Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi thuế GTGT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.86 KB, 16 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu của mỗi quốc gia. Để thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế của đất nước,Việt Nam chúng ta cần phải có môi trường đầu tư thuận
lợi và cơ chế chính sách sao cho phù hợp, rõ ràng và ổn định. Đối với Việt Nam, thuế giá
trị gia tăng từ khi được áp dụng đã thể hiện nhiều ưu điểm và phát huy được những lợi
thế của nó. Tuy nhiên, với một nền kinh tế đang trong giai đoạn quá độ - kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa - việc áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật về
thuế giá trị gia tăng nói riêng còn không ít những vấn đề cần quan tâm. Xem xét các yếu
tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng để tìm ra những nguyên
nhân của nó và đưa ra hướng hoàn thiện là một vấn đề cấp thiết vì loại thuế này có mức
độ ảnh hưởng rộng đối với người nộp thuế cũng như đối tượng chịu thuế, và là một trong
những nguồn thu cơ bản của ngân sách nhà nước. Nâng cao được hiệu lực thực thi pháp
luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam sẽ giúp cho nhà sản xuất, người tiêu dùng và các chủ
thể quản lý nhận thức rõ vai trò và vị trí của thuế, tự nguyện thực hiện và đảm bảo thực
hiện đúng đắn pháp luật về loại thuế này.
Qua bài tiểu luận ngắn này em xin tìm hiểu về đề tài: “ Phân tích những yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay và đề xuất ý kiến
pháp lý nhằm thực thi thuế GTGT”
I. Một số vấn đề cơ bản về pháp luật thuế giá trị gia tăng
1. Thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng (GTGT) là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận
thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hòa, nhận dịch vụ. Điều 2 Luật
thuế GTGT 2008 quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của
hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Như
vậy, bản chất của thuế GTGT là loại thuế gián thu. Nghĩa là, các nhà sản xuất, kinh doanh

Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

1



và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu
thuế thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ.
Thuế GTGT có nhiều điểm tương đồng với các loại thuế đánh vào hàng hóa, dịch
vụ khác (như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu), nhưng có thể
nhận diện được thuế GTGT qua đặc điểm: Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế
rất rộng. Tức là mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải
trả một phần thu nhập cho hành vi tiêu dùng. Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá
trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Do đó, khi đánh thuế GTGT vào hàng hóa, dịch vụ
đó không gây ra những đột biến giá cả cho người tiêu dùng. Thứ ba, dựa trên giá mua
cuối cùng của hàng hóa, dịch vụ số thuế giá trị tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc
vào các giai đoạn lưu thông khác nhau.
2. Pháp luật thuế giá trị gia tăng
Pháp luật thuế GTGT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp thuế, quản lý và quyết
toán thuế GTGT.
Theo đó, pháp luật thuế GTGT có 2 đặc điểm cơ bản: Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT
có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả các đối tượng trong xã hội (mọi đối tượng có
thu nhập, sử dụng một phần thu nhập phục vụ đời sống). Thứ hai, chỉ có thể được ban
hành khi các điều kiện áp dụng đạt đến mức độ nhất định. Những điều kiện ở đây chủ yếu
là tiêu chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý của chính các cơ
quan tham gia quản lý thu thuế GTGT.
II. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện
nay
Với diện đánh thuế rộng khắp và thu ở từng giai đoạn sản xuất kinh doanh nên từ khi
được áp dụng đến nay thuế GTGT đã đóng góp một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà
nước. Khi bắt đầu đưa thuế GTGT áp dụng thay thế cho thuế doanh thu nhiều người lo
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

2



ngại sẽ làm giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Nhưng thuế GTGT mang lại tính
khoa học rất cao, có khả năng tạo được công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy xuất
khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất, bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Khi
bàn về nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đã gặp phải khi áp dụng thuế GTGT thì
người ta thường đề cập tới hai nhóm nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Nói về yếu tố khách quan thì nguyên nhân lớn nhất là điều kiện, hoàn cảnh áp dụng
thuế GTGT, khi mà chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường chưa lâu, các thành phần
cũng như hoạt động kinh tế chưa phát triển một cách đồng đều…Trong những năm gần
đây, khi nền kinh tế phát triển nhanh chóng thì sự xuất hiện của của các đối tượng kinh tế
mới cũng chưa được kịp thời đưa vào sự quản lý của luật thuế GTGT.
Còn về yếu tố chủ quan thì tư tưởng, cơ chế chính sách cũng đã hạn chế nhiều thành
công của Luật thuế GTGT. Khi mới bắt đầu triển khai sắc thuế này, quan điểm nóng vội
muốn chuyển ngay từ thuế doanh thu sang thuế GTGT trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm
của các nước đã áp dụng thành công mà không quan tâm đến giải pháp xử lý cần thiết
mang tính quá độ cho giai đoạn chuyển tiếp: như không quan tâm đến vấn đề hàng tồn
kho, tài sản cố định lớn trước ngày 31/12/1998. Điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp
rất lo lắng và họ đã tìm mọi cách để trốn thuế.
Tìm hiểu chi tiết về những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở
Việt Nam hiện nay sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về vấn đề này.
1. Những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT
- Thuế GTGT là một sắc thuế mới tiến bộ và có tính khoa học rất cao, việc áp dụng
vào thực tế Việt Nam là hoàn toàn hợp lý, với yêu cầu của phát triển và hội nhập. Chính
phủ, Ban chỉ đạo triển khai các luật thuế mới của Chính phủ, các Bộ, các Ngành, các địa
phương đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị, Quốc hội, của
UBTVQH để tổ chức triển khai thực hiện luật thuế GTGT. Trong quá trình triển khai Ban
chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã bám sát cơ sở sản xuất kinh doanh,
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

3



phát hiện những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới, nghiên
cứu, đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như: bổ xung
vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT tại Điều 5 Luật thuế
GTGT năm 2008 v.v.. Mở rộng việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Điều 12 ) v.v..Các
ban chỉ đạo đã quản lý tốt thị trường, giá cả, đặc biệt là trong thời gian đầu áp dụng pháp
luật thuế GTGT mới.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến luật về thuế, tập huấn nghiệp vụ có nhiều tiến bộ
hơn so với các đợt triển khai các luật thuế trước đây. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương
và các địa phương đã phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, các đài báo Trung ương
và địa phương đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, để đẩy mạnh tuyên truyền giải
thích các luật thuế mới, phản ánh kịp thời những gương điển hình thực hiện tốt các luật
thuế mới cũng như những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế mới.
- Các đối tượng trong nền kinh tế đã dần có những hiểu biết đầy đủ hơn về các sắc
thuế mới, đặc biệt là thuế GTGT. Các cơ sở kinh doanh và mọi tầp lớp nhân dân đều
hưởng ứng và đồng tình thực hiện pháp luật thuế GTGT do nhận thức được các luật sư
tiến bộ và ưu việt hơn pháp luật thuế GTGT.
- Sự phấn đấu nỗ lực của ngành Thuế quan và ngành Hải Quan từ việc chuẩn bị triển
khai đến việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế GTGT. Đặc biệt, Luật thuế GTGT đã bước
đầu tác động đến công tác quản lý của doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán kế
toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hóa có hóa đơn chứng từ ở các doanh nghiệp. Do đó
yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập
doanh nghiệp nên những người làm công tác quản lý kinh doanh đã bắt đâu chú ý đến
công tác mở sổ sách kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng các hóa đơn chứng từ. Từ đó
đã giúp cho cơ quan chức năng của nhà nước và cơ quan chức năng của nhà nước và cơ
quan thuế từng nắm bắt được sát hơn tình hình sản xuất kinh doanh cũng như tăng cường
việc kiểm tra giám sát đối với doanh nghiệp.
2. Một số yếu tố gây vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thuế GTGT
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759


4


2.1. Thuế suất thuế GTGT khá cao.
Việc áp dụng 2 thuế suất: 5% và 10 %, trong đó đã thu hẹp dần nhóm thuế suất 5%
nhưng vẫn chưa hợp lý đối với một số hàng hoá, dịch vụ và chưa được thể hiện thống
nhất mức thuế suất, gây thiếu bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế. Bên cạnh đó một số
tiêu chí xác định để phân biệt sự khác biệt về thuế suất chưa rõ ràng đặc biệt là các tiêu
thức hàng nông sản thực phẩm, thủy hải sản qua sơ chế hay chế biến; con giống, cây
giống, trứng giống hay thực phẩm; thiết bị chuyên dùng trong một số ngành nghề với
trang thiết bị nói chung...gây khó khăn trong thực thi.
Mức thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các hàng hóa, dịch vụ thông thường cho tiêu
dùng là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều khó khăn.Mức
thuế suất 10% được quy định tại khoản 3 Điều 8 Luật thuế GTGT năm 2008. Mặc dù
theo lý luận, thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng nếu thuế suất cao, giá thanh toán của hàng
hoá, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó chấp nhận, tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, các doanh
nghiệp muốn bán được hàng buộc phải hạ giá bán và bị thua lỗ. Để tránh bị thua lỗ, các
doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất.
2.2. Thuế GTGT làm đảo lộn mức thuế phải nộp.
Thuế GTGT được thiết kế với mức thu tương đương thuế doanh thu với mục tiêu ổn
định quan hệ phân phối giữa Nhà nước với nền kinh tế xét trên tổng thể, nhưng thực tế có
làm đảo lộn mức thuế phải nộp của các ngành khác nhau. Có ngành thuế phải nộp tăng
gấp bội so với thuế doanh thu, có ngành lại thấp hơn nhiều. Tương quan phân phối giữa
các ngành bị đảo lộn vướng mắc phát sinh không chỉ liên quan đến lỗ lãi mà còn liên
quan đến vấn đề mới.
2.3. Thuế GTGT gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp về vốn
Quy định phải nộp thuế GTGT đối với những mặt hàng nhập kho nhưng chưa bán làm
cho một số doanh nghiệp khó khăn trong vấn đề vốn. Đặc biệt với những doanh nghiệp

Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

5


với số vốn ít thì quy định này làm cho họ thật sự điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp hoạt
động chủ yếu bằng vốn vay này khi áp dụng luật thuế GTGT phải vay thêm vốn để nộp
cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại càng nặng thêm cho dù sau
này sẽ được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại lý
khi chuyển hàng cho đại lý phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó chỉ khi nào đại lý bán
được hàng mới thu được thuế GTGT từ người mua. Như vậy vốn của doanh nghiệp bị
chiếm dụng một cách bất hợp lý.
2.4. Tốc độ hoàn thuế cho doanh nghiệp còn chậm
Quá trình thủ tục xin hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của các
doanh nghiệp. Để được hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hoá đơn,
chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra, đối chiếu hoá
đơn thực hiện bằng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm chậm việc hoàn
thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây thêm khó khăn cho doanh
nghiệp. Như cơ sở xuất khẩu nhưng có số thuế đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh
trong tháng chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế
theo tháng, điều này sẽ làm cho vốn của các doanh nghiệp bị lưu lại khá lâu gây ảnh
hưởng đến quá trình kinh doanh tiếp theo của họ.
2.5. Tình trạng gian lận thuế GTGT
Có thể kể đến một số nguyên nhân gây nên tình trạng gian lận về thuế GTGT:
- Tính mới của thuế GTGT: Tính mới của thuế GTGT thể hiện ở những điểm: Cơ sở
tính thuế là GTGT chứ không phải doanh thu hay lợi nhuận; Quy trình thu và quản lý
thuế mang tính công nghệ; Diện chịu thuế với thuế suất 0% khác cơ bản diện không chịu
thuế; Khấu trừ thuế khác nhau giữa các mặt hàng chịu thuế GTGT và mặt hàng không
chịu thuế GTGT; Hoá đơn GTGT và hoá đơn thường; ...Khái niệm thuế GTGT đầu vào,
thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0 đồng còn quá mới mẻ đối với

người kinh doanh. Những điểm nói trên không chỉ mới đối với người nộp mà đối với cả
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

6


cơ quan thu thuế. Tất nhiên, cái gì mới thoạt đầu sẽ được hiểu một cách lệch lạc, thậm chí
bị một số cá nhân xấu lợi dụng để tư lợi.
- Cơ sở kế toán quốc dân chưa hình thành hoặc chưa được chuẩn bị: Các cơ sở kinh
doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân
mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn, họ cho rằng sổ
sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng
sổ sách, tài khoản, chứng từ,... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động
kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả kinh doanh
cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt.
Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ
yếu là đô la Mỹ). Điều này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán
khống; đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời.
- Sự lúng túng của những cơ quan chức năng: Thể hiện rõ nét nhất là quá nhiều văn
bản được ban hành. Chỉ trong một thời gian ngắn, năm 1999, Chính phủ và Bộ Tài chính
cho ra đời hàng trăm văn bản liên quan đến thuế GTGT. Điều này gây ra vấn đề “mâu
thuẫn nhau” trong điều hành và thực hiện. Tiếp đến, cơ chế “xin – cho” xuất hiện: xin
được hưởng thuế suất thấp hơn, xin được nộp thuế 0%, xin mở rộng diện khấu trừ theo tỷ
lệ tính trên giá mua không có hoá đơn GTGT, v.v.... Ngoài ra, việc áp dụng đồng thời hai
phương pháp tính cho hai loại đối tượng nộp thuế gây nhiều tốn kém và cản trở sự vận
hành của thuế GTGT trên phạm vi toàn nền kinh tế - xã hội.
- Yếu kém trong dự báo và thiếu đánh giá tác động của chính sách: Vì vậy làm nảy
sinh hiện tượng lập chứng từ không trung thực để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT và
gây ra những hậu quả nặng nề: Chính phủ mất tiền, dân chúng mất niềm tin chính sách
thuế mới, và doanh nghiệp lương thiện nghi ngờ cách thức và năng lực điều hành nền

kinh tế của Chính phủ.
- Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt: Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hoá đơn không
trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng.
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

7


- Sự thoái hoá của một số cán bộ thuế: Để thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế
phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng chỉ cần 2-3 cán bộ thuế
thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho
hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
- Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ: thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy
kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điển tử, v.v..
- Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua
hàng lấy hoá đơn chưa hình thành.
2.6. Về việc khấu trừ thuế GTGT và xét giảm thuế GTGT
Cách tính thuế đầu vào được khấu trừ trong trường hợp kinh doanh hàng hoá chịu thuế
GTGT còn nhiều phức tạp (Điều 12 Luật thuế GTGT 2008, Điều 9 Nghị định 123/2008
và các văn hản hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT). Những qui định về khấu trừ khống
và xét giảm thuế GTGT còn thiếu chặt chẽ, rườm rà, mang tính chắp vá. Bản chất của
thuế GTGT là đánh thuế vào phần gí trị tăng thêm của hàng hóa qua từng công đoạn sản
xuất. Muốn thể hiện đúng bản chất đó, thuế GTGT thì phải đáp ứng các điều kiện hàng
hóa mua vào là hàng hóa chịu thuế GTGT và có hóa đơn GTGT, chỉ khấu trừ những hàng
hóa mua vào sử dụng cho hoạt động kinh doanh hình thành nên các hàng hóa dịch vụ
chịu thuế GTGT. Với mục đích bảo hộ một số nhà sản xuất, Nhà nước quy định số thuế
GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỉ lệ 3% và 2%. Việc quy định tỉ lệ khấu trừ này
không đúng với bản chất của thuế GTGT và trên thực tế lại dẫn đến các tiêu cưc mặc dù
đã có sự sửa đổi theo tỷ lệ chung là 1%.
2.7. Về hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn

Việc áp dụng đồng thời hai cách tính thuế GTGT và hai loại hoá đơn trong điều kiện
nền kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây
trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo
phương pháp khấu trừ thuế không được khấu trừ đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

8


các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp, gây mất công bằng trong các thành phần
kinh tế, hoặc nảy ra tình trạng chống thuế. Ngoài ra, những bất cập trong kế toán thuế
GTGT, trong chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường... cũng
gây nhiều khó khăn cho công tác thu của ngành thuế và cho các hộ kinh doanh nhỏ.
Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn. Các hóa đơn
đều có tính pháp lý như nhau do Luật thuế quy định. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây là
việc khấu trừ thuế lại khác nhau, chỉ có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn đặc thù tại các đơn
vị nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mới được khấu trừ thuế theo quy định. Chính phủ
đã ban hành rất nhiều quy định về hóa đơn chứng từ như Nghị định số 89/2002/NĐ-CP
quy định về việc in, phát hành, quản lý hóa đơn,… nhưng vẫn nảy sinh hiện tượng lợi
dụng trong mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để khai man thuế GTGT đầu vào để
khấu trừ hoặc gian lận trong hoàn thuế.
2.8. Xử lý thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu
Việc áp mã thuế thiếu chính xác, thời gian nộp thuế quá ngắn. chẳng hạn “ Xe tải tự
đổ có trọng tải từ 24 tấn đến 45 tấn nhập khẩu đang là “nạn nhân” của việc áp thuế
không thống nhất ”. Vấn đề hoàn thuế còn chậm và phức tạp trong kiểm tra hoá đơn. Do
vậy nhiều doanh nghiệp phải chịu thêm lãi suất ngân hàng từ số tiền vay nộp thuế trước
nhưng chậm được trả lại. Song mặt khác, chính nhiều doanh nghiệp cũng chưa nghiêm
túc kê khai và hoàn thành các thủ tục cần thiết, dẫn đến tình trạng châm trễ trong việc
hoàn thuế.
2.9. Chưa nhất quán trong thực hiện nguyên tắc

Do phải xử lý những bất cập, chưa phù hợp với thực tế, để đảm bảo cho sản xuất kinh
doanh bình thường, Chính phủ, Bộ tài chính đã phải giảm 50% thuế GTGT cho một số
mặt hàng, mở rộng thêm một số đối tượng không chịu thuế GTGT...Tất cả những xử lý
theo hướng "vướng đâu gỡ đấy" đã làm cho biểu thuế suất biến dạng , trên thực tế gây
nên sự bất hợp lý mới cho sự cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp.
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

9


Tạo ra hai sân chơi khác nhau trong nền kinh tế, chính vì vậy đang hình thành hai xu
hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ chuyển sang nộp theo
phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và dĩ
nhiên là ngành thuế khó lòng giải quyết ngay được. Hơn nữa, trong thực tế thu thuế tính
thuế phương pháp trực tiếp rất khó chính xác, nên vẫn chủ yếu tính theo phương pháp
khoán (đối với hộ nhỏ) như thuế doanh thu trước đây, chính điều này đã gây không ít
lúng túng, khó khăn cho thương nghiệp quốc doanh một khi họ phải cạnh tranh trực tiếp
với các hộ buôn bán tính thuế theo phương pháp trực tiếp.
2.10. Quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ còn chưa tốt
Do đặc điểm của luật thuế GTGT là tăng cường hạch toán kinh tế và thực hiện chặt
chẽ nguyên tắc dựa vào hóa đơn mua hàng để khấu trừ số thuế GTGT đã nộp ở khâu
trước, tuy nhiên nền kinh tế của nước ta hiện nay việc mua bán được thanh toán chủ yếu
bằng tiền mặt, một số lượng lớn các giao dịch không cần tới hóa đơn nên những khó khăn
khi áp dụng thuế GTGT là điều khó tránh khỏi.
Những năm gần đây việc sử dụng hoá đơn phát sinh nhiều vấn đề bất cập, như có hoá
đơn trên thực tế không bảo đảm tính hợp pháp của chứng từ theo pháp luật về kế toán;
chưa có quy định về hoá đơn điện tử đối với các hoạt động giao dịch theo Luật Giao dịch
điện tử, quy định về hoá đơn đối với hàng xuất khẩu chưa phù hợp với thực tế. Việc in,
phát hành, bán hoá đơn của các của các cơ quan thuế chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế
của doanh nghiệp, vẫn thiếu về chủng loại, khó mua được đủ số lượng.

2.11 Thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế
Quản lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý. Bộ máy tổ chức
ngành thuế cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta được tổ
chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa
theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức
năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu vào
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

10


một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế
phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ
của một số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.
III. Một số đề xuất ý kiến pháp lý nhằm hoàn thiện việc thực thi pháp luật thuế
GTGT ở Việt Nam
1. Về phương pháp tính thuế GTGT
Để hạn chế bớt những bất cập không hợp lý trong phương pháp tính thuế như hiện nay
thì chúng ta nên thực hiện phương pháp tính thuế thống nhất là khấu trừ, còn đối với các
trường hợp không đủ khả năng hạch toán độc lập có thể nghiên cứu đến việc thu thuế
khoán ( Đây là biện pháp thu thuế dựa trên cơ sở các yếu tố khách quan do người sản
xuất kinh doanh cung cấp và trên cơ sở các biện pháp kiểm tra của cán bộ thuế, cơ quan
thuế ấn định một mức doanh thu cụ thể và trong một thời gian nhất định, trong khoảng
thời gian đó, số thuế mà cơ sở phải nộp được tính dựa trên doanh thu ấn định này ) hoặc
chuyển các đối tượng này sang áp dụng hình thức thu thuế đơn giản theo tỷ lệ % doanh
thu, cụ thể là gộp cả thuế gián thu và thuế trực thu thành một tỷ lệ trên doanh thu…Với
thực tế hiện nay các hộ kinh doanh cá thể còn chiếm một tỷ lệ rất lớn trong các thành
phần kinh tế, thì việc chuyển đổi phương pháp tính thuế cho nhóm đối tượng này phải
được tiến hành đồng bộ với các biện pháp khác để tránh thất thu thuế cho ngân sách nhà
nước.

2. Về thuế suất GTGT
Đề nghị chỉ sử dụng hai mức thuế suất: 0% cho hàng hoá xuất khẩu và 10% cho mọi
loại hàng hoá bán nội địa. Thuế suất thống nhất sẽ góp phần bịt được những kẽ hở do
chênh lệch thuế suất gây ra. Để giảm số lượng thuế suất còn 2 mức, thì phải bảo đảm các
yêu cầu sau: Một là, Xác định mức thuế suất phải bảo đảm không làm ảnh hưởng lớn đến
nguồn thu của Ngân sách Nhà nước, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho Ngân
sách Nhà nước. Hai là, Mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước, do phải
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

11


giảm thuế nhập khẩu vào năm 2006 theo hiệp định AFTA. Ba là, mức thuế suất phải bảo
đảm công bằng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp, đảm bảo ổn định thị trường
trong nước, không có biến động lớn về giá cả và không ảnh hưởng đến đời sống nhân
dân.
3. Về quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ
Trong thực tế, các quy định của luật còn có kẽ hở để cho các đối tượng lợi dụng
chiếm đoạt tiền của nhà nước, bởi vậy trong thời gian tới vẫn cần bãi bỏ hoặc sửa đổi một
số quy định về quản lý, sử dụng hóa đơn không hợp lý hoặc có sơ hở như là: bãi bỏ quy
định về lập hóa đơn theo số hàng hóa trên bảng kê bán lẻ. Dùng bảng kê 06/GTGT làm
căn cứ tính thuế, có quy định quản lý đối với chứng từ này. Bổ sung quy định, tổ chức, cá
nhân kinh doanh sử dụng hóa đơn bán hàng như các trường hợp nộp thuế theo phương
pháp khấu trừ. Trước hết nên duy trì việc sử dụng hóa đơn đối với các hộ kinh doanh tính
thuế theo phương pháp trực tiếp đã thực hiện lập sổ sách kế toán theo quy định. Thứ hai
là cần ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn về việc thực hiện chế độ hóa đơn chứng
từ một cách kịp thời khi có những thay đổi mới. Thứ ba là thay đổi biện pháp quản lý
bằng hóa đơn, chứng từ, mở rộng diện đối với doanh nghiệp tự in hóa đơn, sẽ tránh được
việc in và sử dụng hóa đơn giả như hiện nay. Thứ tư là nên giảm bớt khối luợng hóa đơn
chứng từ của các khâu từ thông báo thuế, kê khai, nộp thuế đến quyết toán thuế. Thứ năm

là đa dạng hóa các công cụ kiểm soát hoạt động giao dịch kinh doanh trên thị trường
thông qua việc mở rộng thanh toán bằng các loại thẻ tín dụng, thanh toán qua ngân
hàng…
4. Về khấu trừ thuế
Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại phát sinh những vướng mắc như: Có nhiều tỷ lệ
khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến khích sử
dụng hoá đơn chứng từ. Đối với hàng hoá nông, lâm, hải sản không cần hoá đơn, chỉ cần
bản kê dẫn tới có trường hợp cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh buôn chuyến,
người thu gom trốn thuế, các doanh nghiệp không lấy hoá đơn bán hàng, tạo kẽ hở để cơ
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

12


sở kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế. Các doanh nghiệp mua nông, lâm,
hải sản sau đó sơ chế bán hàng trong nước thì được khấu trừ thuế nhưng nếu xuất khẩu
lại không được trừ thuế đầu vào. Do đó, giải pháp cho vấn đề này là: Cho phép khấu trừ
hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ bị huỷ bỏ,
sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc trường hợp giảm giá, các khoản thu
không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng từ hợp lệ.
5. Vấn đề hoàn thuế GTGT
Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên tiến độ
hoàn thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp
đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình hình trên một
phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan thuế chưa quen, văn
bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Trước tình hình đó, Bộ tài chính đã có các văn bản bổ
xung là hoàn thuế trước kiểm tra sau và phải xử lý nghiêm những trường hợp vi pham.
Các văn bản này đề cao trách nhiệm và quyền lợi của các doanh nghiệp, của người nộp
thuế trong việc hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên vấn đề hoàn thuế vẫn còn nhiều bấp cập về
thủ tục cũng như thời gian hoàn thuế. Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước

những hồ sơ xin được hoàn thuế cần tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.
6. Việc ban hành hệ thống văn bản pháp lý
Chính phủ và Bộ, Ngành liên quan đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật
thuế, phần lớn các văn bản ban hành sau khi điều chỉnh bổ sung hoặc sửa đổi một số nội
dung của văn bản trước. Do vậy, hàng trăm văn bản đều có hiệu lực thi hành. Việc làm
này gây nhiều khó khăn, phức tạp trong điều hành tổ chức và quản lý thu thuế, chưa nói
đến giữa các văn bản lại phát sinh mâu thuẫn, không nhất quán. Do đó khi cải cách thuế
chỉ nên có một Luật thuế, một Nghị định Chính phủ, một đến hai văn bản hướng dẫn của
Bộ tài chính.
7. Hình thành và phát triển nhóm tư vấn thuế
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

13


Hình thành nhóm tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết đối với các đối tượng chịu thuế,
nộp thuế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhiều nước trên thế giới
(Hiệp hội tư vấn thuế Châu Á – Châu Đại Dương (AOTCA). Hiệp hội này gồm 17 quốc
gia, vùng lãnh thổ như: Pakistan; Trung quốc, Hồng kông, Indonesia; Singapo, Australia;
SriLanka; Nhật bản, Hàn quốc, Malaisia, Mông cổ; Đài loan, Philippine, Ấn Độ, Thái
Lan, Bănglađet(1)) coi dịch vụ tư vấn thuế là một nghề, đây là dịch vụ cung cấp các
thông tin, kiến thức, kinh nghiệm và sự hiểu biết về lĩnh vực thuế. Vì vậy nên sớm hình
thành nhóm tư vấn thuế trong cơ cấu tổ chức bộ máy nghành thuế. Bộ phận này có tính
độc lập tương đối với bộ phận trực tiếp quản lý thu thuế. Đồng thời để khuyến khích các
doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thuế, đề nghị có qui định chấp nhận chi phí tư vấn
thuế là một loại chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế.
8.Cải cách hành chính thuế
Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hoá thủ tục, các
văn bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Để đẩy
mạnh công tác cải cách hành chính thuế, Bộ tài chính và ngành thuế nên chú ý những vấn

đề sau: Rà soát lại toàn bộ những văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, nghiên cứu, xem
xét làm rõ cách giải thích, từ ngữ và nội dung, tính thống nhất và kế thừa của các văn
bản. Mẫu kê khai thuế, nộp thuế cần thống nhất với chế độ kế toán, thống kê, đơn giản
hoá các mẫu biểu qui định trong thu, nộp, hoàn thuế.
9. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế
Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới, đối tượng nộp thuế tự tính thuế, kê khai
và nộp thuế nên công tác tuyên truyền hướng dẫn, giải thích thật cụ thể về nội dung chính
sách thuế, quy trình quản lý thuế, cách ghi chép hoá đơn chứng từ, cách kê khai thuế,
công khai quy trình miễn thuế, hoàn thuế, giảm thuế tới từng cơ sở tính, nộp thuế. Phối
hợp ngành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức đoàn thể, xã hội trong
tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế.
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

14


10. Đào tạo đội ngũ cán bộ thuế, cán bộ hải quan có đạo đức, trình độ nghiệp vụ.
Đội ngũ cán bộ thuế là nhân tố rất quan trọng trong ngành thuế, bởi vậy cần có sự sắp
xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý thu theo hướng tập trung vào các khâu công việc chính,
đào tạo lại và tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về quản lý thuế theo phương
pháp hiện đại, trình độ ứng dụng thành thạo công nghệ tin học…Đặc biệt đối với công tác
cán bộ phải xem trọng việc tuyển chọn đội ngũ làm công tác tổ chức nhân sự, bởi quyết
định của đội ngũ này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ thuế. Đó phải là những người
thực sự chí công, vô tư và có năng lực đánh giá nhân sự. Sự phát triển của hệ thống thuế
không thể tách rời quá trình hiện đại hóa, áp dụng công nghệ thông tin vào các quy trình
quản lý. Đầu tư hệ thống máy tính sẽ giúp cho tốc độ sử lý công việc của ngành thuế
nhanh hơn, chi phí quản lý cũng sẽ giảm đi rất nhiều.
KẾT LUẬN
Trong tất cả các sắc thuế gián thu, thuế giá trị gia tăng (GTGT) được xem là phương
pháp thu tiến bộ hiện nay, được đánh giá cao vì luật thuế GTGT đã đạt được cơ bản các

mục tiêu lớn của chính sách thuế hiện nay, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các đơn
vị kinh tế, bảo hộ hợp lý và khuyến khích sản xuất trong nước, đặc biệt đối với hàng hóa
xuất khẩu, tăng cường hạch toán trong các doanh nghiệp và góp phần làm cho hệ thống
pháp luật Việt Nam nói chung về hệ thống thuế nói riêng phù hợp với luật pháp và thông
lệ trên thế giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2011.
2) Luận văn, Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam- thực trạng và hướng
hoàn thiện. Hà Nội, 2006
3) Luật thuế GTGT năm 2008
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

15


4) Nghị định 123/2008 và các văn hản hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT
5) Website



Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV 351759

16



×