chẽ để kiểm tra tính chính xác, đúng đắn của các bản án,
quyết định của Tòa án khi giải quyết theo thủ tục rút gọn.

3. Phạm vi những vụ kiện được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Căn cứ vào đặc điểm kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay cùng với thực tiễn hoạt
động của ngành Tòa án trong thời gian vừa qua, có thể rút ra một số tiêu chí cụ thể
xác định vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn và sau khi Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự được ban hành thì Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao chỉ hướng dẫn đối với từng tiêu chí cụ thể, đó là:
- Những tranh chấp có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ.
- Những tranh chấp có giá ngạch thấp.
- Những loại việc mà đương sự thỏa thuận lựa chọn áp dụng thủ tục rút gọn để
giải quyết.
a) Đối với những tranh chấp có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ
Vụ kiện có chứng cứ rõ ràng được hiểu là những vụ kiện mà nguyên đơn xuất
trình được chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho yêu cầu của mình. Đối với
chứng cứ được thể hiện dưới hình thức viết là loại chứng cứ có độ tin cậy cao. Nếu
như bị đơn là những người liên quan khác trong vụ kiện không có phản đối về sự giả
mạo của bằng chứng thì Tòa án có thể khẳng định tính chính xác và độ tin cậy của các
chứng cứ đó.
Như vậy, các tình tiết sự kiện của vụ việc đã được xác định rõ ràng bởi các
chứng cứ bằng văn bản đồng thời được củng cố thêm bằng lời nói thừa nhận của bị
đơn về nghĩa cụ của họ nên đây là những việc không có tranh tụng cả về chứng cứ và
nghĩa vụ thực hiện. Do đó, Tòa án không phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác
minh và vẫn có thể giải quyết đúng vụ kiện. Việc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ của
mình là đã rõ ràng không có tranh cãi. Trong trường hợp này, nguyên đơn cần một
bản án của Tòa án để làm cơ sở cho cơ quan thi hành án sử dụng công cụ pháp luật để
cưỡng chế bị đơn thực hiện nghĩa vụ.
Các loại việc có chứng cứ rõ ràng, bị đơn không phản đối nghĩa vụ có thể được
giải quyết theo thủ tục rút gọn là các loại việc sau:
- Việc chủ sở hữu yêu cầu đòi lại tài sản cho thuê từ người thứ ba được người
cho thuê tài sản cho thuê lại nhưng không có sự đồng ý bằng văn bản của chủ tài sản,
ngoài ra các bên không có tranh chấp khác.

7


- Việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với giao dịch được ký kết với người chưa
thành niên mà theo quy định của pháp luật giao dịch đó phải do người đại diện của họ
xác lập thực hiện nếu các bên không yêu cầu giải quyết hậu quả pháp lý phát sinh từ
giao dịch này.
- Yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với giao dịch được ký kết với người mất năng
lực hành vi dân sự đã có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án xác định thời điểm,
tình trạng mất năng lực của họ mà không phải giải quyết hậu quả pháp lý từ giao dịch
này.
- Yêu cầu bị đơn phải thực hiện quy định về hình thức của giao dịch nếu bị đơn
không phản đối về nội dung của giao dịch đó nhưng không thực hiện các quy định về
hình thức của giao dịch mà pháp luật vẫn quy định.
- Yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ
nhưng không thực hiện nghĩa vụ.
- Yêu cầu Tòa án thay đổi trực tiếp người nuôi con sau khi ly hôn.
b) Những tranh chấp có giá ngạch thấp
Thực tiễn giải quyết các án kiện có thể thấy, những vụ án có giá ngạch thấp thì
thường có nội dung đơn giản, tình tiết rõ ràng, sau khi được cấp sơ thẩm giải quyết thì
ít khi đương sự kháng cáo. Những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng về tài sản có giá
ngạch thấp có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn vì trong cơ chế thị trường, số lượng
các vụ kiện mà Tòa án giải quyết ngày càng tăng, ngành tòa án phải chịu áp lực lớn về
công việc cho nên đối với những việc nhỏ nên giải quyết dứt điểm theo thủ tục rút
gọn để tập trung thời gian, sức lực vào việc lớn, phức tạp và khó khăn hơn.
Việc quy định giá trị vụ án là bao nhiêu để được coi là có giá ngạch thấp và để
áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn thì tùy theo điều kiện kinh tế của mỗi nước, thu nhập
của người dân mà quy định về giá ngạch ở mỗi nước là khác nhau. Tuy nhiên, chúng
ta không nên quy định một khoản tiền cố định trong BLTTDS làm giá ngạch vì giá cả
thị trường luôn có sự biến đổi mà Bộ luật thì không phải lúc nào cũng có thể sửa đổi.

Vì vậy, chúng ta nên đặt ra một tiêu chí chung cho các vụ kiện có giá ngạch thấp được
giải quyết theo thủ tục rút gọn, sau này nếu có sự thay đổi thì có thể quy định chi tiết
trong các văn bản hướng dẫn thi hành.
c) Các loại việc mà đương sự thỏa thuận lựa chọn thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Quyền tự định đoạt thể hiện khả năng của đương sự khi tham gia tố tụng có
quyền tự định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
minh. Bản thân đương sự là các chủ thể trong các quan hệ dân sự nên họ có quyền
quyết định lựa chọn phương thức nào tốt nhất để bảo vệ lợi ích của mình. Vì vậy,
8


ngoài các loại việc mà pháp luật quy định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết thì
pháp luật cũng nên quy định đương sự có quyền thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn
để giải quyết tranh chấp giữa họ.
Chúng ta nên quy định việc thỏa thuận lựa chọn thủ tục tố tụng rút gọn của
đương sự chỉ được áp dụng đối với những vụ việc có nội dung đơn giản, Tòa án
không mất nhiều thời gian xác minh làm rõ sự việc. Quy định như vậy vừa tránh cho
đương sự lạm dụng quyền lựa chọn thủ tục rút gọn nhằm chốn tránh thực hiện nghĩa
vụ đồng thời đảm bảo cho Tòa án giải quyết chính xác, đúng pháp luật vụ kiện. Pháp
luật cũng nên quy định khi đương sự thỏa thuận lựa chọn thủ tục rút gọn thì quyền có
áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết hay không thuộc về Tòa án. Nếu thấy vụ kiện
không đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn thì sẽ phải giải quyết theo thủ tục tố tụng
thông thường.
4. Mô hình thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
a) Về thành phần tiến hành tố tụng
Trong công cuộc cải cách thủ tục tố tụng hiện nay, còn tồn tại hai quan điểm
trái ngược nhau về thành phần tiến hành tố tụng. Quan điểm thứ nhất, cho rằng việc
xét xử phải theo nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể (gồm một Hội đồng xét xử có ba
người là một là Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân) và quyết định theo đa số. Đây
là một trong những nguyên tắc xét xử được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp

lý cao nhất là Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi bổ sung năm 2001. Theo quan điểm
này thì nguyên tắc cơ bản không thể có ngoại lệ. Dù có lược bớt thủ tục thế nào đi nữa
thì khi xét xử vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xét xử dân chủ, công bằng, phán quyết
theo đa số để tránh tình trạng lạm quyền của Thẩm phán. Ngược lại những người theo
quan điểm thứ hai cho rằng việc xét xử theo thủ tục rút gọn chỉ cần một Thẩm phán
giải quyết. Đối với những vụ việc đã rõ như ban ngày thì chỉ cần một Thẩm phán
cũng xử lí được, không cần thêm hai Hội thẩm nhân dân. Làm như vậy vừa đỡ cồng
kềnh vô ích, vừa đề cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trước pháp luật đối với
những phán quyết của mình, đồng thời tương xứng với những quy định của pháp luật
tố tụng dân sự khi tiến hành giải quyết việc dân sự cũng do một Thẩm phán tiến hành.
Có thể thấy xu hướng một Thẩm phán giải quyết các tranh chấp dân sự là xu
hướng ngày nay càng nhận được nhiều sự đồng tình ủng hộ của xã hội. Hiện nay, cơ
chế một Thẩm phán xét xử trong BLTTDS cũng đã quy định một Thẩm phán giải
quyết việc dân sự. Thực tiễn 5 năm thực hiện BLTTDS cũng chưa phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc tiêu cực trong cơ chế một Thẩm phán giải quyết
việc dân sự. Đồng thời xét thấy những vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ
9


ràng, giá trị tranh chấp thấp, việc áp dụng pháp luật để giải quyết là không mấy khó
khăn, phức tạp. Nếu giao cho một Thẩm phán độc lập xét xử thì vẫn đảm bảo tính
chính xác và đúng pháp luật. Nếu chúng ta có thể xây dựng một cơ chế quy định trách
nhiệm các nhân của Thẩm phán cũng như kiểm soát hoạt động của Thẩm phán trong
việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết sẽ khắc phục được sự lạm quyền của Thẩm
phán. Do đó có căn cứ để mở rộng cơ chế một Thẩm phán xét xử đối với vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn. Có thể coi đây là một bước cải cách thực sự về hoạt động tố tụng
dân sự của Tòa án. Việc quy định một Thẩm phán độc lập giải quyết vụ việc theo thủ
tục rút gọn vừa tạo điều kiện cho Thẩm phán có thể chủ động trong công việc của
mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán trong việc ra phán quyết đồng
thời tiết kiệm cho Nhà nước cả về nguồn lực con người và chi phí.

b) Hòa giải và chuẩn bị xét xử theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
Chuẩn bị xét xử theo thủ tục rút gọn: Hiện nay quy định của pháp luật hiện
hành thì thời hạn giải quyết các tranh chấp dân sự là bốn tháng kể từ ngày thụ lý vụ
án. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia hạn
thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá hai tháng (Điều 179 BLTTDS). Như vậy,
kể cả thời gian gia hạn thì thời gian chuẩn bị xét xử các tranh chấp về dân sự tối đa là
sáu tháng. Nhưng với những tranh chấp có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng, bị
đơn không phản đối nghĩa vụ hoặc những vụ án có giá trị tranh chấp không lớn thì
việc áp dụng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định như hiện hành là không phù hợp. Vì
đối với những tranh chấp này Tòa án không mất nhiều thời gian điều tra, xác minh
làm rõ sự thật, việc giải quyết vụ án có thể diễn ra nhanh chóng, nên không cần tới
khoảng thời hạn là bốn tháng. Khoảng thời gian này là quá dài, gây lãng phí thời gian
công sức cũng như tiền bạc của đương sự và Nhà nước. Vì vậy, cân rút ngắn khoảng
thời gian này để đảm bảo cho vụ án được giải quyết nhanh chóng, dứt điểm.
Thực tiễn giải quyết các vụ kiện loại này chỉ cần một tháng để chuẩn bị xét xử
kể từ ngày thụ lý vụ án. Trong khoảng thời gain này, vừa đảm bảo cho Viện kiểm sát
thực hiện chức năng kiểm sát xét xử của mình, vừa đảm bảo cho Tòa án có đủ thời
gian điều tra xác minh làm rõ sự thật khách quan cũng như thẩm định chắc chắn
chứng cứ mà đương sự cung cấp. Đây là khoảng thời gian hợp lý để giải quyết các vụ
việc theo thủ tục rút gọn. Nên tham khảo trong tố tụng hình sự quy định thủ tục rút
gọn ở Chương XXXIV gồm 7 điều, từ điều 318 đến 324, quy định cụ thể về việc rút
gọn thủ tục như tại khoản 2 Điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Kết thúc điều
tra, cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị
truy tố…”.
10


Pháp luật cũng cấn quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
Thực tế sau khi thụ lý vụ kiện, với những tài liệu chứng cứ ban đầu mà nguyên đơn
cung cấp, thì trong khoảng thời gian là 15 ngày, nếu xét thấy có đủ điều kiện áp dụng

thủ tục rút gọn thì Thẩm phán có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Khi trao
thẩm quyền này cho Thẩm phán cũng cần quy định một cơ chế kiểm soát việc áp
dụng thủ tục rút gọn để tránh sự tùy tiện trong việc áp dụng.
Hòa giải trong thủ tục tố tụng dân sự rút gọn: Hiện nay tồn tại hai quan điểm
trái ngược nhau về hòa giải trong thủ tục rút gọn. Quan điểm thứ nhất cho rằng nên bỏ
khâu hòa giải. Đặc thù trong vụ án được áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn là tranh chấp
đơn giản, chứng cứ rõ ràng và được các bên thừa nhận, có nghĩa là căn bản đương sự
đã thống nhất ý chí thì không nhất thiết phải hòa giải. Quan điểm thứ hai cho rằng hòa
giải là một nguyên tắc nhằm mục đích để đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án. Trên cơ sở nguyên tắc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự, cần
thiết phải có khâu hòa giải. Đồng thời khi hòa giải thành thì sẽ giải quyết dứt điểm vụ
án mà không cần phải mở phiên tòa. Theo ý kiến của cá nhân, em đồng tình với quan
điểm thứ hai vì trước hết, hòa giải là một thủ tục quan trọng trong TTDS. Hơn nữa,
việc quy định hòa giải trong thủ tục rút gọn có thể giúp vụ án được giải quyết nhanh
chóng hơn khi pháp luật tố tụng dân sự quy định theo hướng: Trong thời gian luật
định mà các bên thỏa thuận được với nhau bằng biên bản hòa giải (thời hạn này rút
gọn còn 5 ngày so với 7 ngày như theo thủ tục thông thường) thì Tòa án ra quyết định
công nhận sự thỏa thận của đương sự và quyết định này có hiệu lực ngay mà không bị
kháng cáo, kháng nghị. Nếu không hòa giải thành thì triệu tập đương sự để mở phiên
tòa xét xử theo thủ tục rút gọn.
c) Phiên tòa sơ thẩm vụ kiện theo thủ tục tố tụng rút gọn
Hiện nay theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì phiên tòa sơ thẩm được
tiến hành tuần tự qua các bước khai mạc, thẩm vấn, tranh luận, nghị án và tuyên án.
Tuy nhiên đối với những loại việc được giải quyết theo thủ tục rút gọn thì không nhất
thiết phải trải qua tuần tự các bước như vậy. Khi chúng ta áp dụng cơ chế một Thẩm
phán giải quyết thì việc nghị án của Hội đồng xét xử không đặt ra. Vì thực tế đó, nên
quy định giản lước theo hướng:
- Ở phần thẩm vấn, thẩm phán công bố lời khai cũng như các chứng cứ tài liệu
mà các bên đưa ra và chỉ xét hỏi thêm những điểm còn chưa rõ ràng.
- Ở phần tranh luận, có thể cho các đương sự tranh luận với nhau về chứng cứ

khi cần thiết. Nếu các bên không có tranh luận gì về chứng cứ thì Thẩm phán yêu cầu
các bên đề xuất hướng giải quyết vụ kiện.
11


- Sau khi các bên đề xuất hướng giải quyết vụ án, tùy trường hợp cụ thể, Thẩm
phán có thể công bố ngay quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ kiện hoặc tạm
ngừng phiên tòa để quyết định và công bố ngay khi có kết quả chính thức.
Đối với những vụ kiện có chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận nghĩa
vụ, tại phiên tòa nếu các bên đương sự được triệu tập vắng mặt thì Thẩm phán vẫn có
thể căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ để ra quyết định. Quyết định này phải được
tống đạt cho các đương sự để họ biết và thể hiện quan điểm của mình là đồng ý hay
phản đối quyết định của Tòa án.
d) Hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục rút gọn
Đáp ứng yêu cầu xét xử nhanh chóng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự nên quy định cùng với việc quy định về thủ tục rút gọn, thì bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án mà không bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu để cho bị đơn có quyền kháng cáo
đối với bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp này thì bị đơn có thể lợi dụng
quyền kháng cáo làm kéo dài vụ án, trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật ngay và không bị
kháng cáo, kháng nghị có nghĩa là một vụ án dân sự được giải quyết theo thủ tục rút
gọn thì chỉ áp dụng chế độ một cấp xét xử. Việc quy định chế độ một cấp xét xử đối
với những vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn là có thể thực hiên được về mặt kỹ
thuật lập pháp. Tuy nhiên vẫn có qua điểm tranh luận về vấn đề này. Ủng hộ quan
điểm giữ nguyên hai cấp xét xử thì thừa nhận rằng, việc xét xử của Tòa án cấp sơ
thẩm của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập. Việc quy định cơ chế một
cấp xét xử chưa chắc đem lại hiệu quả tích cực. Mặt khác, nguyên tắc hai cấp xét xử
được quy định mang tính thông lệ chung được pháp luật hầu hết các quốc gia áp dụng,
kể cả trong trường hợp có áp dụng quy định về thủ tục rút gọn. Ủng hộ quan điểm

thực hiện chế độ một cấp xét xử có lý khi cho rằng, vẫn còn cơ chế để kiểm tra việc
xét xử theo thủ tục rút gọn một cấp. Vì vậy, mặc dù bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật nhưng nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới
thì bản án, quyết định đó có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự.
e) Việc chuyển hóa vụ án dân sự được thụ lý theo thủ tục tố tụng rút gọn sang thủ tục
thông thường
Thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
đương sự cũng hay thay đổi ý kiến, có trường hợp từ một việc dân sự các bên đã thỏa
thuận với nhau về toàn bộ vấn đề cần giải quyết. Nhưng trong quá trình giải quyết,
12


một trong các bên đương sự lại thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận trước đó và phát sinh
tranh chấp. BLTTDS hiện hành không có quy định về điều kiện, thủ tục chuyển từ
việc dân sự sang vụ án dân sự. Vì vậy, khi có sự thay đổi đã làm Tòa án lúng túng về
thủ tục tố tụng, tiếp tục thực hiện thủ tục giải quyết việc dân sự hay chuyển sang thủ
tục giải quyết vụ án dân sự. Vì vậy, khi xây dựng thủ tục rút gọn cũng nên xây dựng
một cơ chế chuyển hóa từ thủ tục rút gọn sang thủ tục thông thường, áp dụng cho
những vụ việc có nội dung, chứng cứ rõ ràng, một bên đương sự thừa nhận hoặc
không phản đối nghĩa vụ. Trong quá trình giải quyết, nếu Tòa án phát hiện vụ việc
không có tính chất đơn giản, chứng cứ có những điểm nghi vấn hoặc bị đơn phản đối
quyết định của Tòa án khi xét xử thủ tục rút gọn thì cần phải có quy định chuyển vụ
việc được xét xử theo thủ tục rút gọn sang giải quyết theo thủ tục thông thường, nhằm
bảo đảm quyền lợi của đương sự.
f) Vấn đề xét lại bản án, quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn
Khi một bản án, quyết định của Tòa án bị phát hiện có vi phạm pháp luật trong
việc xử lý vụ án hoặc phát hiện có những tình tiết mới làm thay đổi nội dung cơ bản
vụ án thì các chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
để xem xét lại vụ án. Việc quy định các thủ tục này trong tố tụng dân sự vừa nhằm

đảm bảo nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc công bằng xã hội trong hoạt động xét xử,
để cho tất cả các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật tuyệt đối
không được trái pháp luật. Thông qua thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm Tòa án cấp trên
có điều kiện thống kê, kiểm tra các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhằm
khắc phục, sửa chữa những sai phạm và tổng kế kinh nghiệm để hướng dẫn cho việc
xét xử được thống nhất. Đồng thời cũng đảm bảo tính công bằng, khách quan đúng
pháp luật trong hoạt động xét xử.
5. Kiến nghị nhằm xây dựng thành công mô hình thủ tục dân sự rút gọn ở Việt
Nam hiện nay
Thủ tục rút gọn quy định trong pháp luật tố tụng dân sự phải đảm bảo nguyên
tắc giải quyết nhanh gọn, kịp thời các vụ kiện khi có đủ điều kiện mà pháp luật quy
định và việc giải quyết vụ kiện chỉ do một Thẩm phán tiến hành mà không cần Hội
đồng xét xử. Nguyên tắc này quy định về mặt tiêu chuẩn của vụ việc để áp dụng thủ
tục rút gọn, đồng thời cũng quy định về mặt chủ thể giải quyết trực tiếp vụ kiện do
một Thẩm phán. Chính nguyên tắc này đã nói lên mục đích của việc quy định thủ tục
rút gọn khác với thủ tục thông thường.
Khó khăn lớn nhất trong xây dựng thủ tục rút gọn ở Việt Nam hiện nay chính là
các nguyên tắc xét xử được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất đó là
13


Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Việc giải quyết các vướng mắc
này sao cho đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các văn bản pháp luật đồng thời
đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn là vấn đề phải được quan tâm. Nếu xây dựng thủ
tục rút gọn theo hướng một thẩm phán có thẩm quyền độc lập thì sẽ liên quan đến
nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số và nguyên tắc xét xử có Hội
thẩm nhân dân tham gia được quy định trong Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001.
Trước hết chúng ta có thể thấy nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia là thể
hiện bản chất dân chủ và tính nhân văn sâu sắc của chế độ Nhà nước Việt Nam, tăng
cường sự giám sát của nhân dân với Tòa án nhân dân các cấp. Nhưng không có nghĩa

là bất kỳ vụ án nào khi giải quyết cũng có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Với
những loại vụ kiện được giải quyết theo thủ tục rút gọn có nội dung đơn giản, rõ ràng,
việc áp dụng pháp luật giải quyết là không khó khăn phức tạp cho nên một Thẩm
phán tiến hành vẫn đảm bảo chính xác, đúng pháp luật. Đồng thời chúng ta cũng xây
dựng một cơ chế kiểm sát việc giải quyết của Thẩm phán khi áp dụng thủ tục rút gọn.
Vì vậy, sai sót khi một Thẩm phán giải quyết vụ kiện trong trường hợp này là ít khi
xảy ra.
Một vấn đề đặt ra là giải quyết vụ việc dân sự do một Thẩm phán tiến hành có
trái với nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” không? Về mặt
pháp lý, việc giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm không có tập thể quyết định là chưa phù
hợp với Hiến pháp. Tuy nhiên, thực tiễn cuộc sống biến đổi không ngừng cho nên các
văn bản pháp luật kể cả Hiến pháp cũng có những điều luật chưa thể dự liệu hết được.
Thực tế đời sống luôn đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo trong các quan hệ xã
hội. Từ những năm 90 cho đến nay, khi giải quyết các tranh chấp về dân sự, thương
mại, lao động nếu hòa giải thành thì vẫn do một Thẩm phán tiến hành. Việc giải quyết
của Thẩm phán không phải xuất phát từ thái độ chủ quan, tùy tiện mà dựa trên sự
quản lý thống nhất của lãnh đạo Tòa án các cấp và trên cơ sở pháp luật hiện hành.
Hơn nữa, đối với vụ kiện có nội dung đơn giản, chứng cứ rõ ràng thì chúng ta có thể
tin tưởng việc giải quyết vụ án là chính xác và đúng pháp luật khi chúng ta xây dựng
một cơ chế kiểm soát chặt chẽ đối với Thẩm phán khi đưa ra một bản án có căn cứ và
đúng pháp luật.
Khi chúng ta mạnh dạn trao quyền cho Thẩm phán độc lập giải quyết vụ kiện
thì Thẩm phán có điều kiện chủ động trong công việc của mình từ đó đề cao trách
nhiệm cá nhân của Thẩm phán. Việc xây dựng mô hình thủ tục rút gọn theo hướng
trao quyền cho Thẩm phán giải quyết trong thời gian ngắn sẽ có lợi cho cả đương sự
và Nhà nước, giúp cho vụ kiện được giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi
14


phí cũng như bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, tiết kiệm được cả nguồn lực

và thời gian giải quyết của Tòa án. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế
thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay.
KẾT LUẬN
Việc xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn trong bối cảnh kinh tế - xã hội ở
Việt Nam ngay nay là một xu hướng tất yếu của pháp luật, theo đúng quy luật phát
triển, khi xã hội thay đổi thì pháp luật cũng cần phải có sự thay đổi cho phù hợp. Và
khi pháp luật phù hợp với sự hoàn cảnh xã hội sẽ thúc đẩy xã hội phát triển theo chiều
hướng tích cực. Chình vì vậy, pháp luật nên có sự bổ sung quy định về thủ tục rút gọn
trong Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, thúc đẩy
kinh tế - xã hội nước ta phát triển đi lên.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

6.

7.
8.
9.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ luật dân sự năm 2005.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011.

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam – Trường ĐH Luật Hà Nội – Nxb.
Công an nhân dân – Hà Nội – 2009.
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung năm 2011 - PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên &
TS. Trần Văn Biên (đồng chủ biên) - Nhà xuất bản Tư pháp; Viện Nhà nước
và Pháp luật.
Khóa luận tốt nghiệp – Trường ĐH Luật Hà Nội – Nguyễn Thị Thanh Thúy –
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng thủ tục tố tụng dân sự rút gọn
ở Việt Nam hiện nay”. – Hà Nội – 2011.
/> /> />aspx?ItemID=812

16



×