Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, thuế là một hiện tượng tất yếu, xuất hiện và tồn tại
cùng với các hiện tượng kinh tế - xã hội khác. Ở Việt Nam hiện nay, hệ thống
pháp luật về thuế đã ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn rất nhiều. Hiệu
quả thực thi pháp luật thuế chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Bởi vậy sau
đây em xin trình bày một số hiểu biết về những yếu tố ảnh hưởng đến việc
thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay và một số ý kiến
pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế giá trị gia tăng. Rất mong thầy cô sẽ
bổ sung thêm cho em những điểm còn thiếu sót để bài làm của em thêm hoàn
thiện.
NỘI DUNG
I. Khái quát về thuế giá trị gia tăng:
1. Khái niệm:
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận
thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa, nhận dịch vụ.
Điều 1, Luật thuế giá trị gia tăng quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế
thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá
trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.”
2. Bản chất:
Như khái niệm vừa nêu, Thuế GTGT là một yếu tố cấu thành nên giá bán
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Do đó mặc dù đối tượng nộp thuế là các nhà sản
xuất kinh doanh nhưng chính người tiêu dùng phải gánh chịu thuế GTGT
thông qua việc trả tiền hàng hóa, dịch vụ. Vậy xét về bản chất thuế GTGT là
loại thuế gián thu.
3. Đặc điểm:
Để nhận diện thuế giá trị gia tăng với các loại thuế khác như thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì có thể nhận diện thông qua các đặc
điểm sau đây:
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
- Thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng tồn tại
trong xã hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, người nghèo hay người có thu
nhập cao đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất
kinh doanh tạo ra cho nền kinh tế xã hội. Đặc điểm này thể hiện sự công bằng
của thuế đồng thời thể hiện thái độ của nhà nước đối với các loại tiêu dùng
trong xã hội.
- Thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ.
Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ
giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của
quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu
dùng
- Nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế giá trị
tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác
nhau. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu việt của thuế GTGT so với thuế doanh
thu mà Việt Nam áp dụng trước đây.
4. Vai trò:
Thuế GTGT góp phần khuyến khích chuyên môn hóa, hợp tác hóa để
nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, góp phần khuyến
khích mạnh mẽ việc sản xuất hàng xuất khẩu, vì hàng hóa xuất khẩu không
phải chịu thuế GTGT mà còn được hoàn trả toàn bộ số thuế GTGT đã thu ở
các khâu trước đó. Vì chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm, không tính vào vốn
nên thuế GTGT góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn ra để đầu
tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế
ở nước ta trong thời gian tới. Ngoài ra thuế GTGT còn hạn chế được tình
trạng thất thu.
II. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá
trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay :
1. Đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế:
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
Về đối tượng chịu thuế, Điều 3 Luật thuế GTGT 2008 quy định đối
tượng chịu thuế là hàng hóa dịch vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt
Nam là đối tượng chịu thuế GTGT, trừ các đối tượng quy định tại điều 5 của
Luật này. Tuy nhiên, thuế GTGT là thuế đánh vào hành vi tiêu dùng của
người tiêu dùng, khi người tiêu dùng thực hiện hành vi đó thì mới bị đánh
thuế. Dù có sự tồn tại của hàng hóa nhưng không có hành vi tiêu dùng thì
cũng không thể đánh thuế. Đồng thời cơ sở tính thuế là giá tính thuế, mà giá
tính thuế sẽ không thể xác định được khi không có quan hệ mua bán trao đổi
trên thực tế. Từ đó có thể thấy, về mặt bản chất, hàng hóa dịch vụ không phải
là đối tượng chịu thuế. Như vậy có thể thấy một điều bất hợp lý trong quy
định của pháp luật ở điểm này, dẫn đến những nhận thức sai lầm của người
thực thi và ảnh hưởng đến quá trình thực thi luật thuế GTGT.
Đối tượng không chịu thuế: là những hàng hóa, dịch vụ quy định tại
Điều 5, Luật thuế GTGT. Luật thuế GTGT xác định diện không chịu thuế
GTGT rất rộng (25 nhóm hàng hóa) nhằm thực hiện chủ trương ưu đãi về
thuế nhưng sự ưu đãi này đã đưa đến nhiều bất ổn. Thứ nhất số lượng như vậy
là qúa nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách thuế GTGT là mở rộng diện
chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng đưa vào diện này còn
chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián đoạn trong công
tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp. Ví dụ: đó là thiết bị máy
móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất
được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp,… thuộc diện không
chịu thuế GTGT, khi mới áp dụng luật thuế này, trong điều kiện nền kinh tế
nước ta còn gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp hầu hết đều ít vốn nên quy
định này sẽ giúp doanh nghiệp không phải bỏ ra một lượng vốn ứng trước.
Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hình thức huy
động vốn cho doanh nghiệp cũng nhiều hơn, thuận tiện hơn, thì việc không
đánh thuế đối với mặt hàng này đã gây gián đoạn đối với các khâu sau, phức
tạp hóa trong tính toán thuế của doanh nghiệp.
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
Đặc biệt là trong trường hợp các ngành sử dụng nguyên vật liệu thuộc
diện miễn trừ thuế GTGT để sản xuất ra các sản phẩm chịu thuế GTGT hoặc
ngược lại. Ví dụ: dịch vụ y tế thuộc diện không chịu thuế GTGT, nhưng khi
mua thiết bị, dụng cụ y tế, bông băng… lại phải chịu 5% thuế GTGT đầu vào.
Do không có thuế GTGT đầu ra khấu trừ nên toàn bộ số thuế GTGT phải trả
sẽ tính vào giá dịch vụ y tế gây khó khăn cho người dân khi khám bệnh.
Hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến không chịu thuế GTGT, do đó nếu
các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người sản xuất không có hóa đơn thì
được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản nhưng không được khấu
trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy chế biến thủy sản,
doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào ngân sách nhà nước. Từ
đặc điểm này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT khống để làm
chứng từ đầu vào khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế.
2. Thuế suất:
Khi ban hành một đạo luật thuế, việc lựa chọn hệ thống thuế suất có ý
nghĩa rất quan trọng. Khi ban hành luật thuế giá trị gia tăng các nước đang áp
dụng loại thuế này thường lựa chọn thực hiện chế độ nhiều mức thuế suất
hoặc chế độ một thuế suất (một số quốc gia hiện hành áp dụng chế độ nhiều
thuế suất như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...Nhiều quốc gia đang áp dụng
nhiều mức thuế suất, áp dụng đối với hàng hóa và dịch vụ khác nhau: Việt
Nam, các nước Cộng đồng châu Âu, Philippines, Thái Lan....)
Ở Việt Nam hiện nay áp dụng 3 mức thuế suất: 0%, 5%, 10%. Quy định
này một mặt giải quyết yêu cầu về khoảng cách giữa các mức thuế suất đồng
thời cũng được coi là bước đệm cho việc tiến tới áp dụng một mức thuế suất
duy nhất trong giai đoạn tới.
Mức thuế suất 10% có thể coi là mức thuế suất chuẩn, áp dụng cho hàng
hóa, dịch vụ thông thường.
Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ ưu đãi, khuyến
khích phát triển, đầu tư... Các sản phẩm thiết yếu, sản phẩm công nghiệp nặng
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
hoặc công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ công cộng...đều nằm trong
diện ưu đãi, áp dụng mức thuế 5%.
Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, không phân
biệt đối tượng và hình thức xuất khẩu.
Việc áp dụng thuế suất khác nhau đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng,
trong chừng mực nhất định, không đảm bảo tính công bằng. Trong nhiều
trường hợp, còn nhiều khó khăn khi áp dụng. Việc áp dụng nhiều thuế suất
cũng sẽ dẫn đến chi phí cho quản lí hành chính thuế và chi phí tuân thủ pháp
luật tăng, làm phức tạp các hóa đơn, và sổ sách của người nộp thuế cũng như
gây khó hiểu cho việc áp dụng các mẫu đơn thuế GTGT. Vì vậy, xu hướng
chuyển dần từ cơ chế nhiều thuế suất sang cơ chế một thuế suất là phù hợp và
cần thiết.
3. Phương pháp tính thuế:
Phương pháp tính thuế là yếu tố quyết định đến việc thuế tính có bị trùng
lắp, chồng chéo hay không. Hiện nay, ở nước ta đang thực hiện hai phương
pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp.
Khi áp dụng hai phương pháp như quy định hiện hành thì sẽ có những
hạn chế và bất hợp lý, gây ra sự không thống nhất về giá tính thuế, đối với
phương pháp khấu trừ thì giá là giá chưa có thuế GTGT, còn phương pháp
trực tiếp là giá đã có thuế GTGT. Cách tính theo phương pháp trực tiếp cho ra
kết quả là số thuế phải nộp dường như cao hơn so với cách tính theo phương
pháp khấu trừ, bởi vì ở đây thuế suất đã được nhân hai lần. Quy định này gây
bất lợi cho các chủ thể phải nộp thuế GTGT theo phương pháp tính thuế trực
tiếp trên phần giá trị gia tăng, tạo ra nhiều vướng mắc và sự bất bình đẳng
giữa các chủ thế nộp thuế. Bởi vậy cũng sẽ gây ra phức tạp trong việc áp dụng
cũng như quản lý thuế.
Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời phương pháp tính thuế trực tiếp trên
giá trị gia tăng bên cạnh phương pháp khấu trừ là để phù hợp với điều kiện
kinh tế của Việt Nam: Hiện nay có trên hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh với quy
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
mô nhỏ, trình độ quản lý kinh doanh và hạch toán thấp, chưa có đủ điều kiện
thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, số thuế GTGT nộp của đối tượng
này chỉ chiếm gần 20% tổng số thu về thuế GTGT. Và đây cũng là biện pháp
khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ hóa đơn chứng từ.
4. Hoàn thuế:
Quá trình thủ tục xin hoàn thuế còn phức tạp, mất nhiều thời gian và
công sức của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không bao giờ muốn để vốn ứ
đọng, vốn phải được đưa vào lưu thông nhanh nhất để để tìm kiếm lợi nhuận.
Nếu việc hoàn thuế diễn ra chậm sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh, gây ra rủi ro về vốn, rủi ro về lãi suất hoặc tỷ giá cho các
doanh nghiệp này khi họ phải đứng ra một số vốn lớn để thanh toán thuế
GTGT khi mua hàng hoặc nhập khẩu hàng. Điều này gây ảnh hưởng đến tâm
lý doanh nghiệp, tác động không tốt đến chất lượng cũng như tiến độ sản xuất
của doanh nghiệp.
5. Sự phản ứng từ người tiêu dùng:
Thuế GTGT là loại thuế gián thu nên trên thực tế, nhà nước không trực
tiếp thu thuế này từ phía người tiêu dùng khi họ thực hiện hành vi tiêu dùng,
mà nhà nước thu thuế GTGT từ phía các nhà sản xuất, lưu chuyển và cung
ứng hàng hóa, dịch vụ bởi thuế GTGT đã được tính bao hàm trong giá bán. Vì
vậy người tiêu dùng sẽ không cảm nhận được gánh nặng thuế đối với mình.
Chỉ đơn giản đó là giá của một sản phẩm mà mình muốn mua, mình cần dùng
đến. Đặc điểm này sẽ giúp cho việc thực thi thuế GTGT được thuận lợi hơn.
Khi không chịu sự phản đối thì việc thu thuế sẽ thuận lợi hơn. Đây là yếu tố
đảm bảo tính khả thi của loại thuế này. So với các loại thuế trực thu sẽ dễ
dàng vấp phải sự phản ứng với những điểm chưa hợp lý từ phía chủ thể chịu
thuế (đồng thời là chủ thể nộp thuế).
6. Chế độ hóa đơn, chứng từ:
Đặc điểm của luật thuế GTGT là tăng cường hạch toán kinh tế và thực
hiện chặt chẽ nguyên tắc dựa vào hóa đơn mua hàng để khấu trừ số thuế
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
GTGT đã nộp ở khâu trước. Tuy nhiên đối với nền kinh tế của nước ta hiện
nay, việc mua bán được thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt, một số lượng lớn
các giao dịch không cần tới hóa đơn nên những khó khăn khi áp dụng thuế
GTGT là điều khó tránh khỏi.
Trong bối cảnh đó, luật thuế GTGT lại quy định quá nhiều loại hóa đơn,
bên cạnh hóa đơn dành cho các cơ sở áp dụng theo phương pháp trực tiếp và
phương pháp khấu trừ còn có các loại hóa đơn đặc thù kể cả bảng kê mua
hàng hóa của người không có hóa đơn,… Các hóa đơn đều có tính pháp lý
như nhau do Luật thuế quy định. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây là việc khấu
trừ thuế lại khác nhau, chỉ có hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn đặc thù tại các
đơn vị nộp thuế theo phương pháp khấu trừ mới được khấu trừ thuế theo quy
định.
Chính phủ đã ban hành rất nhiều quy định về hóa đơn chứng từ như Nghị
định số 89/2002/NĐ-CP quy định về việc in, phát hành, quản lý hóa đơn,…
nhưng vẫn nảy sinh hiện tượng lợi dụng trong mua bán, sử dụng hóa đơn bất
hợp pháp để khai man thuế GTGT đầu vào để khấu trừ hoặc gian lận trong
hoàn thuế.
7. Luật thuế GTGT và các văn bản pháp luật thuế GTGT:
Luật thuế GTGT được trình bày dưới những quy định chủ yếu là mang
tính nguyên tắc nên còn quá đơn giản dẫn đến tình trạng nhiều nội dung cơ
bản thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thuế GTGT lại được quy định trong
những văn bản dưới luật như Nghị định của Chính phủ, Thông tư... Tuy
nhiên, các văn bản này được ban hành như những giải pháp mang tính chất
tình thế không được dựa trên một cơ sở lí luận có hệ thống về điều chỉnh pháp
luật thuế GTGT làm cho sắc thuế này dần dần thay đổi so với lí luận chính
thống về thuế GTGT. Dẫn đến công tác thực thi pháp luật thuế GTGT gặp
nhiều khó khăn. Thực tế không thể thi hành một đạo luật kiểu như vậy mà
không có các văn bản hướng dẫn cụ thể. Mà các văn bản này lại không ra đời
ngay sau khi luật ra đời. Như vậy trong khoảng thời gian luật đã có hiệu lực
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
thi hành mà chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành thì nhiều quan hệ không
được điều chỉnh một cách cụ thể. Điều nay gây nên tình trạng nhiều đối tượng
lợi dụng để trục lợi.
Ngoài ra cũng do điều kiện kinh tế đất nước luôn vận động và phát triển,
sự biến đổi phức tạp của đời sống kinh tế, khả năng dự kiến những tác động
nảy sinh trong thực tế có hạn, cho nên các văn bản pháp luật nói chung và văn
bản thuế nói riêng được ban hành đã tỏ ra lạc hậu, không phù hợp với sự phát
triển tiếp theo của nền kinh tế. Bên cạnh các luật thuế mới được ban hành,
còn có một danh sách dài các luật thuế cần được sửa đổi, bổ sung. Chính vì
vậy hệ thống pháp luật thuế chưa có tính ổn định lâu dài, chưa tạo được câc
cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường
nước ta. Sự chỉnh sửa nếu diễn ra quá thường xuyên, liên tục sẽ khó có thể tạo
ta một mặt bằng pháp lý có tính căn bản lâu dài để ổn định các hoạt động kinh
tế, tạo lập niềm tin cho các nhà đầu tư, các nhà sản xuất kinh doanh trong
nước cũng như nước ngoài.
9. Văn hóa – Giáo dục:
Ý thức chấp hành pháp luật của người dân: Việc người dân hiểu đúng về
thuế có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Nếu
hiểu đúng về bản chất của thuế và nghĩa vụ nộp thuế của mình thì người dân
sẽ tuân thủ đúng pháp luật về thuế, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Công tác tuyên truyền phổ biến về pháp luật thuế: để đạt được mục tiêu
giúp cho người dân hiểu đúng về ý nghĩa của thuế, việc nộp thuế thì công tác
tuyên truyền, phổ biến về thuế và pháp luật thuế phải tốt. Nếu công tác này
không được thực hiện tốt thì pháp luật không đến được với dân, dẫn đến ý
thức pháp luật của người dân không cao và công tác thực thi pháp luật vì vậy
cũng không đạt được hiệu quả cao.
10. Cán bộ thuế và cơ quan thuế:
Thái độ, trách nhiệm và trình độ của cán bộ thuế: nếu cán bộ thuế làm
việc nhiệt tình, công minh, không tư lợi thì hiệu quả sẽ cao. Còn nếu họ
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
không kiên định, chịu sự tác động của tệ quan liêu, tham nhũng, có những
hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi thì sẽ gây tổn thất nguồn thu
cho Ngân sách nhà nước, tạo sự tiêu cực trong tâm lý và hành vi của các chủ
thể nộp thuế. Hiện nay, thực tiễn đã chứng minh rằng đạo đức của người cán
bộ thuế đang là một vấn đề nhức nhối của xã hội, quan liêu tham nhũng đang
là quốc nạn, không chỉ trong lĩnh vực thuế nói riêng mà trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực thi
pháp luật thuế, mà cụ thể là công tác đăng ký, thu thuế, kiểm tra giám sát các
chủ thể nộp thuế, xử lý các chủ thể vi phạm pháp luật thuế nói chung và pháp
luật thuế GTGT nói riêng.
Công tác quản lý của cơ quan thuế: Công tác quản lý mặc dù đã đạt
được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới nhưng vẫn còn nhiều bất cập trên tất
cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lý. Quản lý thuế hầu hết dựa
trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý. Hiện nay bộ máy quản lý thuế của
nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống
này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán
bộ thuế phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra
thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi
chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ
quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một
số cán bộ còn thấp do đó không đáp ứng yêu cầu của công việc.
Hệ thống cơ sở vật chất và phương tiện của cơ quan thuế: Khi mà khoa
học kĩ thuật đã phát triển cao và xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của đời
sống xã hội thì việc trang bị những máy móc cần thiết cho ngành thuế là vô
cùng cần thiết, đặc biệt là hệ thống máy tính và những phần mềm tính thuế,
quản lý thuế nhằm tính toán và quản lý số liệu một cách dễ dàng, hiệu quả và
nhanh chóng. Có thể thấy các chủ thể nộp thuế GTGT có diện rất rộng và thay
đổi phức tạp cả về số lượng chủ thể lẫn số thuế phải nộp, đồng thời xu thế
trốn thuế là một vấn đề tất yếu trong mọi lĩnh vực của xã hội, do đó để quản
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
lý một cách dễ dàng và chặt chẽ thì cần phải có những phần mềm máy tính
tương thích phù hợp với từng đối tượng và trong từng thời kỳ nhất định.
III. Một số ý kiến đề xuất nhằm thực thi tốt pháp luật thuế giá
trị gia tăng:
1. Về phạm vi, đối tượng chịu thuế:
Cần mở rộng đối tượng chịu thuế, nên thu hẹp đối tượng không chịu thuế
trên nguyên tắc đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, điều kiện kinh tế - xã
hội đất nước, các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
và tình trạng công tác quản lý thuế qua từng thời kỳ. Đối tượng không thuộc
diện chịu thuế chỉ nên bao gồm các nhóm mặt hàng sau: Nhóm các mặt hàng
sản phẩm nông nghiệp của các tổ chức hộ gia đình, cá nhân tự sản xuất và bán
ra; nhóm các dịch vụ xã hội cần thiết phục vụ chính sách phát triển con người
(y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao, phát thanh, truyền hình công cộng);
nhóm các dịch vụ phúc lợi xã hội, bao gồm: vệ sinh thoát nước, đường phố,
công viên, cây xanh, chiếu sáng công cộng; nhóm các mặt hàng chuyên dụng
phục vụ an ninh – quốc phòng được tài trợ từ NSNN, nhóm các mặt hàng
không chịu thuế theo thông lệ quốc tế.
Đối với hoạt động kinh doanh nhà ở, kinh doanh bảo hiểm: Cần có quy
định đặc biệt về thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng. Đối với hoạt động
hoạt động kinh doanh nhà ở, chỉ nên đánh thuế đối với nhà mới xây, tiền thuê
và bán nhà ở nên xem xét miễn thuế vì xét về bản chất, thuế GTGT là thuế
đánh trên giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ mà nhiều khi các hoạt động
này không có giá trị tăng thêm mà còn bị giảm trừ. Đồng thời, cần xác định
mức thuế hợp lý nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường bảo hiểm.
2. Về thuế suất:
Hiện nay, thuế GTGT có ba mức thuế suất: 0%, 5%, 10%. Việc quy định
các mức thuế suất khác nhau ảnh hưởng lớn đến tính công bằng và hiệu quả
của Thuế GTGT. Với các mức thuế suất khác nhau, tỉ lệ chi phí sản xuất và
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
giá thành các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thuộc các ngành, lĩnh vực khác
nhau sẽ khác nhau một cách tương đối. Chính sách thuế GTGT cần được cải
cách theo hướng giảm bớt số mức thuế suất để nâng cao hiệu quả, tính trung
lập và tránh những tác động bóp méo của thuế. Theo đó, đối với nước ta, thuế
suất thuế GTGT cần được nghiên cứu, xem xét và sửa đổi như sau:
- Quy định thống nhất một mức thuế suất chuẩn đối với hàng hóa, dịch
vụ tiêu dùng trong nước.
- Duy trì và mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu
và hàng hóa dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế.
- Cần xóa bỏ phân biệt đối xử về thuế suất GTGT đối với hàng hóa,
nguyên liệu, vật liệu sản xuất trong nước và nguyên liệu nhập khẩu.
3. Về phương pháp tính thuế:
Luật thuế GTGT hiện nay quy định hai cách tính thuế. Điều đó có thể
dẫn tới sự bất bình đẳng giữa các cơ sở kinh doanh khi cùng tham gia thị
trường nhưng lại có cách tính thuế và hưởng chế độ khấu trừ khác nhau, thêm
vào đó chúng ta có thể nhận thấy những điểm bất cập của phương pháp tính
trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm.
Vậy nên thực hiện thống nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp
khấu trừ thuế vì đây là phương pháp tính khoa học và chính xác so với
phương pháp tính trực tiếp. Cần phân loại các hộ kinh doanh có quy mô nhỏ,
thu nhập thấp đưa ra khỏi diện phải nộp thuế GTGT vì chi phí quản lý đối
tượng này cao so với lượng thuế thu được mà chuyển sang áp dụng mức tỷ lệ
% ấn định trên doanh thu. Mặt khác, đẩy mạnh thực hiện chế độ kế toán đối
với các hộ kinh doanh có quy mô lớn để chuyển những đối tượng này sang
tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế.
4. Về hoàn thuế:
Xây dựng tiêu chí rõ ràng về điều kiện, thời hạn, mức hoàn thuế, đối
tượng hoàn thuế, đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế để đảm bảo hoàn thuế đúng
đối tượng, đầy đủ và kịp thời.
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
Cơ quan thuế các cấp cần phải công khai minh bạch mọi thủ tục hành
chính thuế theo nguyên tắc đề cao quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm trong
việc tự kê khai, nộp thuế và xác định số thuế GTGT được hoàn trả.
Xem xét thời gian hoàn thuế, đặc biệt là đối với các đối tượng có hoạt
động xuất khẩu nhưng số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ trong tháng
nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế theo tháng. Bởi theo
quan điểm của các doanh nghiệp thì thuế GTGT dù nhỏ hay lớn đều phải nộp
theo tháng, nhưng việc hoàn thuế cho một số đối tượng lại theo quý.
Quy định về ngưỡng hoàn thuế theo tháng hay theo quý với doanh
nghiệp là 200 triệu dường như là cứng nhắc bởi có thể phù hợp với địa
phương này nhưng lại không phù hợp với địa phương khác do đó cần xem xét
lại tùy thuộc vào từng địa phương.
Nên quy định việc hoàn thuế đối với khách du lịch mua hàng hóa của
Việt Nam về nước, việc hoàn thuế này cần tiến hành đơn giản và nhanh gọn.
5. Về chế độ hóa đơn, chứng từ:
Việc sử dụng hóa đơn, chứng từ đã phát sinh một số tồn tại như: in và sử
dụng hóa đơn bất hợp pháp, buôn bán hóa đơn thật và hóa đơn giả, xuất hóa
đơn khống, bán hàng xuất hóa đơn nhưng không kê khai nộp thuế. Bởi vậy,
cơ quan có thẩm quyền nên nghiên cứu lại giấy in hóa đơn, chứng từ và kí
hiệu, mã hiệu của từng loại để chống in giả; nối mạng về quản lý và sử dụng
hóa đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong toàn quốc. Mặt khác,
Bộ tài chính cũng cần phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền thường xuyên
kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, đồng thời
khuyến khích các doanh nghiệp tự in hóa đơn GTGT theo mẫu quy định của
Bộ Tài chính.
6. Về quản lý thu thuế:
Cần quy định thống nhất và cụ thể vai trò, chức năng của các cơ quan
trong việc quản lý thu thuế nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch và rõ
ràng trong trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý thu thuế.
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
Tăng cường và hợp lý hóa quy trình quản lý hóa đơn, sổ sách, chứng từ
kế toán cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp và đối tượng nộp thuế
nhằm đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch trong tính toán, xác đinh nghĩa vụ thuế
và hoàn thuế để tránh những hiện tượng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trốn
thuế hoặc chiếm dụng tiền hoàn thuế GTGT của Nhà nước.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối tượng nộp thuế kết
hợp với tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng
khác trong công tác quản lý thuế.
Tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho
đội ngũ cán bộ thuế tạo cơ sở vững chắc về tổ chức bộ máy và con người để
nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ban hành nghị định, thông tư
hướng dẫn Luật một cách cụ thể, dễ hiểu, thuận lợi cho công tác thực thi luật.
Trong quá trình thực thi, cần thiết có thể ban hành những văn bản kịp thời.
Các cơ quan quản lý nhà nước về thuế như cơ quan thuế, cơ quan hải
quan cần tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các
cơ quan cấp dưới và của các chủ thể liên quan trong phạm vi quyền hạn của
mình, phát hiện nhanh chóng và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp
luật thuế GTGT. Tăng cường công tác đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn
và phẩm chất đạo đức cho các cán bộ thuế, cán bộ hải quan.
7. Về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế:
Đây là công tác có ý nghĩa quan trọng và mang tính lâu dài. Việc giáo
dục cho người dân tầm quan trọng của thuế GTGT, sự cần thiết lấy hóa đơn
thuế GTGT khi mua hàng,… là cơ sở tiến tới việc nâng cao tầm hiểu biết và
thái độ tích cực đối với chính sách thuế của nhà nước.
Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật bằng cách đưa vào
chương trình giáo dục các cấp những nội dung phù hợp nhằm giáo dục cho
công dân về quyền và nghĩa vụ nộp thuế của công dân; tuyên truyền thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo viết, internet...
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích và tìm hiểu ở trên thì có lẽ phần nào chúng ta đã
hiểu rõ hơn những yếu tố tác động đến hiệu quả thực thi pháp luật thuế giá trị
gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Để từ đó hiểu hơn về tầm quan trọng của pháp
luật thuế và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình, đảm bảo sự nghiêm
minh, đúng đắn trong quá trình thực hiện pháp luật thuế GTGT nói riêng và
pháp luật thuế nói chung.
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb Công an,
Hà Nội,
2. Trần Minh Hiền, Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam và phương hướng hoàn
thiện, Luận văn thạc sĩ, 2006.
3. Phạm Thị Giang Thu, “ Một số ý kiến trao đổi về Dự thảo Luật thuế GTGT
và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp ”, Tạp chí luật học ,số 4/2008.
4. Luật thuế GTGT năm 2008.