Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn” - nguyên nhân và giải pháp hạn chế tình trạng đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.05 KB, 18 trang )

I. Đặt vấn đề:
Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, một kỷ nguyên đánh dấu bước ngoặt
về kinh tế, khoa học và nhất là sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ
thông tin đã làm cho cuộc sống con người ngày càng được nâng cao. Tiếc
thay, những giá trị đạo đức đang bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy
vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Hơn nữa, giới trẻ ngày nay quá lạm
dụng tự do để chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành
điệu; họ bỏ qua những giá trị đạo đức là nền tảng cốt yếu của con người.
Một trong những lạm dụng tự do, đó là “sống thử”. Vấn đề này không chỉ là
sự lo lắng của các bậc làm cha mẹ mà còn là thách đố của các nhà giáo dục
cũng như những người có trách nhiệm . Bài tiểu luận này tôi xin được trình
bày về một vấn đề, một hiện tượng ngày càng gia tăng nhiều trong xã hôi,
đó là câu chuyện về “nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn” - nguyên nhân và giải pháp hạn chế tình trạng đó.
Để bài làm được mạch lạc, các nội dung được triển khai như sau:
1. Khái quát chung về tình trạng nam nữ chung sống với nhau như vợ
chồng.
1.1 Các quan niệm
1.2 Đặc điểm
2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng nam nữ sống chung mà không đăng ký
kết hôn:
2.1 Nguyên nhân chủ quan
2.2 Nguyên nhân khách quan

1


3. Hậu quả của việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn.
4. Thực trạng đó ở Việt Nam và hướng giải quyết của pháp luật.
5. Giải pháp hạn chế tình trạng Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng


mà không đăng ký kết hôn.

II. Nội dung bài làm:
1. Khái quát chung:
1.1 Quan điểm của pháp luật:
Nếu kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn thì quan
hệ chung sống như vợ chồng là quan hệ vợ chồng không có đăng ký kết
hôn. Quan hệ ấy có thể được xác lập có thể không phù hợp với các điều kiện
về nội dung kết hôn nhưng có thể hoàn toàn phù hợp với những điều kiện
ấy.
Trong chừng mực khái niệm quan hệ chung sống như vợ chồng
khác với sự chung sống tạm bợ và quan hệ qua đường. Trong quan hệ qua
đường, hai con người tìm đến với nhau, có thể về sự tò mò hoặc lối sống do
lối sống suy đồi. Chung sống tạm bợ, hai người cần đến nhau để đáp ứng
nhu cầu thiết yếu trước mắt, không quan tâm tới tương lai chung.
Quan hệ chung sống như vợ chồng mà phù hợp với các điều
kiện về nội dung kết hôn có tất cả các yếu tố đặt cơ sở cho sự thành lập một
gia đình, trừ yếu tố đăng ký kết hôn.
Trong xã hội hiện nay tồn tại nhiều cách hiểu về “nam nữ chung sống
với nhau như vợ chồng”. Theo quy định tai điểm d, mục 2 Thông tư liên tịch
của TANDTC, Bộ Tư pháp số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
2


04/01/2001 thì “được coi là chung sống như vợ chồng khi thuộc một trong
các trường hợp sau:
-

Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau
Việc nam nữ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc hai


-

bên) chấp nhận.
Việc nam nữ chung sống với nhau được người khác hay tổ chức

-

chứng kiến.
Họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ, cùng nhau xây
dựng gia đình.

Dưới góc độ pháp lý thì nam nữ chung sống như vợ chồng là trường hợp
nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo luật định nhưng không đăng ký kết
hôn. Về nguyên tắc, pháp luật không công nhận trường hợp này là vợ
chồng. Tuy nhiên thực tế, các bên nam nữ vẫn chung sống với nhau như vợ
chồng và thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau, với gia đình và xã hội.
1.2, Đặc điểm:
-Nam nữ có đủ điều kiện đăng ký kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn. Trong trường hợp nam nữa chung sống như vợ
chồng, hai bên có đủ điều kiện kết hôn. Theo quy định của điều 9 thì phải có
đủ các điều kiện sau:
+ Thứ nhất, nam đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
+ Thứ hai, việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào
được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
+ Thứ ba, việc kết hôn không vi phạm các điều cấm
-Trong thời gian chung sống họ thực sự coi nhau là vợ chồng.
Đây là đặc điểm để phân biệt với việc nam nữ chung sống tạm bợ. Về mặt
pháp lý, nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn không
3



được công nhận là vợ chồng. Nhưng trên thực tế họ đã chung sống và thực
sự coi nhau như vợ chồng. Tuy nhiên, để đáng giá việc hai người có coi
nhau như vợ chồng hay không là thực sự phức tạp, bởi đây là vân đề thuộc
ý thức chủ quan của mỗi người. Đã có không ít trường hợp sau một thời
gian chung sống, một trong hai người không muốn tiếp tục chung sống rồi
đi chung sống hoặc kết hôn với người khác. Biện minh cho hành động của
mình họ cho rằng họ chưa bao giờ coi người kia là vợ, chồng, cuộc sống
trước đây chỉ là tạm bợ. Như vậy phải căn cứ vào đâu để biết hai người có
thực sự coi nhau là vợ chồng hay không? Theo em, tình cảm và cách cư xử
trong cuộc sống của họ với nhau khi chung sống chính là cơ sở để khẳng
định.
-Khi bắt đầu chung sống, hai người muốn chung sống lâu dài và ổn định.
Đây là cơ sở để phân biệt với khái niệm “hôn nhân thử nghiệm”, trước khi
chung sống hai bên có thỏa thuận sẽ thử chung sống như vợ chồng, “thử”
thực hiện quyền và nghĩa vụ là vợ, chồng. Nếu sau một thời gian chung
sống thấy phù hợp thì đăng ký kết hôn nếu không thì đường ai nấy đi. Còn
trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, do hai bên mong
muốn xây dựng một gia đình hạnh phúc nên ngay từ khi chung sống, họ đã
có ý định gắn bó lâu dài với nhau. Song, trên thực tế việc xác định sự khác
nhau về mặt tâm lý và mục đích của hôn nhân thử nghiệm và trường hợp
nam nữ chung sống như vợ chồng là không đơn giản. Vì vậy, theo em để
đánh giá chính xác chúng ta cần căn cứ vào hoàn cảnh trong từng tình
huống cụ thể.

2 Những nguyên nhân dẫn đến việc việc nam nữ chung sống
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:

4



Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đên việc trên, do đất nước trải qua một
thời gian dài chiến tranh, có nhiều đôi lứa yêu nhau mà không có điều kiện
cùng đi đăng ký kết hôn, do phong tục tập quán về kết hôn, do sự kém hiểu
biết của người dân…
Trên thực tế hiện tượng này thường diễn ra với những đối tượng như
sinh viên Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và trường dạy nghề,
cũng có thể xảy ra trong các trường hợp một trong hai bên đã qua một lần
kết hôn, sau đó hôn nhân của họ chấm dứt do ly hôn hoặc do vợ chồng
chết, khi tuổi đã cao họ mới “kết bạn” để nương tựa vào nhau. Cũng có thể
một trong hai bên “quá lứa lỡ thì” chung sống với người khác trong hoàn
cảnh “rổ rá cạp lại” nên ngại muốn thực hiên thủ tục kết hôn theo quy định
của pháp luật.
2.1, Nguyên nhân chủ quan:
Nam nữ yêu nhau luôn muốn có nhiều thời gian để được ở bên người
mình yêu. Có lẽ, tình cảm là lý do đầu tiên về mặt chủ quan mà chúng ta
phải đề cập đến. Nhất là những bạn trẻ, tình yêu cộng với sự bồng bột, nông
nổi làm mà không nghĩ đến hậu quả. Hơn nữa, lại sống xa gia đình, không
được quản thúc, thêm sự thiếu thốn tình thân dễ dẫn đến tình trạng sống
buông thả. Bồng bột ở đâu thể hiện ở sự tò mò về cuộc sống gia đình thực
sự nhưng còn do vướng mắc việc học hành vẫn còn dở dang, không thể đi
tới hôn nhân thực tế được nên họ lựa chọn lối “sống thử”. Nam, nữ trong
trường hợp đã có hôn nhân với một người lại đi chung sống với người khác
là trái với luân thường đạo lý, vậy nên để giải quyết những vấn đề riêng
của mình về sinh lý cũng như tình cảm họ đã cố tình chung sống mà không
tuân thủ những điều kiện của pháp luật, bất chấp dư luận xã hội và cuộc
sống của các thành viên khác trong gia đình cũ của mình.

5



Thứ hai, về mặt kinh tế, điều này phổ biến hơn ở các bạn trẻ, sinh viên
hay công nhân sống xa nhà, phải tự lực lo toan mọi chi tiêu, nhất là trong
thời buổi giá cả leo thang như hiện nay, chi bằng góp gạo thổi cơm chung
vừa tiết kiệm được chi phí lại tiết kiệm được thời gian cho các việc khác
như học tập, làm việc,…tuy nhiên đấy chỉ là lý do, còn có đạt được mục đích
như vậy không lại còn phụ thuộc vào từng trường hợp.
Thứ ba, không thể không nói đến là sự suy đồi về mặt đạo đức, trái với
truyền thống đạo lý của dân tộc và vi phạm pháp luật. Nguyên nhân này là
rất quan trọng, bởi nó liên quan đến ý thức pháp luật của mỗi cá nhân. Ai
cũng như vậy, ai cũng làm theo những điều mình thích thì pháp luật không
giữ được sự nghiêm minh của nó. Hơn nữa, chung sống như vậy phần lớn
đều dẫn đến hậu quả không tốt cho hai bên nhất là người phụ nữ, gây hậu
quả xấu cho xã hội.
2.2, Nguyên nhân khách quan
Bên cạnh những nguyên nhân thuộc về chủ quan, còn có những lý do
khách quan để hai bên không tiến hành đăng ký kết hôn.
Ở các tỉnh miền núi, do phong tục kết hôn chỉ cần có sự chứng kiến của
già làng nên việc đăng ký kết hôn chưa được nhiều người biết và quan tâm.
Hoặc ở thành phố với lối sống “nhà nào biết nhà ấy” và do ảnh hưởng
mạnh mẽ tư tưởng tự do cá nhân đã tạo điều kiện cho việc nam nữ chung
sống như vợ chồng trở nên phổ biến. Đây chính là đặc điểm cơ bản để phân
biệt với trường hợp nam nữ không đủ điều kiện kết hôn nên không thể
đăng ký kết hôn hay trường hợp kết hôn trái pháp luật.
Ví dụ 1: Anh T và chị H là anh em con chú con bác, do sống gần gũi và
hay va chạm nên giữa hai người nảy sinh tình cảm, khi đến cơ quan có

6



thẩm quyền để đăng ký kết hôn không nhận được sự đồng ý nhưng hai anh
chị vẫn quyết định chung sống với nhau.
Ví dụ 2: Chị Nà là người dân tộc Nùng gặp anh Sùng người Mông
trong phiên chợ, hai người đem lòng yêu mến nhau và xin ý kiến cha mẹ.
Cha mẹ chị Nà không muốn con gái lấy người dân tộc khác, phải đi xa gia
đình nên đã nhận lời của gia đình anh Tẩn- người cùng bản để gả chị Nà,
ép chị Nà cưới. Sau khi làm lễ cưới, chị Nà đã bỏ nhà đi với anh Sùng, hai
người vào Tây Nguyên đi xây dựng vùng kinh tế mới và chung sống với
nhau như vợ chồng. Đây là trường hợp kết hôn trái pháp luật.
Bên cạnh đó là sự du nhập lối sống phóng khoáng ở phương Tây, Xin
được nói về ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, sự tương tác và giao lưu
văn hóa là bình thường, phổ biến thông qua các kênh thông tin như: báo
chí, phim ảnh, internet,... Hiện tượng này bị coi là lệch chuẩn trong văn hóa
Việt Nam. Vậy phải chăng do người phương Tây thoải mái nên coi đó là
bình thường?
Tại Việt Nam thì có, bởi vì trong chuyện này, tại Việt Nam đang tồn tại sự
mâu thuẫn giữa thói quen và văn hóa. Văn hóa của chúng ta mang nặng tư
tưởng của Khổng giáo, đề cao sự thủy chung, phê phán hôn nhân không giá
thú, gán cho người phụ nữ những định chế khắt khe,...Nhưng thói quen của
người Việt lại là sự tùy tiện, phó mặc, thiếu trách nhiệm trong cuộc sống và
sự tính toán, cân nhắc không kỹ lưỡng. Tư duy nông nghiệp để lại cho ta
tâm lý không cần quá chính xác. Rồi tư tưởng làm việc tập thể, chịu trách
nhiệm cũng không muốn chỉ đích danh (các từ "chúng tôi, chúng ta" được
dùng rất nhiều thay vì chỉ dùng chữ "tôi",...) Nỗi lo về bổn phận trách nhiệm
bằng hình thức này hay hình thức khác đã đi vào cuộc sống trước hôn
nhân. Rồi sự thiếu tính toán cho tương lai, cung cách "ăn xổi ở thì" cũng là
nguyên nhân dẫn tới cái chết yểu cho tình yêu đôi lứa.
7



Ở nước ngoài, trước khi sinh sống với nhau họ rất thẳng thắn khi nói về
vấn đề kinh tế, vấn đề trách nhiệm, và những khả năng khi kết thúc mối
tình để ai cũng thoải mái, cũng hình dung được kết quả sau cùng. Còn tại
nước ta, do văn hóa nên chuyện tiền bạc các cặp đôi rất ngại đề cập, cũng
do văn hóa nên những mối tình đều được lý tưởng hóa. khi yêu các thanh
niên luôn mơ mộng và sẵn sàng thề thốt, cùng nhau tưởng tượng xây dựng
lên một gia đình lý tưởng sau này... Và rồi (chiếm số đông trong những cặp
sống thử) khi đã có chút thất vọng thì thói quen tùy tiện cùng tâm lý sợ
trách nhiệm bắt đầu lên tiếng...
Có thể nói, sự du nhập lối sống phương Tây là tiền đề, là đốm lửa. Và
chính thói quen tùy tiện cùng tâm lý sợ trách nhiệm là quan trọng, là chất
xăng làm ngọn lửa thêm to... "Sống thử" trở thành một hiện tượng xã hội
tại Việt Nam (bị phê phán, lo lắng nhiều) có nguyên nhân từ sự mâu thuẫn
trong chính văn hóa Việt Nam thời kì mở cửa, hội nhập.
3.Hậu quả của việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn:
Nam nữ chung sống như vợ chồng là tình trạng hôn nhân trái với ý chí
của Nhà nước. Và tất nhiên không mang lại lợi ích cho đa số chủ thể. Hầu
hết, sau khi tham gia vào quan hệ chung sống như vợ chồng, các chủ thể
đều phải gánh chịu những hậu quả bất lợi. Thứ nhất, đối với bản thân chủ
thể, khi người phụ nữ chấp thuận chung sống như vợ chồng với một người
đàn ông là đã trao tất cả niềm tin, tình yêu thương và những gì quý giá
nhất. Không có ít trường hợp người đàn ông làm cho người phụ nữ có thai
rồi ruồng rẫy, không nhận trách nhiệm nuôi con. Vậy cuối cùng người chịu
thiệt thòi là phụ nữ và đứa con sinh ra không có cha, trong những giờ phút
khó khăn nhất của cuộc đời, đó là khi thai nghén rồi khi lâm bồn người phụ
nữ phải đối mặt với sự cô đơn, tủi hổ. Nhất là trong một đất nước còn
8



mang nặng tư tưởng phong kiến như Việt Nam, sức ép của dư luận xã hội
là không hề nhỏ. Hậu quả như vậy thì trách ai được? có thì cũng chỉ trách
mình được mà thôi!!!
Về mặt xã hội, những trường hợp như vậy, chất lượng cuộc sống sẽ
không đảm bảo. Người phụ nữ phải một mình nuôi con, khó khăn vất vả,
không tự chăm sóc được cho mình. Đứa con sinh ra thiếu thốn tình thương
của người cha cũng là điều thiệt thòi, phát triển không toàn diện dễ dẫn
đến tình trạng hư hỏng,…hậu quả thật khó lường trước được.
Về mặt pháp lý, quan hệ chung sống như vợ chồng vi phạm các điều
kiện về nội dung kết hôn là quan hệ vợ chồng trái pháp luật. Tuy nhiên, việc
xác lập và duy trì quan hệ đó chỉ bị chế tài về hành chính hoặc hình sự
trong một số trường hợp- loạn luân, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một
chồng, tảo hôn, cưỡng ép kết hôn,…Trong khung cảnh của luật thưc định,
chỉ có một điều chắc chắn: giữa những người này và con cái họ luôn có
quan hệ cha mẹ và con và quan hệ ấy làm phát sinh tất cả các quyền và
nghĩa vụ hỗ tương của cha mẹ và con theo đúng pháp luật Hôn nhân và gia
đình.
4. Thực trạng đó ở Việt Nam và hướng giải quyết của pháp luật:
Tình trạng nam nữa sống chung như vợ chồng mà không đăng kí kết
hôn (hôn nhân thực tế) xảy ra khá nhiều ở các địa phương trên cả nước. Ví
dụ ở An Giang là: 11.558 trường hợp, Cần Thơ là 5.686, Lai Châu là 1.917
trường hợp…(báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Hôn nhân gia đình
1986 của Bộ tư pháp).
Đến nay con số này càng lớn, lang thang ở các khu trọ sinh viên, làng
công nhân,… chúng ta rất dễ bắt gặp nhiều “đôi vợ chồng trẻ”. Theo thống
kê của khoa xã hội học Đại học Mở TPHCM, năm 2010, có khoảng 1/3 các
bạn trẻ sống thử trước hôn nhân: Lan, sinh viên năm thứ 2 trường Đại học
9



Nông Lâm TPHCM, cho biết: “Ở xóm trọ của em, gần một nửa các bạn sống
thử trước hôn nhân”. Tôi được một bạn công nhân chia sẻ, dãy phòng trọ
của em có 10 phòng thì có đến sáu phòng “góp gạo thổi cơm chung”.
Trước thực tế đó, Nhà nước đã công nhận “hôn nhân thực tế” để bảo
vệ quyền lợi cho các đương sự.
4.1, Việc công nhận hôn nhân thực tế trước khi Luật hôn nhân gia đình
năm 2000 có hiệu lực
Luật hôn nhân gia đình năm 1959 và Luật hôn nhân gia đình 1986 đã
ưuy định về việc kết hôn phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thì giữa các bên nam nữ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Tuy vậy, trên
thực tế, việc thi hành quy định này không triêt để. Hiện tượng nam nữ tổ
chức lễ cưới và chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn xảy ra khá
nhiều trên khắp các vùng miền trên cả nước. Xuất phát từ tình hình thực tế,
pháp luật về hôn nhân gia đình đã công nhận “hôn nhân thực tế”. Văn bản
pháp luật quy định về hôn nhân thực tế bao gồm:
+ Thông tư 112/NCPL ngày 19-81972 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn về dân sự những hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn. Tại phần II mục 6
ghi rõ: “ Trên thực tế các tòa án thường xét xử không có đăng ký kết hôn
kết hợp với các diều kiện khác của kết hôn. Đường lối xử lý là: Nếuu các
điều kiện khác bị vi phạm một cách nghiêm trọng thì dù hôn nhân có đăng
ký hay không có đăng ký, Tòa án vẫn xử tiêu hôn. Ngược lại, nếu các điều
kiện khác được thỏa mãn, nhưng chỉ có riêng hôn nhân chưa được đăng ký
thì TAND coi đó là một hôn nhân thực tế, được giải quyết bằng đường lối và
thủ tục xử lý những việc ly hôn. Cần chú ý thêm là: chỉ nên coi là hôn nhân
những cuộc hôn nhân không đăng ký, thỏa mãn đầy đủ các điều kiện kết
hôn khác, tong đó hai bên có ý định thực sự lấy nhau, và từ khi kết hôn đã
thực tế coi nhau như vợ chồng, chung sống công khai và gánh vác chung
10



công việc gia đình, được họ hàng xã hội xung quanh coi như vợ chồng”. Có
thể nói Thông tư 112-NCPL ngày 19/8/1972 của TATC là cơ sở pháp lý đầu
tiên để TA các cấp vân dụng vào thực tế xét xử.
+ Nghị quyết số 01/NQ-HDTP ngày 20/1/1988 của HDTP TNDTC về việc
“Hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân gia đình năm 1986”, đối với các
trường hợp nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống như vợ chồng
“tuy có vi phạm về thủ tục kết hôn nhưng không coi là việc kết hôn trái
pháp luật, nếu việc kết hôn không trái các điều 5,6,7 Luật hôn nhân gia
đình Việt Nam năm 1986” khi có tranh chấp, một hoặc hai bên yêu cầu ly
hôn, Tòa án không hủy việc kết hôn mà áp dụng điều 40 để xét xử theo thủ
tục ly hôn.
+ Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995, Chánh án TANDTC
đã kết luận: “…Chỉ có công nhận hôn nhân thực tế đối với những trường
hợp hai bên nam nữ đã chung sống với nhau được hàng chục năm hoặc có
con chung, tài sản chung”.
+ Công văn số 16 ngày 01-02-1999 của TANDTC hướng dẫn giải quyết
các trường hợp ly hôn nhưng không có đăng ký kết hôn, tại mục IV điểm 2
và 3 đã nêu: Hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC tại nghị quyết số
01 ngày 20-01-1988 và kết luận của Chánh án TANDTC tại hội nghị tổng
kết ngành tòa án năm 1995, hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
hôn nhân gia đình về việc kết hôn không đăng ký, có vi phạm về thủ tục kết
hôn nhưng không coi là trái pháp luật. Nếu các bên yêu cầu ly hôn thì Tòa
án xử theo thủ tục ly hôn và chỉ được áp dụng với trường hợp nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày Luật hôn nhân gia đình năm
1986 có hiệu lực pháp luật (ngày 03-07-1987). Đối với trường hợp nam nữ
chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03-01-1987 mà không đăng ký

11



kết hôn nếu có yêu cầu ly hôn hoặc công nhận hôn nhân thực tế thì Tòa án
không thể giải quyết.
Như vậy, đối với các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, có
đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn thì Tòa án công nhận đó
là “hôn nhân thực tế”. Đồng thời, khi giải quyết cần phải xem xét yếu tố chủ
quan và yếu tố khách quan.
-Về mặt chủ quan: Hai bên nam nữ phải thực sự mong muốn kết hôn với
nhau.Việc họ chung sống như vợ chồng hoàn toàn trên cơ sở tự
nguyện,không bị cưỡng ép, lừa dối.Các bên đã thực sự coi nhau là vợ chồng
trong thời gian chung sống.
-Về mặt khách quan: Hai bên nam nữ đã chung sống công khai và minh
bạch trong quan hệ vợ chồng, họ cùng nhau gánh vác công việc gia đình,
được họ hàng và những người chung quanh thừa nhận là vợ chồng.
Trên tinh thần các hướng dẫn về công việc hôn nhân thực tế,các Tòa án
các cấp trong toàn quốc đã giải quyết nhiều trường hợp thấu đáo, hợp tình,
hợp lí.
Ví dụ: Tại bản án số 112/PTLH ngày 20-8-1999 của TAND thành phố
H đã công nhận hôn nhân thực tế giữa anh A và chị L. Hai người tổ chức lễ
cưới từ năm 1986, trên cơ sở tự nguyện nhưng không đăng ký kết hôn. Sau
khi cưới hai người chung sống hạn phúc, đến năm 1994 thì phát sinh mâu
thuẫn do chị L nghi ngờ anh A có quan hệ với người phụ nữ khác. Mâu
thuẫn trở nên trầm trọng vào cuối năm 1996 nên chị L đã yêu cầu ly hôn.
Bản án sơ thẩm của Tòa án quận N đã công nhận hôn nhân thực tế giữa
anh A và chị L là hôn nhân thực tế và giải quyết cho họ ly hôn.
Qua vụ việc trên cho thấy anh A và chị L đã chung sống với nhau như
vợ chồng từ năm 1986 trên cơ sở tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong
12



tục, đã có hai con chung và cùng nhau xây dựng được một khối tài sản
đáng kể, họ đã có thời gian chung sống hạnh phúc. Quan trọng hơn trong
suốt những năm chung sống hai người thực sự coi nhau là vợ chồng, cùng
nhau nuôi con và xây dựng gia đình. Với những căn cứ trên tòa án xét xử
công nhận hôn nhân thực tế giữa anh A và chị L là hoàn toàn có cơ sở và
phù hợp với pháp luật; “thấu tình, đạt lý”, bả vệ được quyền lợi của các
đương sự.
4.2, Giải quyết hậu quả pháp lý đối với việc công nhận hôn nhân thực tế
kể từ khi luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực pháp luật.
-Tong trường hợp các bên chung sống như vợ chồng trước ngày
03/01/1987( ngày luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà
không dăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong
trường hợp có yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết theo quy định về ly hôn.
- Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3-1-1987
đến ngày 01-01-2001 mà có đủ điều kiện kết hôn thì có nghĩa vụ đăng ký
kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 có hiệu lực. Nếu trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn
nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn để giải
quyết. Từ sau ngày 01-01-2003 mà họ không đăng ký thì pháp luật không
công nhận họ là vợ chồng. Kể từ sau ngày 01-01-2003 mà họ mới đăng ký
kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ đăng ký
kết hôn. Nếu sau đó họ yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết theo thủ tục
chung về ly hôn (Mục 2, điểm c Thông tư liên tịch số 01/2000/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03-01-2001).
- Nam và nữ chung sống như vợ chồng từ ngày 01-01-2001 trở đi mà
không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.

13


5. Giải pháp hạn chế tình trạng nam nữ chung sống với nhau như

vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
 Tăng cường hơn nữa các hoạt động giáo dục:

Trước hết, nhà trường cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền về vấn
đề giới tính và sức khỏe sinh sản nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh,
sinh viên. Đồng thời, cần bổ sung đội ngũ giáo viên có chất lượng, chuyên
môn, am hiểu tâm lý học sinh, sinh viên để từ đó dễ dàng tuyên truyền, phổ
biến về vấn đề này. Bên cạnh đó cũng phải tăng cường những buổi sinh
hoạt, ngoại khóa để cho sinh viên có thể học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với
nhau về cuộc sống. Người lớn không nên e dè mà phải giáo dục thẳng thắn
bởi : “vẽ đường cho hươu chạy còn hơn để hươu chạy lạc đường”
 Có cách nghĩ đúng đắn về tình yêu và quan hệ trước hôn nhân

Cấm đoán chưa bao giờ là một biện pháp hữu hiệu, nhất là đối với
những nhu cầu sinh lý cơ bản của con người như tình dục. Theo tôi, chúng
ta chỉ có một cách là giáo dục sức khỏe giới tính. Sinh viên là những người
có trí thức, đa phần thông minh, với kiến thức đầy đủ họ sẽ tự chọn cho
mình một cách thức sinh hoạt đúng. Theo đó, tình yêu phải hướng tới là
tình yêu lành mạnh, có trách nhiệm với nhau, hiểu biết cách phòng tránh,
không để lại hậu quả xấu.
 Hoàn thiện các quy định của pháp luật

Hiện nay một số quy định về bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong trường hợp
nam nữ chung sống như vợ chồng chưa cụ thể còn nhiều khiếm khuyết
hoặc không còn phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Để khắc phục tình
trạng đó, pháp luật nói chung và luật hôn nhân và gia đình nói riêng cần có
những sửa đổi bổ sung ,cụ thể:

14





Trong trường hợp đa thê: Người đàn ông không kết hôn với người
phụ nữ nào nhưng lại chung sống như vợ chồng với nhiều người
phụ nữ một lúc không chỉ liên quan đến vấn đề băng hoại về mặt
đạo đức mà còn là hành vi vi phạm pháp luật, gây hậu quả nghiêm
trọng, thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị xử lý
theo ưuy định của bộ luật Hình sự.



Trong việc chia tài sản: lao động của vợ chồng trong gia đình được
coi như lao động có thu nhập, là một trong những nguyên tắc trong
việc chia tài sản chung trong trường hợp nam nữ sống chung như
vợ chồng.



Về vấn đề cấp dưỡng: Để bảo vệ phụ nữ, nên quy định về vấn đề cấp
dưỡng trong một số trường hợp cần thiết đối với nam nữ sống
chung như vợ chồng. Cụ thể khi có mâu thuẫn không thể chung
sống, nếu bên khó khăn túng thiếu mà nguyên nhân xuất phát từ
cuộc sống chung trước đó thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng một
lần theo khả năng của mình.

 Nâng cao ý thức pháp luật của cá nhân:

Tính thực thi của pháp luật nói chung và luật hôn nhân gia đình nói riêng
phụ thuộc rất lớn vào mỗi cá nhân. Vì vậy, một trong những yếu tố có ý

nghĩa quan trọng là ý thức tôn trọng pháp luật của mỗi cá nhân. Để nâng
cao ý thức đòi hỏi sư tác động của nhiều yếu tố trong đó phải kể đến các
phong trào và các cuộc vân động của Đảng và Nhà nước ta đã phát động
trong từng giai đoạn lịch sử và căn cứ vào các điều kiện kinh tế xã hội, Nhà
nước đã tổ chức các phng trào, các cuộc vân động nhằm thu hút tất cả xã
hôi tham gia vào việc nâng cao ý thức của mỗi cá nhân đối với gia đình và
xã hội. từ những phong trào đó đã xuất hiện nhiều gương điển hình tiên
tiến đó là hạt nhân tích cực cho việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức và
pháp luật. Đồng thời việc đánh giá, tổng kết các phng trào, các cuộc vận
15


động đã kịp thời khen thưởng. động viên tấm gương tốt, có biện pháp giáo
dục đối với những người thực hiện chưa tốt và góp phần phát huy vai trò
của các cơ quan tổ chức trong việc bảo vệ pháp luật.

III. KẾT BÀI:
Khi tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia đình về vấn đề nam nữ chung sống như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, kết hợp với việc phân tích nguyên
nhân, thực trạng và giải pháp hạn chế , chúng ta đã nhận thức rõ, đó là
hành vi vừa trái với những quy đinh của pháp luật, vừa trái với truyền
thống đạo đức, văn hóa của ông cha. Bởi vậy, mỗi cá nhân cần có ý thức tự
bảo vệ mình đồng thời tuyên truyền phổ biến, giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho người khác.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

16



2. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Tập1. NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
3. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
4. Luận văn: Nam nữ chung sống như vợ chồng dưới góc độ bảo vệ quyền
lợi của phụ nữ và trẻ em.
5. Các công văn, Nghị quyết, bản án.
6. Tham khảo Internet.

17


18



×