Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
A. LỜI MỞ ĐẦU
Áp dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) là một xu thế tất yếu của nhân loại, thực
tế hiện nay đã có hơn 120 nước áp dụng thuế GTGT đã chứng minh cho điều đó.
Thuế GTGT là loại thuế gián thu quan trọng trong việc điều tiết nhập khẩu, sản xuất,
lưu thông hàng hóa, dịch vụ của nước ta. Thuế GTGT là công cụ chủ yếu để nhà
nước khuyến khích hoặc hạn chế đối với các mặt hàng, dịch vụ nhất định thông qua
đó huy động một nguồn thu nhập của người tiêu dùng đóng góp vào ngân sách Nhà
nước. Thực tiễn áp dụng thuế GTGT ở nước ta trong những năm qua cho thấy sự tác
động lớn, nhiều mặt đến đời sống kinh tế, xã hội. Sau đây em xin tìm hiểu vấn đề:
“Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện
nay”.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề cơ bản về pháp luật thuế giá trị gia tăng
1. Sự ra đời và phát triển của thuế giá trị gia tăng trên thế giới và tại Việt
Nam
Nếu như thuế đã xuất hiện từ rất lâu đời thì thuế GTGT có thể coi là loại thuế
hiện đại, áp dụng chính thức lần đầu tiên tại Pháp năm 1954, mặc dù đã được các nhà
nghiên cứu kinh tế từ những năm 1920 ở các quốc gia khác nhau. Đến năm 1968,
thuế này được nhập vào thuế lưu thông đánh vào dịch vụ và thuế địa phương đánh
vào lưu thông bán lẻ thành một loại thuế thống nhất chung thu ở giai đoạn bán Chỉ
hơn hai mươi năm sau khi ra đời hình thức sơ khai đầu tiên, thuế GTGT đã được coi
là một trong những điều kiện tiên quyết để gia nhập khối EC (năm 1977). Cho đến
nay, loại thuế này đã được áp dụng ở trên 120 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Ở Việt Nam, trước năm 1990, thuế doanh thu áp dụng với các cơ sở sản xuất
kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể và cá thể. Điều lệ thuế công thương
nghiệp ban hành theo Nghị quyết số 200/NQ-TVQH ngày 18/01/1966 quy định loại
thuế này. Năm 1990, Quốc hội ban hành luật thuế doanh thu, áp dụng chung cho các
chủ thể có hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng thuế doanh thu này có hạn chế cơ
bản là thuế đánh chồng lên thuế, chế độ thuế suất phức tạp, khó cho quá trình áp
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
1
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
dụng, dễ gây vi phạm pháp luật. Do đó, nước ta cũng thực hiện từng bước thay thế
Luật thuế doanh thu bằng Luật thuế GTGT . Để Luật thuế GTGT được chính thức
ban hành năm 1977 và có hiệu lực từ 01/01/1999, Chính phủ Việt Nam đã nghiên cứu
và từng bước áp dụng loại thuế doanh thu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp
tương tự như thuế GTGT từ năm 1993 như hoạt động mang tính thử nghiệm. Theo
đó, Luật thuế GTGT năm 2008 cũng được Quốc hội ban hành.
2. Thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của
người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hòa, nhận dịch vụ. Điều 2 Luật thuế GTGT
2008 quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng
hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.
Xét về tính chất, thuế GTGT là loại thuế gián thu, người nộp thuế và người
chịu thuế là hai đối tượng khác nhau. Nghĩa là, các nhà sản xuất, kinh doanh và cung
cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế
thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ. Do thuế GTGT chỉ đánh trên phần giá trị tăng
thêm của hàng hóa, dịch vụ, nên số thuế đầu ra của doanh nghiệp này là số thuế đầu
vào của doanh nghiệp kia. Đây cũng là một biểu hiện của tính trung lập kinh tế của
thuế GTGT.
3. Pháp luật thuế giá trị gia tăng
Pháp luật thuế GTGT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp thuế,
quản lý và quyết toán thuế GTGT.
Các quan hệ này bao gồm: Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý
thuế GTGT, gắn liền với sự tham gia của Nhà nước; nhóm các quan hệ phát sinh
trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT đối với Nhà nước; nhóm các quan hệ
phát sinh trong quá trình xử lý vi phạm và khiếu nại về thuế GTGT.
Pháp luật thuế GTGT có các đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả
các đối tượng trong xã hội (mọi đối tượng có thu nhập, sử dụng một phần thu nhập
phục vụ đời sống).
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
2
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
- Thứ hai, chỉ có thể được ban hành khi các điều kiện áp dụng đạt đến mức độ
nhất định. Những điều kiện ở đây chủ yếu là tiêu chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ
hóa đơn và khả năng quản lý của chính các cơ quan tham gia quản lý thu thuế GTGT.
Ban hành Luật thuế GTGT được coi là bước đột phá trong quá trính cải cách,
hoàn thiện về hệ thống pháp luật thuế. Để đảm bảo tính hiệu quả, pháp luật thuế
GTGT cần đáp ứng một số yêu cầu:
- Một là, đảm bảo tính thống nhất, tính ổn định và tính khả thi.
- Hai là, đảm bảo tính đơn giản trong quá trình áp dụng.
- Ba là, hệ thống pháp luật thuế GTGT cần hướng tới người nộp thuế. Như là
phải tôn trọng người nộp thuế trong việc kê khai, nộp thuế. Đi kèm là chế tài nghiêm
khắc với việc vi phạm pháp luật thuế GTGT gồm chế tài hành chính với mức phạt
cao, chế tài hình sự áp dụng đối với nhiều loại hành vi vi phạm khác nhau.
II. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam hiện nay
1. Những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế giá trị gia tăng
- Chính phủ, Ban chỉ đạo triển khai các luật thuế mới của Chính phủ, các Bộ,
các Ngành, các địa phương đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ
chính trị, Quốc hội, của UBTVQH để tổ chức triển khai thực hiện luật thuế GTGT.
Trong quá trình triển khai Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương
đã bám sát cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện những khó khăn vướng mắc trong
quá trình thực hiện các luật thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm tháo
gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như: bổ xung vào danh mục hàng hoá, dịch vụ
không thuộc diện chịu thuế GTGT tại Điều 5 Luật thuế GTGT năm 2008... Mở rộng
việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Điều 12 Luật thuế GTGT năm 2008)… Các ban
chỉ đạo đã quản lý tốt thị trường, giá cả, đặc biệt là trong thời gian đầu áp dụng pháp
luật thuế GTGT mới.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến luật về thuế, tập huấn nghiệp vụ có nhiều
tiến bộ hơn so với các đợt triển khai các luật thuế trước đây. Ban Tư tưởng văn hoá
Trung ương và các địa phương đã phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, các đài
báo Trung ương và địa phương đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, để đẩy mạnh
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
3
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
tuyên truyền giải thích các luật thuế mới, phản ánh kịp thời những gương điển hình
thực hiện tốt các luật thuế mới cũng như những khó khăn vướng mắc trong việc thực
hiện các luật thuế mới.
- Các cơ sở kinh doanh và mọi tầng lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình
thực hiện pháp luật thuế GTGT do nhận thức được sự tiến bộ và ưu việt của pháp luật
thuế GTGT.
- Sự phấn đấu nỗ lực của ngành Thuế quan và ngành Hải Quan từ việc chuẩn bị
triển khai đến việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế GTGT.
2. Một số yếu tố gây vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế
giá trị gia tăng
2.1. Thuế suất thuế GTGT khá cao.
Mức thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các hàng hóa, dịch vụ thông thường
cho tiêu dùng là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều
khó khăn. Mức thuế suất 10% được quy định tại khoản 3 Điều 8 Luật thuế GTGT
năm 2008.
Mặc dù theo lý luận, thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng nếu thuế suất cao,
giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó chấp nhận, tiêu thụ
sẽ gặp khó khăn, các doanh nghiệp muốn bán được hàng buộc phải hạ giá bán và bị
thua lỗ. Để tránh bị thua lỗ, các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất.
2.2. Thuế GTGT làm đảo lộn mức thuế phải nộp.
Thuế GTGT được thiết kế với mức thu tương đương thuế doanh thu với mục
tiêu ổn định quan hệ phân phối giữa Nhà nước với nền kinh tế xét trên tổng thể,
nhưng thực tế có làm đảo lộn mức thuế phải nộp của các ngành khác nhau. Có ngành
thuế phải nộp tăng gấp bội so với thuế doanh thu, có ngành lại thấp hơn nhiều. Tương
quan phân phối giữa các ngành bị đảo lộn vướng mắc phát sinh không chỉ liên quan
đến lỗ lãi mà còn liên quan đến vấn đề mới.
2.3. Thuế GTGT gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp về vốn
Qui định phải nộp thuế GTGT đối với những mặt hàng nhập kho nhưng chưa
bán làm cho một số doanh nghiệp khó khăn trong vấn đề vốn. Đặc biệt với những
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
4
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
doanh nghiệp với số vốn ít thì qui định này làm cho họ thật sự điêu đứng. Nhiều
doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay này khi áp dụng luật thuế GTGT phải
vay thêm vốn để nộp cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại
càng nặng thêm cho dù sau này sẽ được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp các
doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đại lý phải nộp ngay thuế GTGT,
trong khi đó chỉ khi nào đại lý bán được hàng mới thu được thuế GTGT từ người
mua. Như vậy vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng một cách bất hợp lý.
2.4. Tốc độ hoàn thuế cho doanh nghiệp còn chậm
Quá trình thủ tục xin hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức
của các doanh nghiệp. Để được hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn
bộ hoá đơn, chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra,
đối chiếu hoá đơn thực hiện bằng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra
làm chậm việc hoàn thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây
thêm khó khăn cho doanh nghiệp.
2.5. Tình trạng gian lận thuế GTGT
Một số nguyên nhân gây nên tình trạng gian lận về thuế GTGT:
- Tính mới của thuế GTGT: Tính mới của thuế GTGT thể hiện ở những điểm:
Cơ sở tính thuế là GTGT chứ không phải doanh thu hay lợi nhuận; Quy trình thu và
quản lý thuế mang tính công nghệ; Diện chịu thuế với thuế suất 0% khác cơ bản diện
không chịu thuế; Khấu trừ thuế khác nhau giữa các mặt hàng chịu thuế GTGT và mặt
hàng không chịu thuế GTGT; Hoá đơn GTGT và hoá đơn thường... Khái niệm thuế
GTGT đầu vào, thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0 đồng còn
quá mới mẻ đối với người kinh doanh. Những điểm nói trên không chỉ mới đối với
người nộp mà đối với cả cơ quan thu thuế
- Cơ sở kế toán quốc dân chưa hình thành hoặc chưa được chuẩn bị: Các cơ sở
kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân chưa có sự quan tâm đúng mức đến
chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo logic thô sơ. Thậm
chí, họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát
họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ,... là những phương tiện căn bản
giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
5
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt
Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền
mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Điều này được các doanh
nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống; đồng thời cơ quan thuế cũng khó
phát hiện để ngăn chặn kịp thời.
- Sự lúng túng của những cơ quan chức năng: Sự lung túng này thể hiện rõ nét
nhất là quá nhiều văn bản được ban hành. Chỉ trong một thời gian ngắn, năm 1999,
Chính phủ va Bộ Tài chính cho ra đời hàng trăm văn bản liên quan đến thuế GTGT.
Ngoài ra, việc áp dụng đồng thời hai phương pháp tính cho hai loại đối tượng nộp
thuế gây nhiều tốn kém và cản trở sự vận hành của thuế GTGT trên phạm vi toàn nền
kinh tế - xã hội.
- Yếu kém trong dự báo và thiếu đánh giá tác động của chính sách. Vì vậy làm
nảy sinh hiện tượng lập chứng từ không trung thực để chiếm đoạt tiền hoàn thuế
GTGT và gây ra những hậu quả nặng nề: Chính phủ mất tiền, dân chúng mất niềm tin
chính sách thuế mới, và doanh nghiệp lương thiện nghi ngờ cách thức và năng lực
điều hành nền kinh tế của Chính phủ.
- Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hoá đơn
không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá nhân
chiếm đoạt nhiều tỉ đồng tiền thuế. Nếu không trị quyết liệt thì luật pháp không còn
khiến người ta sợ. Do đó, tình hình phạm tội liên quan đến thuế GTGT, mặc dù đã
được công luận cảnh báo cơ quan chức năng, vẫn tiến triển nhanh, đa dạng, tinh vi và
ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt.
- Sự thoái hoá của một số cán bộ thuế. Không hiếm trường hợp chính cán bộ
thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế. Chủ trương xuất khẩu tiểu
ngạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để
thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi
cả năm. Thế nhưng chỉ cần hai, ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều
lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con
mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
- Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ. thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
6
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điển tử...
- Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói
quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành.
Mặt khác, hiện nay hoá đơn bất hợp pháp đa dạng và phong phú chưa từng có
và trở thành hàng hoá được mua bán công khai. Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan
thuế hơn bao giờ hết. Trước đây khi thực hiện thuế doanh thu sử dụng hoá đơn giả,
chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ, với hoá đơn giả, Nhà nước
không những không thu được đồng thuế nào mà ngược lại còn phải chi thêm để hoàn
thuế.
2.6. Về việc khấu trừ thuế GTGT và xét giảm thuế GTGT
Cách tính thuế đầu vào được khấu trừ trong trường hợp kinh doanh hàng hoá
chịu thuế GTGT còn nhiều phức tạp (Điều 12 Luật thuế GTGT 2008, Điều 9 Nghị
định 123/2008 và các văn hản hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT). Những qui định
về khấu trừ khống và xét giảm thuế GTGT còn thiếu chặt chẽ, rườm rà, mang tính
chắp vá.
2.7. Về hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn
Ở nước ta thực hiện thuế GTGT đã đáp ứng hai phương pháp tính thuế cả hai
loại hoá đơn, áp dụng phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối với các doanh
nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp thêm GTGT
cả sử dụng hoá đơn thông thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng
thời hai cách tính thuế GTGT và hai loại hoá đơn trong điều kiện nền kinh tế nước ta
hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây trở ngại cho các
doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp
khấu trừ thuế không được khấu trừ đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của các đơn vị
tính thuế theo phương pháp trực tiếp, gây mất công bằng trong các thành phần kinh
tế, hoặc nảy ra tình trạng chống thuế. Ngoài ra, những bất cập trong kế toán thuế
GTGT, trong chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường...
cũng gây nhiều khó khăn cho công tác thu của ngành thuế và cho các hộ kinh doanh
nhỏ.
2.8. Xử lý thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
7
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
Việc áp mã thuế thiếu chính xác, thời gian nộp thuế quá ngắn. chẳng hạn “Xe
tải tự đổ có trọng tải từ 24 tấn đến 45 tấn nhập khẩu đang là “nạn nhân” của việc áp
thuế không thống nhất”.
Vấn đề hoàn thuế còn chậm và phức tạp trong kiểm tra hoá đơn. Do vậy nhiều
doanh nghiệp phải chịu thêm lãi suất ngân hàng từ số tiền vay nộp thuế trước nhưng
chậm được trả lại. Song mặt khác, chính nhiều doanh nghiệp cũng chưa nghiêm túc
kê khai và hoàn thành các thủ tục cần thiết, dẫn đến tình trạng châm trễ trong việc
hoàn thuế.
2.9. Chưa nhất quán trong thực hiện nguyên tắc
Do phải xử lý những bất cập, chưa phù hợp với thực tế, để đảm bảo cho sản
xuất kinh doanh bình thường, Chính phủ, Bộ tài chính đã phải giảm 50% thuế GTGT
cho một số mặt hàng, mở rộng thêm một số đối tượng không chịu thuế GTGT… Tất
cả những xử lý theo hướng "vướng đâu gỡ đấy" đã làm cho biểu thuế suất biến
dạng ,trên thực tế gây nên sự bất hợp lý mới cho sự cạnh tranh bình đẳng của doanh
nghiệp.
Tạo ra hai sân chơi khác nhau trong nền kinh tế. Hiện nay thuế GTGT được
tính theo hai phương pháp là phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ.
Khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ cung ứng hàng hoá, dịch
vụ cho các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp thi những đơn vị này không
được khấu trừ, trong khi trong giá trị hàng hoá đã có phần thuế GTGT nên đã làm cho
thuế đánh chồng chéo lên thuế. Ngược lại, khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp
trực tiếp có quan hệ giao dịch cung ứng dịch vụ, hàng hoá cho các đơn vị thực hiện
thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT, thực chất đơn vị nhận phải trả phần thuế
GTGT chìm trong giá bán mà đơn vị trực tiếp đã nộp. Từ cách thực hiện như trên ta
thấy hiện đang tồn tại hai sân chơi khác nhau mà mỗi sân chơi chỉ chơi theo một
hình, chính vì vậy đang hình thành hai xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo
phương pháp khấu trừ chuyển sang nộp theo phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ
thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và dĩ nhiên là ngành thuế khó lòng giải
quyết ngay đưọc. Hơn nữa, trong thực tế thu thuế tính thưo phương pháp trực tiếp rất
khó chính xác, nên vẫn chủ yếu tính theo phương pháp khoán (đối với hộ nhỏ) như
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
8
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
thuế doanh thu trước đay, chính điều này đã gây không ít lúng túng, khó khăn cho
thưong nghiệp quốc doanh một khi họ phải cạnh tranh trực tiếp với các hộ buon ban
tính thuế theo phương pháp trực tiếp.
2.10. Quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ còn chưa tốt
Thời gian qua, việc quản lý in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn đã phát
huy hiệu quả tích cực, góp phần phục vụ cho công tác quản lý thu thuế. Hóa đơn đã
đóng vai trò quan trọng và trở thành chứng từ gốc để xác định việc chuyển nhượng
hàng hoá, dịch vụ giữa các thể nhân, pháp nhân, làm cơ sở cho việc hạch toán, kế
toán, xác định nghĩa vụ về thuế của doanh nghiệp và thanh quyết toán của các đơn vị
sử dụng ngân sách nhà nước. Năm 2008 có gần 330.000 đơn vị sử dụng hoá đơn, tăng
1,77 lần so với năm 2003, với tổng số lượng hoá đơn sử dụng là 945,3 triệu số hoá
đơn.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây việc sử dụng hoá đơn phát sinh nhiều vấn
đề bất cập, như có hoá đơn trên thực tế không bảo đảm tính hợp pháp của chứng từ
theo pháp luật về kế toán; chưa có quy định về hoá đơn điện tử đối với các hoạt động
giao dịch theo Luật Giao dịch điện tử, quy định về hoá đơn đối với hàng xuất khẩu
chưa phù hợp với thực tế. Việc in, phát hành, bán hoá đơn của các của các cơ quan
thuế chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, vẫn thiếu về chủng loại,
khó mua được đủ số lượng.
III. Các biện pháp xử lý yếu tố gây vướng mắc trong thực thi pháp luật
thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam
- Về phương pháp tính thuế giá trị gia tăng:
Qua thực hiện thuế GTGT cho thấy, sử dụng hai phương pháp tính thuế là
phương pháp khấu trừ và phương pháp tính trực tiếp gây ra nhiều bất cập trong việc
khấu trừ thuế đầu vào, không mang lại hiệu quả cho thu NSNN. Vì vậy chỉ nên áp
dụng một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Các hộ kinh doanh
nếu không đủ điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế này thì áp dụng phương pháp
kê khai trực tiếp hoặc khoán thuế. Nếu hộ kinh doanh quá nhỏ thì miễn thuế.
- Về thuế suất giá trị gia tăng:
Đề nghị chỉ sử dụng hai mức thuế suất: 0% cho hàng hoá xuất khẩu và 10%
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
9
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
cho mọi loại hàng hoá bán nội địa. Thuế suất thống nhất sẽ góp phần bịt được những
kẽ hở do chênh lệch thuế suất gây ra. Để giảm số lượng thuế suất còn 2 mức, thì phải
bảo đảm các yêu cầu sau:
- Xác định mức thuế suất phải bảo đảm không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn
thu của Ngân sách Nhà nước, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho Ngân sách
Nhà nước.
- Mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước.
- Mức thuế suất phải bảo đảm công bằng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh
nghiệp, đảm bảo ổn định thị trường trong nước, không có biến động lớn về giá cả và
không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
- Về quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ:
Bộ tài chính nên nghiên cứu lại giấy in hoá đơn, chứng từ và ký hiệu, mã hiệu
của từng loại hoá đơn, chứng từ để chống in giả, nối mạng về quản lý và sử dụng hoá
đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong toàn quốc. Mặt khác, Bộ tài chính
cần phải phối hợp với các cơ quan pháp luật để kiểm tra, phát hiện và xử lý, nghiêm
các trường hợp vi phạm về chế độ quản lý ,sử dụng hoá đơn, yêu cầu các doanh
nghiệp phải tự kiểm tra nội bộ, mua bán hàng hoá, dịch vụ phải ghi rõ tên, địa chỉ, mã
số thuế của người bán. Đồng thời mở rộng khuyến khích các doanh nghiệp tự in hoá
đơn GTGT theo mẫu qui định của Bộ tài chính.
- Về khấu trừ thuế:
Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại phát sinh những vướng mắc như: Có nhiều
tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến
khích sử dụng hoá đơn chứng từ. Do đó, giải pháp cho vấn đề này là: Cho phép khấu
trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ bị
huỷ bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc trường hợp giảm giá, các
khoản thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng từ hợp lệ.
- Vấn đề hoàn thuế GTGT:
Vấn đề hoàn thuế còn nhiều bất cập về thủ tục cũng như thời gian hoàn thuế.
Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin được hoàn thuế cà
tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
10
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
- Việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý:
Chính phủ và Bộ, Ngành liên quan đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi
hành luật thuế, phần lớn các văn bản ban hành sau khi điều chỉnh bổ xung hoặc sửa
đổi một số nội dung của văn bản trước. Việc làm này gây nhiều khó khăn, phức tạp
trong điều hành tổ chức và quản lý thu thuế, chưa nói đến giữa các văn bản lại phát
sinh mâu thuẫn, không nhất quán. Do đó khi cải cách thuế chỉ nên có một Luật thuế,
một Nghị định Chính phủ, một đến hai văn bản hướng dẫn của Bộ tài chính. Phải tôn
trọng tính ổn định tương đối của hệ thống thuế, tránh sự thay đổi quá nhanh và nhiều
làm cho các nhà quản lý thuế và người nộp thuế rơi vào tình trạng lúng túng trong thi
hành, gây nên sự hoài nghi của các nhà đầu tư, làm phương hại đến lợi ích của người
nộp thuế, tăng trưởng kinh tế và lợi ích của quốc gia.
- Hình thành và phát triển nhóm tư vấn thuế:
Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các đối tượng
chịu thuế, nộp thuế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều
nước trên thế giới coi dịch vụ tư vấn thuế là một nghề, đây là dịch vụ cung cấp các
thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Vì vậy nên sớm
hình thành nhóm tư vấn thuế trong cơ cấu tổ chức bộ máy nghành thuế. Bộ phận này
có tính độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý thu thuế.
- Cải cách hành chính thuế:
Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hoá thủ
tục, các văn bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm
tra. Để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính thuế, Bộ tài chính và ngành thuế nên
chú ý những vấn đề sau: Rà soát lại toàn bộ những văn bản hướng dẫn thi hành luật
thuế, nghiên cứu, xem xét làm rõ cách giải thích, từ ngữ và nội dung, tính thống nhất
và kế thừa của các văn bản. Mẫu kê khai thuế, nộp thuế cần thống nhất với chế độ kế
toán, thống kê, đơn giản hoá các mẫu biểu qui định trong thu, nộp, hoàn thuế.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế:
Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới, đối tượng nộp thuế tự tính thuế,
kê khai và nộp thuế nên công tác tuyên truyền hướng dẫn, giải thích thật cụ thể về nội
dung chính sách thuế, quy trình quản lý thuế, cách ghi chép hoá đơn chứng từ, cách
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
11
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
kê khai thuế, công khai quy trình miễn thuế, hoàn thuế, giảm thuế tới từng cơ sở tính,
nộp thuế. Phối hợp ngành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức đoàn
thể, xã hội trong tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế. Những thông tư cơ bản
phải được chuyển đến mọi đối tượng nộp thuế theo mức giá chỉ bao gồm chi phí in và
lưu thông. Tránh tình trạng kinh doanh văn bản Nhà nước.
C. KẾT LUẬN
Việc đưa thuế GTGT vào áp dụng tại Việt Nam là định hướng đúng đắn của
Đảng và nhà nước và sau nhiều năm thực hiện, thuế GTGT đã đi vào thực tiễn cuộc
sống và mang lại một nguồn thu rất lớn cho ngân sách. Tuy nhiên, khi đưa vào áp
dụng tại Việt Nam, luật thuế GTGT vẫn không tránh khỏi những vướng mắc trong
quá trình thực hiện. Việc xác định đúng vai trò của những yếu tố ảnh hưởng đến việc
thực thi pháp luật thuế GTGT của mỗi quốc gia hiện nay rất quan trọng. Đồng thời,
nghiên cứu những yếu tố này để kiến nghị, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp là một yêu
cầu bức thiết.
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
12
Phạm Việt Nghĩa_340756
Bài tập lớn học kỳ
Môn Luật Tài Chính Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam , Nxb. Công
an, Hà Nội, 2008.
2. Luật thuế GTGT năm 2008.
3.
Trần Minh Hiền, Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam và phương hướng hoàn
thiện, Luận văn thạc sĩ, 2006.
4. Nguồn tham khảo từ Internet.
LỚP NO1_TL4_NHÓM 2
13
Phạm Việt Nghĩa_340756