Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.74 KB, 18 trang )

Đề số 9:Phân tích phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương
mại và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.


MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU
NỘI DUNG CHÍNH
I. Khái qt chung về trọng tài thương mại
1. Khái niệm trọng tài thương mại
2. Các hình thức trọng tài thương mại
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
II. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại
III. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại khi giải quyết các tranh chấp
thương mại
1. Ưu điểm
2. Nhược điểm
IV. Thực trạng áp dụng việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại tại Việt Nam
1.Thực trạng về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
2. Nguyên nhân
V. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thương
mại tại trọng tài thương mại
KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo


LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng
có điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành
nghề khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày
càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết “thuận


buồm xi gió” vẫn cịn tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi
phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho
các bên và cho cả nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, thuật ngữ “tranh chấp
thương mại”đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước
trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần
đây.Tranh chấp thương mại là những tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực thương
mại. Mặc dù tranh chấp không phải là điều mong muốn của các thương nhân và họ
đã rất cẩn trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm loại bỏ tranh chấp song các
bên khơng thể khẳng định rằng sẽ khơng có bất kỳ tranh chấp nào xảy ra trong các
thương vụ mà họ tham gia.
Vì vậy, điều quan trọng mà các thương nhân cần nhìn nhận trước đó là giải
pháp nào cần thực hiện nếu có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên thế giới cũng
như Việt Nam phổ biến các hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hịa
giải, tòa án, trọng tài. Thực tiễn cho thấy trong những giải pháp nói trên và trừ
những vụ việc đặc biệt, giải pháp trọng tài thường được các bên lựa chọn bởi các
ưu điểm vượt trội của nó.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về
trọng tài thương mại: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp
do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại khơng
mang ý chí quyền lực nhà nước ( không nhân danh quyền lực nhà nước như phán
quyết của toà án ) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên phán quyết của trọng tài


thương mại (được các bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo.Ngoài ra,
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này cịn đảm bảo tối đa uy tín cũng
như bí mật của các bên tranh chấp , góp phần củng cố và duy trì mối quan hệ hợp

tác lâu dài giữa các bên.
2. Các hình thức trọng tài thương mại
2.1. Trọng tài vụ việc.
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận
thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tụ chấm dứt tồn
tại khi giải quyết xong vụ việc.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
Tính chất vụ việc hay lâm thời của hình thức trọng tài này thể hiện ở chỗ
trọng tài chỉ được thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp để giải quyết vụ
việc tranh chấp cụ thể giữa các bên.Hình thức trọng tài này chỉ tồn tại và hoạt động
trong thời gian giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên,khi giải quyết xong vụ tranh
chấp,trọng tài tự chấm dứt hoạt động.
Thứ hai,trọng tài vụ việc khơng có trụ sở thường trực, khơng có bộ máy điều
hành (vì chỉ được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thoả thuận của các
bên) và khơng có danh sách trọng tài viên riêng.
Trọng tài viên được các bên lựa chọn hoặc được chỉ định có thể là người có
tên trong hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba,trọng tài vụ việc khơng có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
Trọng tài vụ việc chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp nên
quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây
dựng.Tuy nhiên để tránh lãng phí thời gian cũng như cơng sức đầu tư vào việc xây
dụng quy tắc tố tụng,các bên có thể thỏa thuận lựa chọn bất kì một quy tắc tố tụng
phổ biến nào,mà thông thường là quy tắc tố tụng của các trung tam trọng tài có uy
tín ở trong nước và quốc tế.


2.2. Trọng tài thường trực :
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới những

hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện
trọng tài ( Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore,Trung tâm trọng tài quốc tế
Australia,trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông…),các hiệp hội trọng tài( Hiệp hội
trọng tài Hoa kì,Hiệp hội trọng tài Nhật Bản) hay các viện trọng tài (Viện trọng tài
Stockholm-Thụy Điển) nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng trung
tâm trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các
trung tâm trọng tài.Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp
nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất,các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, khơng nằm trong
hệ thống cơ quan nhà nước.
Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên
sau khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được
thành lập bởi nhà nước.Các trung tâm trọng tài khơng nằm trong hệ thống cơ quan
quản lí nhà nước cũng không thuộc hệ thống co quan xét xử nhà nước.
Là tổ chức phi chính phủ nhưng là các trung tâm trọng tài vẫn ln đặt dưới
sự quản lí và hỗ trợ của Nhà nước.Nhà nước quán lí các trung tâm trọng tài thông
qua việc ban hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lí cho việc tổ chức và hoạt
động của các trung tâm trọng tài.Ngoài ra,việc quản lí nhà nước đối với các trung
tâm trọng tài cịn được thực hiện thơng qua hoạt động quản lí của hệ thống các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cấp;thay đổi,bổ sung hay thu hồi giấy
phép thành lập,giấy đăng kí hoạt động của các trung tâm trọng tài…
Thứ hai,các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân , tồn tại độc lập với
nhau.
Mỗi trung tâm trọng tài là pháp nhân,tồn tại độc lập và bình đẳng với các
trung tâm trọng tài trọng tài khác.Ngoài sự độc lập,bình đẳng và quan hệ hợp tác
(nếu có),giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc vào cấp



trên,cấp dưới như hệ thống các cơ quan tài phán nhà nước.Sự khác biệt này về tổ
chức của trọng tài thương mại sơ với hệ thống tòa án dẫn đến tính đặc thù của tố
tụng trọng tài trong việc áp dụng nguyên tắc xét xử một lần.
Thứ ba,tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.
Cơ cấu tổ chức của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài
viên của trung tâm.
Thứ tư,mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy
tắc tố tụng riêng.
Trong quá trình hoạt động,các trung tâm trọng tài có quyền mở rộng hoặc thu
hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động nhưng phải được sự chuẩn thuận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.Là tổ chức chính phủ,các trung tâm trọng tài tồn tại độc lập
với nhau,vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau.Bên cạnh chất lượng các trọng tài
viên,sự đơn giản và linh hoạt của quy tắc tố tụng cũng là yếu tố tạo ra sự hấp dẫn
của mỗi trung tâm trọng tài trước khách hàng.Bởi vậy,mỗi trung tam trọng tài đều
có điều lệ riêng,đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù
về tổ chức,hoạt động của trung tâm và không trái với quy định của pháp luật trọng
tài thương mại.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các
trọng tài viên của trung tâm.
Mỗi trung tâm trọng tài đều có danh sách riêng về trọng tài viên của trung tâm.Việc
chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên
duy nhất để giải quyết vụ việc tranh chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng
tài viên của trung tâm trọng tài.Vì vậy,hoạt đồng xét xử của trung tâm trọng tài chỉ
được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm.Đặc điểm này có sự khác
biệt so với giải quyết tranh chấp thương mại tài vụ việc.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương
mại
- Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi tranh
chấp các bên có thỏa thuận trọng tài (quy định tại khoản 1, điều 5 LTTTM năm
2010).



Khác với giải quyết tranh chấp tại tòa án, việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài địi hỏi phải có sự thỏa thuận giữa các bên. Đây là cơ sở cho các bên tiến
hành giải quyết TCTM tại TTTM.
Thỏa thuận trọng tài (TTTT) khơng chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thỏa
thuận của các bên mà còn là một căn cứ pháp lý để dựa vào đó bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ. Vì TTTT có vị trí, vai trị quan
trọng mang tính quyết định đối với việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài nên LTTTM 2010 đã dành hẳn chương II để quy định về vấn đề liên
quan đến TTTT. Theo các quy định trong LTTTM 2010 thì TTTT khơng chỉ được
khẳng định như một nguyên tắc “nền tảng” của việc giải quyết tranh chấp tại trọng
tài (Điều 5) mà còn làm sáng tỏ hơn các vấn đề có liên quan như: Hình thức TTTT (
Điều 16), TTTT vơ hiệu (Điều 18), Tính độc lập của TTTT ( Điều 19)..
Như vậy, nguyên tắc TTTT được phản ánh khá đậm nét trong LTTTM 2010,
trở thành 1 nguyên tắc nền tảng của tố tụng trọng tài. Trọng tài sẽ mất đi bản chất
vốn có nếu thiếu vắng nguyên tắc này – một nguyên tắc thể hiện sự tơn trọng ý chí,
nguyện vọng chung của các bên.
- Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên (TTV) phải độc lập, khách quan,
vô tư và tuân thủ quy định của pháp luật (Khoản 2, Điều 4 LTTTM 2010)
Đây là nguyên tắc trung tâm của TTTM, đồng thời cũng là yêu cầu đặt ra đối
với các chủ thể giải quyết tranh chấp vì điều đó có thể làm ảnh hưởng đến tính
đúng đắn, chính xác, khách quan và khả năng thi hành phán quyết của TT.
Để đảm bảo nguyên tắc này, LTTTM 2010 đã quy định khá cụ thể về tiêu
chuẩn TTV (Điều 20), Quyền, nghĩa vụ của TTV (Điều 21). Những quy định này
giúp cho việc đảm bảo vụ tranh chấp được giải quyết một cách cơng bằng, chính
xác và hợp lý đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho các bên tranh chấp.
- Nguyên tắc tự định đoạt
Trong TTTT các bên được đảm bảo quyền tự định đoạt tối đa. Trước tiên,
các bên có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ Trung tâm trọng tài nào hoặc tự thành lập

HĐTT để giải quyết các tranh chấp của mình, các bên có quyền chỉ định TTV, địa
điểm, thời gian, ngơn ngữ giải quyết tranh chấp.


- Giải quyết tranh chấp bằng TT được tiến hành cơng khai, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác (khoản 4, Điiều 4 LTTTM 2010)
Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động kinh doanh. Theo
nguyên tắc này, các buổi xét xử TT chỉ gồm TTV, các đương sự và các bên có liên
quan đến vụ tranh chấp. Những người khơng có trách nhiệm và khơng liên quan
đến vụ tranh chấp không được tham dự. Và quyết định của TT cũng như các căn cứ
để TT đưa ra phán quyết sẽ không được công bố công khai nếu các bên đương sự
khơng có u cầu.
- Phán quyết TT là chung thẩm (khoản 5, điều 4 LTTTM 2010)
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của TTTT là nhân danh ý chí, quyền
tự định đoạt của đương sự. Để đảm bảo việc các bên phải có nghĩa vụ thi hành phán
quyết TT thì LTTTM 2010 có quy định phán quyết của TT được thi hành ngay
(trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ra phán quyết).
Tóm lại, tất cả những nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà LTTTM 2010 đã
đặt ra đều nhằm mục đích giúp cho các bên giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả
và đảm bảo tốt nhất nhu cầu về một cơ chế giải quyết tranh chấp tối ưu cho doanh
nghiệp.
II. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại
Khác với tịa án,trọng tài thương mại nói riêng và trọng tài nói chung khơng
có thẩm quyền đương nhiên đối với một tranh chấp cụ thể.Thẩm quyền của trọng
tài mang tính chất vụ việc khi các bên tranh chấp lựa chọn đích danh.Việc một
tranh chấp có thể thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại hay không phụ thuộc
vào mộ số điều kiện của pháp luật.TTTM chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Nghĩa là, một tranh chấp sẽ thuộc thẩm
quyền giải quyết của TTTM khi có đủ 2 điều kiện:
Thứ nhất, giữa các bên tranh chấp có TTTT và TTTT có hiệu lực.

Theo khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 quy
định(PLTTTM 2003): “Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc
sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thoả thuận trọng tài.”


Theo đó trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn
tại một thỏa thuận chọn trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp,phải có một
thỏa thuận trọng tài cụ thể,rõ ràng và theo đúng quy định pháp luật và quy tắc tố
tụng trọng tài của trung tâm trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài là điều khoản để giải quyết tranh chấp được ghi trong
hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng,có thể là một phục lục đính kèm tại thời điểm kí
kết hợp đồng hoặc được các bên kí kết sau khi phát sinh tranh chấp.
Chức năng của trọng tài là:
+Xác định thẩm quyền của trọng tài
+Ràng buộc các bên phải đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài
+Loại trừ sự can thiệp của tòa án vào việc giải quyết tranh chấp
Thực tế để tránh khỏi rắc rối phát sinh tranh chấp,các bên nên lập điều khoản trọng
tài mà các trung tâm trọng tài khuyến khích,tạm gọi là các điều khoản mẫu mà các
trung tâm trọng tài thường ghi tren website hay trong các giới thiệu của mình.Cụ
thể hơn,các bên có thể thỏa thuận rằng “ Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan
đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại [ tên của trung tâm trọng
tài].”
Các bên liên quan cũng cần chú ý đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài,để
thỏa thuận này ràng buộc các bên cũng như ràng buộc cơ quan tố tụng thì tại thời
điểm có tranh chấp,thỏa thuận này vẫn cịn giá trị pháp lí.
Thứ hai, tranh chấp gửi đến TTTM phải là tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại.
Theo khoản 2 Điều 2 của PLTTTM “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa
các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc
đã phát sinh trong hoạt động thương mại.”.Các hoạt động thương mại đã được liệt

kê khá cụ thể,đồng thời PLTTTM 2003 còn đề cập tới “các hành vi thương mại
khác theo quy định của pháp luật”.Điều đó có nghĩa rằng,bất cứ hoạt động thương
mại nào theo quy định pháp luật chung,các bên có thể bắt đầu định hướng việc giải
quyết tranh chấp bằng việc kí kết hợp đồng có điều khoản thỏa thuận về trọng tài”


III. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại so với giải quyết các
tranh chấp thương mại
1.Ưu điểm
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc
giải quyết tranh chấp
Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm nổi
bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá trị
chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tịa án xử thì phải 2 – 3 lần, từ sơ
thẩm đến phúc thẩm, rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn khiếu nại,
khiếu kiện và cịn có sự tham gia của nhiều cơ quan khác (như Viện kiểm sát…).
Còn cách thức giải quyết bằng trọng tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính
chung thẩm của quyết định trọng tài khơng chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên
đương sự mà nó cịn khiến các bên khơng thể chống án hay kháng cáo. Xét xử tại
trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Uỷ ban Trọng tài (Hội
đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của mình. Những ưu
điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương mại. Chính những
ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết định tham gia đầu tư
thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước ngồi và cả bên Việt Nam
thơng qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh
những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết định trọng tài là
quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của Toà án. Tuy là chung
thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi hành, nên bên đương

sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra Toà kinh tế theo
thủ tục giải quyết các vụ án.
Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật
Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết
pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín (in


camera) nếu các bên khơng quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh
chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ
thương mại.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục
Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn
trọng tài và Hội đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố
tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài (Uỷ ban trọng tài)
xét xử vụ kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện
đó. Khi mang một vụ việc ra xét xử ở Tồ án, có khả năng thẩm phán được chỉ định
giải quyết vụ việc không có trình độ chun mơn liên quan đến đối tượng tranh
chấp, đặc biệt các ngành có đặc thù chun mơn cao như: dầu khí, xây dựng, tài
chính, đầu tư, bảo hiểm… Khi giải quyết bằng trọng tài, các bên hoàn tồn có thể
lựa chọn trọng tài viên có trình độ chun mơn phù hợp với đối tượng tranh chấp,
góp phần nâng cao hiệu quả, cơng bằng và chính xác trong giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng,
linh hoạt cho các bên
Tịa án, khi xét xử các bên hồn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án về
thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó. Trong khi
đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa
điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng,
hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể
làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, tiết kiệm thời gian

Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế địi hỏi các bên
khơng thể lãng phí thời gian, điều mà các Tịa án sẽ rất khó đáp ứng được do ln
phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ sơ.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền kháng án cũng
làm cho tiến độ bị kéo dài.


Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác
Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hồ khí
lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác
kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những
bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một khơng gian kín đáo, nhẹ
nhàng… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác,
quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng
tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn
trong tương lai.
Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các
chuyên gia
Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên đương
sự, điều mà không tồn tại ở Tịa án.
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu biết
vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chun ngành
có tính chun sâu như chứng khốn, licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ, sở hữu trí tuệ…
2.Nhược điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại khó tránh
khỏi, đó là:
- Thứ nhất, sự thành cơng của quá trình giải quyết tranh chấp bằng con

đường TTTM chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí và hợp tác của các bên tranh
chấp. Mà các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự quan tâm nhiều
đến việc lường trước các tranh chấp sẽ phát sinh nên vẫn cịn tình trạng mơ hồ về
hình thức trọng tài thương mại nói riêng, cũng như các phương thức giải quyết
tranh chấp khác nói chung.


- Thứ hai, việc thực thi các kết quả đã đạt được trong quá trình giải quyết
tranh chấp bằng con đường trọng tài phần lớn phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành
của bên có nghĩa vụ thi hành mà khơng hề có cơ chế pháp lý vững chắc để đảm bảo
thi hành và nếu có thì việc thực thi đó thường phức tạp và tốn kém.
IV. Thực trạng áp dụng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong
việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại tại Việt
Nam
1. Thực trạng về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp khá hiệu quả và khá thơng
dụng trên thế giới, song tại Việt Nam thì TTTM lại rất mờ nhạt. Con đường tài
phán này hiện không nhận được sự quan tâm của doanh nghiệp. Điểm qua hoạt
động của các trung tâm trọng tài trong thời gian gần đây, ta có thể thấy được thực
trạng trong việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh
chấp ở Việt Nam hiện nay, đó là:
- Thứ nhất, về phía các trung tâm trọng tài: Theo kết quả nghiên cứu về sự
cần thiết và việc sử dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại Việt
Nam do Bộ tư pháp ban hành mới đây cho thấy có đến 75% ý kiến cho rằng cần
thiết thành lập trung tâm trọng tài, tuy nhiên hiện nay trên cả nước mới có 6 trung
tâm trọng tài (3 trung tâm ở Hà Nội, 2 trung tâm ở TpHCM, 1 trung tâm tại Cần
Thơ). Thực ra trước đó cũng có một trung tâm trọng tài tại Bắc Giang, tuy nhiên
trung tâm này thành lập ra khó khăn vè trụ sở rồi cũng giải tán. Tuy nhiên, ngoài
Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (bên cạnh phòng Thương mại và cơng
nghiệp Việt Nam - VIAC) là cịn có doanh nghiệp gõ cửa, các trung tâm trọng tài

khác hầu như “ngồi chơi xơi nước”.
- Thứ hai, về phía các doanh nghiệp: Theo tài liệu thống kê, có tói 84%
doanh nghiệp khơng biết đến việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này
cũng dễ hiểu bởi còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh theo lối cũ, khi xảy
ra tranh chấp thì “nhờ” cơ quan chủ quản hoặc Bộ chủ quản giải quyết.
Ví dụ như : “Cơng ty Dâu tằm tơ Việt Nam đã bị trọng tài Geneva (Thụy Sĩ) buộc
phải thanh tốn gần nửa triệu USD cho cơng ty Kyunggi Silk (Hàn Quốc) trong


một vụ tranh chấp kéo dài 3 năm, kèm theo đó Cơng ty Dâu tằm tơ Việt Nam Việt
Nam phải thanh tốn gần 40.000 USD tiền phí trọng tài.”
Bên cạnh đó, theo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, những
năm gần đây, trong các vụ tranh chấp thương mại, có đến gần 60% vụ việc xảy ra
giữa các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài. Và doanh nghiệp
Việt Nam thường thua thiệt trước các doanh nghiệp nước ngoài do thiếu kinh
nghiệm thương trường và kém hiểu biết về trọng tài thương mại. Có thể xem ví dụ
sau như một điển hình cho việc thiếu hiểu biết về trọng tài thương mại:
Ví dụ: VIAC đã từng phải từ chối giải quyết tranh chấp mua bán hàng hóa
giữa một cơng ty Đài Loan và chi nhánh cơng ty A có trụ sở tại Bà Rịa – Vũng Tàu
với lý do điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp trong hợp đồng ghi rất chung
chung là “nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tại Việt Nam giải quyết”. Do mất nhiều
thời gian để nhờ trọng tài phân xử, cuối cùng vụ việc được đưa ra Tòa án nhân dân
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giải quyết nhưng cũng bị đình chỉ vì đã quá thời hiệu khởi
kiện.
2. Nguyên nhân
Nhìn chung, các Trung tâm Trọng tài hoạt động chưa hiệu quả vì trọng tài
tuy khơng phải là một chế định quá mới mẻ, nhưng các doanh nghiệp của Việt Nam
chưa có thói quen sử dụng dịch vụ trọng tài như là một trong những phương thức
cơ bản để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động. Đến nay,
số lượng giải quyết tranh chấp qua trọng tài kinh tế hết sức nhỏ. Tại thành phố Hà

Nội, tranh chấp kinh tế bằng hình thức trọng tài năm 2005, chỉ có 13 vụ, năm 2004,
khoảng 10 vụ. ở TP Hồ Chí Minh - nơi có nền kinh tế sôi động, số lượng doanh
nghiệp chiếm phần lớn so với cả nước, tuy nhiên, số vụ đưa ra giải quyết bằng
trọng tài chiếm một tỷ lệ nhỏ so với số lượng tranh chấp xảy ra trong đời sống
thương mại ở nước ta. Sở dĩ như vậy có thể kể ra một số nguyên nhân chủ yếu như
sau:
- Ý thức về pháp luật của các doanh nghiệp và việc kinh doanh trong điều kiện
cạnh tranh khốc liệt làm cho các chủ thể trong quan hệ đều vi phạm hợp đồng.
Trong một giao dịch, bên này vi phạm việc này, bên kia sai việc khác; hoặc hôm
nay, bên này sai, thì ngày mai, bên kia sai; người ta tìm cách thương thuyết “tay


đôi” để giải quyết ổn thoả, nhằm giữ quan hệ làm ăn lâu dài. Vì lẽ đó, việc đưa
nhau ra xử lý bằng trọng tài hoặc toà án các bên đều khơng muốn. Theo số liệu của
Phịng kinh tế thương mại Việt Nam, giải quyết tranh chấp kinh tế qua toà án và
trọng tài chỉ chiếm khoảng 49% số lượng các vụ tranh chấp trong thực tế.
- Nhiều doanh nghiệp, cá nhân không am hiểu những vấn đề liên quan đến tố
tụng thông qua con đường trọng tài thương mại. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp,
ở nước ta có trọng tài kinh tế nhà nước - cơ quan này quản lý hợp đồng kinh tế giữa
các chủ thể kinh tế nhà nước. Nhưng việc đó đã bãi bỏ lâu. Từ đó, các doanh
nghiệp và nhân dân chỉ quen tranh chấp bằng con đường tố tụng tại toà kinh tế.
Nghiên cứu cho thấy, hầu hết các hợp đồng kinh tế chỉ có quy định hai biện pháp
tranh chấp là tự thương lượng giải quyết, nếu khơng giải quyết được thì đưa ra giải
quyết tại tồ án có thẩm quyền. Trong một ngàn hợp đồng, chỉ có một vài hợp đồng
chế định việc tranh chấp tại TTTM. Như vậy, phương pháp tự xử và xử lý tranh
chấp tại toà đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh nghiệp.
- TTTM là tổ chức phi Chính phủ. Chúng ta sống trong hệ thống chính trị mà
người dân nghĩ rằng chỉ có các quyết định của Đảng và Nhà nước mới có hiệu lực
và tính khả thi. Với chiều dài của lịch sử, với thực tiễn cuộc sống đã làm cho dân ta
nhận thức một cách không đầy đủ về xã hội dân sự. Đây là nhận thức về bề nổi,

nhưng lại ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của tổ chức phi Chính phủ. Thực
trạng này, phần lớn cũng do các yếu tố pháp lý gây nên. Pháp lệnh về trọng tài vẫn
cịn có những hạn chế, làm giảm hiệu lực hoạt động của các trung tâm trọng tài.
Một phán quyết của trọng tài dù có chính xác đến đâu cũng cần phải có một quyết
định cơng nhận và cho thi hành của Toà án hoặc quyết định của cơ quan thi hành
án. Quy định này, làm tăng thêm tâm lý e ngại của các doanh nghiệp khi sử dụng
trọng tài để phân xử tranh chấp.
- Còn nhiều tồn tại trong bản thân của các trung tâm trọng tài. Thực tiễn là như
vậy, nhưng mạng lưới trọng tài của chúng ta lại quá thưa thớt. Đến thời điểm hiện
nay, chúng ta chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Hoạt động của các trung tâm trọng
tài chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của các nhà sáng lập, nguồn thu từ các vụ tranh
chấp. Nhưng các vụ tranh chấp quá ít ỏi, nguồn thu quá hạn hẹp, hạn chế khả năng
phát triển công nghệ, mạng lưới, tuyên truyền, đào tạo…


V. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp
thương mại tại trọng tài thương mại
Thứ nhất, cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà nước đối với các tổ chức
phi Chính phủ, trong đó có trọng tài thương mại. Đây là một giải pháp quan trọng.
Nếu có sự hỗ trợ thích đáng thì trọng tài thương mại có thể phát huy mạnh được
chức năng và vai trị của mình.
Thứ hai, bên cạnh việc hỗ trợ về mặt pháp lý, nhà nước cũng cần hỗ trợ cho
các tổ chức Trọng tài thương mại về mặt vật chất. Đó có thể là ban hành cơ chế cho
thuê trụ sở hay cơ chế để các tổ chức được tự khai thác và quản lý nguồn tài chính
viện trợ của các tổ chức Chính phủ, phi chính phủ và quốc tê.
Thứ ba, cần tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Trọng tài viên.
Hiện nay, một trong những hạn chế của tổ chức trọng tài là vấn đề con người, đặc
biệt là những thành phố không thuộc trung ương. Đội ngũ TTV hiện đa phần trình
độ chun mơn chưa cao, nhất là trong lĩnh vực thương mại quốc tế nên đã ảnh
hưởng rất nhiều đến xét xử. Do đó, để phát triển phương thức trọng tài nhà nước

cần có chính sách hỗ trợ đào tạo TTV thơng qua các chương trình đào tạo trong
nước, nước ngoài với sự hướng dẫn của những trọng tài viên, chun gia có uy tín.
Thứ tư, cần tuyên truyền pháp luật về trọng tài. Đây là một giải pháp rất quan
trọng để pháp luật trọng tài nhanh đi vào thực tiễn và việc giải quyết các tranh chấp
thương mại tại trọng tài có hiệu quả.
Thứ năm, trong 82 điều khoản trong luật trọng tài thương mại không có một
quy định nào về trách nhiệm của trọng tài về phán quyết của mình. Tất nhiên
chúng ta để hiểu trọng tài phải chịu trách nhiệm toàn bộ về phán quyết của mình
nhưng trách nhiệm này cụ thể như thế nào, hình thức xử phạt hoặc kỉ luật ra sao đối
với các trường hợp vi phạm thì chưa rõ. Nên chăng, luật trọng tài thương mại cần
quy định thêm về vấn đề này nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, đồng thời tăng
độ tin cậy, uy tín của trọng tài, tránh các trường hợp sai phạm do mong muốn chủ
quan của một bên tranh chấp hoặc của trọng tài.


KẾT LUẬN
Thực tiễn đã chứng minh việc áp dụng giải quyết tranh chấp tại TTTM ngày
càng phổ biến và mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp trong việc giải quyết
tranh chấp được nhanh gọn, cơng bằng, bình đẳng và thiết lập được mối quan hệ
cuả các doanh nghiệp. Ngoài ra việc giải quyết tranh chấp thương mại tại TTTM
cịn rút ngắn tiến tình hội nhấp kinh tế quốc tế của nước ta. Với những tiện ích rõ
rệt của mình và với xu hướng được ưa thích, việc giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước phát triển trong những năm tới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình Luật thương mại (tập II) – Trường ĐH Luật Hà Nội, NxbCAND, Hà Nội, 2006.
2. Giáo trình Luật thương mại, tập II, TS. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), NxbGiáo dục, 2008.
3. Luật thương mại năm 2005.

4.Luật trọng tài thương mại năm 2010.
5.Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
5.www.doanhnhan360.com



×