MỤC LỤC
BÀI LÀM
TRANG
MỤC LỤC........................................................................................................................................................1
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................................2
B. NỘI DUNG..................................................................................................................................................2
I. Khái quát về công ty cổ phần và tổ chức, quản lý CTCP..........................................................................2
1. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần (CTCP).......................................................2
a.Khái niệm.............................................................................................................................2
C. KẾT LUẬN................................................................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................17
1
A. MỞ ĐẦU
Tổ chức và quản lý doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần (CTCP) nói riêng có
ảnh hưởng sâu sắc tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp (DN). Ở Việt Nam, vấn đề tổ
chức và quản lý CTCP đã được đề cập trong một số văn bản pháp luật từ khi đổi mới kinh tế
đến nay. Đặc biệt, Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2005 đã quy định khá chi tiết và đầy đủ
về tổ chức và quản lý CTCP. Và về cơ bản những quy định này đã khắc phục được những
hạn chế trong LDN năm 1999. Tuy nhiên, cũng còn một số vấn đề tồn tại cần khắc phục. Vì
vậy, tìm hiểu về “ tổ chức và quản lý Công ty Cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện
hành”, từ đó đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật
trong lĩnh vực này đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về công ty cổ phần và tổ chức, quản lý CTCP
1. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần (CTCP)
a.Khái niệm
Trước hết CTCP là một loại hình doanh nghiệp (DN). Khoản 4 Điều 1 Luật doanh
nghiệp (LDN) năm 2005 quy định: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh”.
CTCP là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn của công ty được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu. Hình thức
CTCP lần đầu tiên được quy định trong Luật Công ty năm 1990. Đến LDN năm 2005, địa vị
pháp lý của loại hình công ty này được hoàn thiện một cách căn bản.
b. Đặc điểm cơ bản của Công ty Cổ phần
CTCP có những đặc điểm cơ bản, dựa vào đó chúng ta có thể phân biệt với công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh. Những đặc điểm đó là:
- Về thành viên công ty: trong suốt quá trình hoạt động ít nhất phải có 3 thành viên tham
gia CTCP.
- Vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị
mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu1.
1
Xem thêm Điều 85, Luật Doanh nghiệp 2005.
2
- Tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp: phần vốn góp (cổ phần) của các thành viên
được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng
hóa. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
- Về chế độ trách nhiệm: CTCP chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài
sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (tức là đến hết giá trị cổ phần mà họ
sở hữu).
- Trong quá trình hoạt động, CTCP có quyền phát hành chứng khoán(như cổ phiếu, trái
phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn.
- CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.
Tóm lại, CTCP là loại hình doanh nghiệp có tính tổ chức cao, hoàn thiện về vốn, có khả
năng huy động về vốn lớn và sự dịch chuyển vốn linh hoạt giữa các nhà đầu tư, thích hợp
cho hoạt động kinh doanh trên quy mô lớn.
2.Khái quát về tổ chức quản lý Công ty Cổ phần
a.Khái niệm
Tổ chức quản lý CTCP bao hàm mối quan hệ giữa nhiều bên, không chỉ trong nội bộ
DN mà còn những bên có lợi ích liên quan bên ngoài DN như cơ quan quản lý Nhà nước,
các đối tác kinh doanh và cả môi trường, cộng đồng và xã hội. Tổ chức và quản lý CTCP có
nhiều định nghĩa do cách tiếp cận khác nhau cũng như do nó bao hàm nhiều hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh. Có thể tham khảo một số cách định nghĩa:
- “Tổ chức quản lý công ty là cách thức mà các nhà cung cấp nguồn vốn cho DN, nhà
đầu tư đảm bảo thu được lợi tức từ các khoản đầu tư của họ”1
- “ Tổ chức quản lý công ty là cách thức để điều khiển và kiểm soát DN. Cấu trúc quản
lý công ty chỉ ra cách thức phân phối quyền và trách nhiệm trong số những thành phần
khác nhau có liên quan tới DN như HĐQT, giám đốc, cổ đông và những chủ thể khác có
liên quan. Quản lý công ty cũng giải thích rõ quy tắc và thủ tục để ra các quyết định liên
quan tới vận hành DN. Bằng cách này, quản lý công ty cũng đưa ra cấu trúc thông qua đó
người ta thiết lập các mục tiêu công ty và cả phương tiện để đạt được mục tiêu hay giám sát
hiệu quả công việc”
- “ Tổ chức quản lý công ty nhằm tới mục tiêu thúc đẩy sự công bằng DN, tính minh
bạch và năng lực chịu trách nhiệm”
1
The Journal of Finance, Shleifer and Vishny, 1997
3
Qua đó có thể khái quát khái niệm tổ chức quản lý CTCP như sau: Tổ chức quản lý
CTCP là một hệ thống các thiết chế, theo đó việc tổ chức điều hành trong công ty được
thực hiện trên cơ sở phân định rõ ràng về quyền, nghĩa vụ các cổ đông, HĐQT, người
quản lý, những người có lợi ích liên quan và các phương pháp áp dụng theo một trình
tự, thủ tục nhằm đảm bảo tổ chức hoạt động công ty một cách hiệu quả nhất.
b.Vai trò của tổ chức quản lý Công ty Cổ phần.
Thứ nhất, với quyền và lợi ích của các thành viên trong công ty : Thành viên CTCP
chính là các cổ đông, mỗi cổ đông luôn mong muốn có được lợi nhuận khi bỏ vốn đầu tư.
Tổ chức quản lý CTCP không chỉ là sự đảm bảo về mặt kinh tế cho các thành viên của công
ty mà còn là yếu tố đảm bảo tiếng nói của các cổ đông trong công ty, đặc biệt là với các cổ
đông thiểu số, nói cách khác đó chính là tạo điều kiện cho cổ đông thực sự được sử dụng
vốn góp của mình thông qua điều hành công ty, thực sự gắn bó hơn với công ty.
Thứ hai, đối với sự ổn định và phát triển của chính công ty : Xem xét sức mạnh của
một công ty cần căn cứ vào nhiều tiêu chí nhưng trong đó bộ máy quản lý và hoạt động của
nó là tiêu chí quan trọng hàng đầu. Trước hết, tổ chức quản lý tốt thì công ty mới phát triển
bền vững. Ngược lại, nếu tổ chức quản lý công ty không tốt sẽ đưa công ty đi xuống, ảnh
hưởng tới lợi ích của các thành viên, của người lao động...
Thứ ba,với đối tác và khách hàng của công ty :Khi lựa chọn đối tác, bộ máy quản lý
cũng là một yếu tố cần xem xét. Vì vậy, hoàn thiện quản lý cũng là tăng sức hấp dẫn của
DN. Có nhiều đối tác cũng có nghĩa là cơ hội phát triển dành cho công ty lớn hơn. Còn với
người tiêu dùng, vai trò của tổ chức quản lý công ty thể hiện mờ nhạt hơn. Trong thương
mại hàng hóa - dịch vụ, tổ chức quản lý CTCP chủ yếu thể hiện vai trò với khách hàng
thông qua phân phối sản phẩm: người tiêu dùng luôn lựa chọn sản phẩm từ điểm mua bán
uy tín, có dịch vụ tốt… muốn vậy cần phải có bộ máy quản lý tốt.
Thứ ba, đối với nền kinh tế : DN nói chung và CTCP nói riêng là một bộ phận của nền
kinh tế, và CTCP thường là các DN có quy mô lớn, nguồn vốn dồi dào. Chính vì vậy, sự
tăng trưởng của chúng góp phần duy trì ổn định và phát triển cho cả nền kinh tế. Một hệ
thống quản lý yếu kém sẽ đưa công ty đến suy yếu, hơn thế còn ảnh hưởng đến các DN
khác (đối tác, bạn hàng...) và người tiêu dùng, kết quả tất yếu sẽ là gây thiệt hại cho nền
kinh tế. Vì vậy, kiện toàn về tổ chức và quản lý công ty giúp cho công ty có được chiến
lược phát triển bền vững, minh bạch, hạn chế những tiêu cực trong kinh doanh , tăng lợi
nhuận, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế.
c. Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới tổ chức quản lý CTCP
- Về điều lệ của công ty: Với nội dung phong phú, điều lệ công ty là một yếu tố tác
động lớn đến tổ chức quản lý nội bộ CTCP. Điều đó thể hiện qua một số điểm cơ bản sau:
4
+ Điều lệ công ty chứa đựng một phần các quy định về tổ chức quản lý CTCP;
+ Điều lệ công ty ra đời thông qua sự thỏa thuận của các thành viên, nó là văn bản thể
hiện phương hướng phát triển công ty nói chung và phương hướng phát triển quản lý CTCP
nói riêng;
Như vậy, một bản điều lệ tốt cũng là nhân tố khẳng định trình độ quản lý, khả năng phát
triển của công ty. Đây là cơ sở quan trọng để các nhà đầu tư đưa ra quyết định có bỏ vốn
hay không, bỏ bao nhiêu vốn...
- Về trình độ cổ đông, năng lực đội ngũ lãnh đạo : Hoạt động của ĐHĐCĐ lại là hoạt
động tập thể nên vấn đề trình độ, kinh nghiệm của cổ đông có ảnh hưởng lớn đến công ty
nói chung và với tổ chức quản lý CTCP nói riêng. Nếu cổ đông công ty là người có trình độ
cao thì họ sẽ dễ dàng lựa chọn được những phương án hợp lý để quản lý hữu hiệu công ty.
Ngược lại, cổ đông yếu kém về kiến thức kinh doanh, kinh nghiệm quản lý sẽ khó tìm được
chính kiến cho mình, dễ chạy theo số đông, bị lôi kéo. Bên cạnh đó, sự đồng đều về trình
độ của cổ đông trong công ty , sẽ giúp việc đưa ra ý kiến có tính thống nhất cao và nhanh
chóng.Ngoài ra, nhìn vào đội ngũ lãnh đạo công ty, chúng ta có thể thấy được khả năng hoạt
động, trình độ quản lý của công ty đó. Năng lực lãnh đạo là cơ sở để quản lý công ty tốt.
- Pháp luật : Trước hết, pháp luật ghi nhận các nguyên tắc cơ bản về tổ chức quản lý
CTCP, việc xây dựng và điều hành quản lý công ty phải dựa trên cơ sở luật định và không
được trái các quy định pháp luật. Hệ thống pháp luật còn là điều kiện thuận lợi hay kìm hãm
hoạt động quản lý DN. Nếu chính sách, pháp luật được quy định rõ ràng, đồng bộ, minh
bạch và phù hợp với trình độ phát triển của cộng đồng DN thì sẽ là nhân tố thuận lợi cho tổ
chức quản lý công ty. Ngược lại, nếu hệ thống pháp luật không phù hợp, lạc hậu so với sự
phát triển của nền kinh tế thì đây lại là cản trở lớn cho điều hành quản lý, kìm hãm và làm
suy thoái công ty.
- Nền kinh tế và thị trường : Công ty là một bộ phận của nền kinh tế, vì thế một nền
kinh tế phát triển là cơ sở cho sự bền vững của công ty. Các thành phần kinh tế, hình thức
sở hữu, các quy luật của nền kinh tế, các tập quán... luôn tác động mạnh mẽ đến tổ chức
quản lý CTCP. Một nhân tố gắn chặt với nền kinh tế, cũng có tác động mạnh mẽ tới tổ chức
quản lý CTCP, đó là thị trường. Đây là môi trường kinh doanh của công ty. Sức ép của các
yếu tố như giá, nguyên vật liệu, đối thủ cạnh tranh, nguồn vốn vay, lãi suất... đòi hỏi công ty
cần có những thích nghi hợp lý, đặc biệt là về quản lý hoạt động DN. Do vậy, công tác tổ
chức quản lý được xây dựng theo đặc điểm thị trường, chống chọi hiệu quả với các thay đổi
của thị trường thì mới giúp CTCP phát triển bền vững
- Các xu hướng kinh tế quốc tế : Trong thời kỳ hiện nay có nhiều xu hướng kinh tế
quốc tế tác động đến DN nói chung và tổ chức quản lý CTCP nói riêng, trong đó gồm các
xu hướng chủ yếu sau:
5
+ Thứ nhất, toàn cầu hóa :Toàn cầu hóa trong quản lý công ty thể hiện qua sự xâm
nhập của các kỹ năng, kinh nghiệm, mô hình từ nước ngoài vào cấu trúc quản lý các công ty
trong nước. Những yếu tố mới này vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với tổ chức và quản
lý CTCP. Nếu chúng được áp dụng một cách sáng tạo và linh hoạt thì sẽ nâng cao hiệu quả
quản lý, nhưng ngược lại nếu máy móc áp dụng mà không tính đến những đặc thù của công
ty thì sớm muộn cũng làm rối loạn và suy thoái công ty.
+ Thứ hai, xu hướng liên doanh liên kết: Để nâng cao sức mạnh, nhiều công ty đã tìm
đến giải pháp liên doanh liên kết. Sự hợp tác giờ đây không còn chỉ là giữa các DN trong
nước mà còn mở rộng với các DN nước ngoài. Sự kết hợp này là cơ hội tốt hoàn thiện bộ
máy quản lý nhưng nếu kết hợp không đúng thì thiệt hại xảy ra không nhỏ.
+ Thứ ba, xu hướng đa ngành: Xu hướng này đã có từ lâu, nhưng mới đây thì nó mới
thật sự xuất hiện ở Việt Nam. Ví dụ: công ty FPT mở rộng sang các lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán, xuất nhập khẩu, phân phối...; tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN) xâm
nhập thị trường viễn thông di động...Những thay đổi này tác động không nhỏ đến tổ chức
CTCP. Đòi hỏi hiện nay với các công ty đa ngành là phải có một bộ máy quản lý phù hợp
và chặt chẽ thì mới đáp ứng được yêu cầu thực tế.
II. Tổ chức quản lý Công ty Cổ phần theo pháp luật Việt Nam hiện
hành.
Cơ cấu tổ chức quản lý CTCP theo quy định của LDN Việt Nam năm 2005 gồm: Đại
hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc),Ban kiểm soát
(BKS), đối với CTCP có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên
50% tổng số cổ phần của công ty thì phải có BKS. So với LDN năm 1999, LDN năm 2005
đã bổ sung quy định CTCP phải có BKS trong trường hợp có cổ đông là tổ chức sở hữu trên
50% tổng số cổ phần của công ty).
Có thể minh họa cơ cấu tổ chức quản lý CTCP bằng sơ đồ sau:
ĐHĐCĐ
HĐQT
Chủ tịch HĐQT
BKS
GĐ hoặc TGĐ
Phòng
Chức năng
Phòng
Chức năng
6
Phòng
Chức năng
1. Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ)
a.Thành phần tham gia họp ĐHĐCĐ
ĐHĐCĐ là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất trong CTCP, bao gồm tất cả các
cổ đông có quyền biểu quyết. Trong trường hợp cổ đông là tổ chức thì cổ đông đó có quyền
đề cử một hoặc một số người đại diện theo ủy quyền thực hiện các quyền cổ đông của mình
theo quy định của pháp luật. Nếu có nhiều hơn một người đại diện theo ủy quyền được cử
thì phải xác định cụ thể số cổ phần và số phiếu bầu của mỗi người đại diện. Việc cử, chấm
dứt hoặc thay đổi người đại diện theo ủy quyền đều phải được thông báo bằng văn bản tới
công ty trong thời hạn sớm nhất. Thông báo phải có các nội dung chủ yếu như: tên, địa chỉ
thường trú, quốc tịch, số lượng cổ phần, loại cổ phần và ngày đăng ký cổ phần tại công ty;
họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Chứng minh thư nhân dân, Hộ chiếu hay chứng
thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo ủy quyền….Trường hợp có sự thay đổi
về người đại diện theo ủy quyền của cổ đông là tổ chức thì công ty phải gửi thông báo về
người đại diện theo ủy quyền đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn năm ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được thông báo.(xem thêm Khoản 3 Điều 96 LDN năm 2005).
b.Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ĐHĐCĐ
Với tư cách là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của CTCP, ĐHĐCĐ có quyền xem
xét và quyết định những vấn đề chủ yếu, quan trọng nhất của CTCP như: loại cổ phần và
tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên
HĐQT, thành viên BKS (nếu có); quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; quyết định tổ
chức lại, giải thể công ty... các quyền và nghĩa vụ cụ thể của ĐHĐCĐ được quy định tại
LDN năm 2005 và Điều lệ công ty.
c. Hoạt động của ĐHĐCĐ
Là cơ quan tập thể, ĐHĐCĐ không làm việc thường xuyên mà chỉ tồn tại trong thời
gian họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến của các cổ đông
có quyền biểu quyết bằng văn bản.
ĐHĐCĐ họp ít nhất mỗi năm một lần và được triệu tập bởi HĐQT. Chủ tịch HĐQT chủ
tọa cuộc họp ĐHĐCĐ. Thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ, điều kiện, thể thức tiến hành họp và
ra quyết định của ĐHĐCĐ được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 97 đến Điều
106 Luật DN năm 2005.
* So với LDN năm 1999, LDN năm 2005 quy định cụ thể hơn về hình thức, thời gian,
địa điểm họp ĐHĐCĐ. HĐQT phải triệu tập họp bất thường ĐHĐCĐ trong các trường hợp
sau đây: HĐQT xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty; Số thành viên HĐQT còn lại ít hơn
số thành viên theo quy định của pháp luật; Theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở
hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một
7
tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty; Theo yêu cầu của BKS; Các trường hợp
khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty…(khoản 3, Điều 97 LDN 2005)
* Điểm mới đáng lưu ý về thẩm quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ là trong trường hợp
HĐQT không triệu tập ĐHĐCĐ như quy định thì Chủ tịch HĐQT phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại phát sinh với công ty. Tương tự như vậy, trong
trường hợp BKS không triệu tập họp ĐHĐCĐ như quy định thì Trưởng BKS phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại phát sinh với công ty. Việc bổ sung
quy định mới này là cần thiết, nhằm đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân người có thẩm
quyền. Chủ tịch HĐQT và Trưởng BKS là những người giữ trọng trách trong hoạt động của
CTCP. Ngoài ra, Luật cũng bổ sung quy định cổ đông hoặc nhóm cổ đông triệu tập họp
ĐHĐCĐ trong trường hợp BKS không triệu tập họp ĐHĐCĐ có thể đề nghị cơ quan đăng
ký kinh doanh giám sát việc triệu tập và tiến hành họp nếu xét thấy cần thiết. Quy định này
nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của DN trong những trường
hợp cần thiết.
* Về điều kiện, thể thức tiến hành họp ĐHĐCĐ, Điều 76 LDN năm 1999 quy định chủ
yếu về điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ mà chưa đề cập cụ thể đến thể thức họp và biểu
quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ. Nhằm bổ sung những khiếm khuyết này LDN năm 2005 đã
dành 2 điều quy định về điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ (Điều 102), thể thức tiến hành
họp và biểu quyết tại ĐHĐCĐ (Điều 103). Thay đổi đáng kể nhất trong điều kiện tiến hành
họp ĐHĐCĐ là cuộc họp ĐHĐCĐ chỉ được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít
nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Cuộc họp ĐHĐCĐ triệu tập lần thứ hai
được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu
quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ công ty quy định. Trước đây, tỷ lệ triệu tập họp lần thứ nhất
chỉ là 51%, lần thứ 2 là 30%. Việc thay đổi tỷ lệ này một mặt nhằm đảm bảo sự phù hợp với
pháp luật quốc tế, mặt khác cũng đảm bảo cho DN hoạt động có hiệu quả, tránh việc lạm
dụng quyền hạn của nhóm cổ đông.
* Quy định về việc thông qua quyết định của ĐHĐCĐ có nhiều điểm mới: LDN năm
2005 quy định cụ thể về các quyết định phải được thông qua bằng biểu quyết tại cuộc họp
ĐHĐCĐ như: sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; thông qua định hướng phát triển công ty;
quyết định loại và tổng số cổ phần từng loại được quyền chào bán; bầu; miễn nhiệm, bãi
nhiệm thành viên HĐQT và BKS; quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc
lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu
Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác; thông qua báo cáo tài chính hàng năm; tổ
chức lại, giải thể công ty.
- Quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua khi được số cổ đông đại diện ít nhất 65%
tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận. Đối với các vấn đề quan
trọng như quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán;
8
sửa đổi bổ sung Điều lệ công ty; tổ chức lại, giải thể công ty; quyết định đầu tư hoặc bán số
tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính
gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác thì phải được số cổ
đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp
nhận(Điều 104). Việc quy định tỷ lệ biểu quyết tăng từ 51% lên 65%, 75% như trong LDN
năm 2005 là nhằm bảo đảm sự thống nhất ý chí nguyện vọng của các cổ đông trong công ty.
- Việc thông qua quyết định của ĐHĐCĐ, bên cạnh hình thức họp truyền thống, LDN
năm 2005 còn bổ sung một hình thức mới là lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản (Điều 105).
Theo đó, HĐQT có quyền lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua quyết định của
ĐHĐCĐ bất cứ lúc nào nếu xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty. HĐQT phải chuẩn bị
phiếu lấy ý kiến, dự thảo quyết định của ĐHĐCĐ và các tài liệu giải trình dự thảo quyết
định. Phiếu lấy ý kiến kèm theo dự thảo quyết định và tài liệu giải trình phải được gửi bằng
phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của từng cổ đông. Đối với trường hợp
này, sau khi kiểm tra phiếu thì quyết định của ĐHĐCĐ được thông qua nếu được số cổ
đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận.
2.Hội đồng quản trị (HĐQT)
a.Thành viên HĐQT
Thành viên HĐQT do ĐHĐCĐ bầu ra, gồm 3 đến 11 thành viên, trong đó số lượng
thành viên phải thường trú ở Việt Nam do Điều lệ công ty quy định. Nhiệm kỳ của thành
viên HĐQT là nhiệm kỳ của HĐQT nhưng thành viên HĐQT có thể được bầu lại với số
nhiệm kỳ không hạn chế. Trong trường hợp có thành viên được bầu bổ sung để thay thế
thành viên bị miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm thì nhiệm kỳ của thành viên đó là thời gian còn lại
của nhiệm kỳ HĐQT. Thành viên HĐQT có thể bị bãi nhiệm, miễn nhiệm bởi quyết định
của ĐHĐCĐ. Thành viên HĐQT có thể là cổ đông hay cũng có thể không phải là cổ đông
của công ty. LDN năm 2005 quy định cụ thể về thành viên HĐQT tại Điều 109, Điều 110,
Điều 114, Điều 115.
So với quy định của LDN năm 1999 (Khoản 4 Điều 80) vấn đề nhiệm kỳ, số lượng
thành viên, tiêu chuẩn và điều kiện thành viên HĐQT đã được quy định cụ thể hơn và được
tách thành hai điều riêng biệt ( Điều 109 và Điều 110).
Trước đây LDN năm 1999 không quy định số lượng tối thiểu thành viên HĐQT mà chỉ
quy định số lượng tối đa (gồm không quá 11 người); nhiệm kỳ, tiêu chuẩn thành viên
HĐQT do Điều lệ công ty quy định. Tuy nhiên, nhằm tạo lập khung pháp lý cho việc tổ
chức hoạt động của DN, LDN năm 2005 quy định: HĐQT có không ít hơn 3 thành viên và
không quá 11 thành viên, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Nhiệm kỳ của
HĐQT là 5 năm. Nhiệm kỳ của thành viên HĐQT không quá 5 năm và thành viên HĐQT
9
có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Thành viên HĐQT không nhất thiết
phải là cổ đông của công ty.
Thành viên HĐQT phải là người có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng
bị cấm quản lý DN và là cổ đông cá nhân sở hữu ít nhất 5% tổng số cổ phần phổ thông hoặc
người khác có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh hoặc trong
ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác theo quy định
của Điều lệ công ty. Đối với công ty con là công ty mà Nhà nước sở hữu cổ phần trên 50%
vốn điều lệ thì thành viên HĐQT không được là người liên quan của người quản lý, người
có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ.
Đối với Chủ tịch HĐQT, nếu như trước đây, theo quy định của LDN năm 1999 (Điều
81) Chủ tịch HĐQT do HĐQT bầu trong số thành viên HĐQT. Nay, theo quy định của
LDN năm 2005 (Điều 111) thì việc bầu Chủ tịch HĐQT quy định theo hướng mở, giao
quyền tự chủ cho DN: ĐHĐCĐ hoặc HĐQT bầu Chủ tịch HĐQT theo quy định tại điều lệ
công ty. Nếu HĐQT bầu Chủ tịch thì HĐQT bầu 1 người (trong số thành viên HĐQT) làm
Chủ tịch HĐQT. Chủ tịch HĐQT có thể kiêm giám đốc (tổng giám đốc) công ty, trừ trường
hợp điều lệ công ty quy định khác.
Liên quan đến việc miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, ngoài trường hợp không
đủ điều kiện và tiêu chuẩn làm thành viên, có đơn xin từ chức hay các trường hợp do Điều
lệ công ty quy định, LDN năm 2005 bổ sung một trường hợp miễn nhiệm, bãi nhiệm thành
viên HĐQT, đó là thành viên HĐQT không tham gia hoạt động của HĐQT trong 6 tháng
liên tục, trừ trường hợp bất khả kháng. Việc bổ sung quy định này nhằm nâng cao trách
nhiệm của thành viên HĐQT trong việc điều hành hoạt động của công ty. Ngoài các trường
hợp trên, thành viên HĐQT có thể bị miễn nhiệm bất cứ lúc nào theo quyết định của
ĐHĐCĐ.
b. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT
HĐQT là cơ quan quản lý của công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của
ĐHĐCĐ. Các quyền và nhiệm vụ cụ thể của HĐQT được quy định trong LDN và điều lệ
công ty. LDN năm 2005 đã quy định nhiệm vụ quyền hạn của HĐQT tại Điều 108.
So với LDN năm 1999 thì LDN năm 2005 quy định HĐQT được bổ sung một quyền
mới là giám sát chỉ đạo GĐ (hoặc TGĐ) và người quản lý khác trong điều hành công việc
kinh doanh hàng ngày của công ty. Việc bổ sung quy định này nhằm giám sát chặt chẽ hơn
nữa hoạt động của những người quản lý công ty, tránh tình trạng lạm dụng quyền hạn hay
thực hiện giao dịch trái pháp luật.
10
Đồng thời theo quy định của LDN năm 2005 nghĩa vụ của HĐQT cũng được bổ sung:
Khi thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình, HĐQT tuân thủ đúng quy định của pháp
luật, Điều lệ công ty và quyết định của ĐHĐCĐ. Trong trường hợp quyết định của HĐQT
thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc điều lệ công ty gây thiệt hại cho công ty thì
các thành viên chấp thuận thông qua quyết định đó phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về
quyết định đó và phải đền bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối không thông qua
quyết định nói trên được miễn trừ trách nhiệm (Điều 108).
c. Hoạt động của HĐQT
Họp HĐQT là một nội dung quan trọng trong hoạt động của HĐQT. HĐQT họp định
kỳ hoặc bất thường nhưng phải họp ít nhất một quý một lần tại trụ sở chính hoặc nơi khác.
Cuộc họp HĐQT được LDN năm 2005 quy định cụ thể tại Điều 112.
Các quy định về cuộc họp HĐQT trong LDN năm 2005 cũng có nhiều thay đổi so với
LDN năm 1999: Điều 112 LDN năm 2005 quy định cụ thể các trường hợp Chủ tịch HĐQT
có quyền triệu tập họp HĐQT mà không quy định chung chung như LDN năm 1999. Theo
đó, Chủ tịch HĐQT phải triệu tập HĐQT khi có đề nghị của BKS; của giám đốc (Tổng
giám đốc) hoặc ít nhất 5 người quản lý khác; của ít nhất 2 thành viên HĐQT hoặc các
trường hợp khác theo quy định của Điều lệ công ty. Đề nghị triệu tập họp HĐQT phải được
lập thành văn bản, trong đó nêu rõ mục đích, vấn đề cần thảo luận và quyết định thuộc thẩm
quyền của HĐQT.
Cuộc họp HĐQT được tiến hành khi có 3/4 tổng số thành viên trở lên dự họp (trước đây
tỷ lệ này là 2/3). Quyết định của HĐQT được thông qua nếu được đa số thành viên dự họp
chấp thuận; trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định cuối cùng thuộc về phía có ý
kiến của Chủ tịch HĐQT.
Trong các cuộc họp HĐQT, việc ghi biên bản vào sổ biên bản là vấn đề quan trọng. Do
vậy, LDN năm 2005 đã dành 1 Điều (Điều 113) để quy định về biên bản họp HĐQT. Biên
bản phải có đầy đủ các nội dung sau: tên, địa chỉ trụ sở chính, số và ngày cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, nơi đăng ký kinh doanh; mục đích, chương trình và nội dung họp;
thời gian, địa điểm họp; họ, tên từng thành viên họp hoặc người được quyền dự họp; họ tên
các thành viên không dự họp và lý do; các vấn đề được thảo luận và biểu quyết tại cuộc
họp; tóm tắt phát biểu ý kiến của từng thành viên dự họp, kết quả biểu quyết….. Chủ tọa và
thư ký phải chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của biên bản họp HĐQT. Biên
bản họp HĐQT lập bằng tiếng Việt và có thể cả bằng tiếng nước ngoài. Biên bản lập bằng
tiếng Việt và tiếng nước ngoài có giá trị ngang nhau.
3. Giám đốc (Tổng giám đốc)
11
Cũng giống như LDN năm 1999, LDN năm 2005 tiếp tục quy định GĐ (TGĐ) là người
điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu sự giám sát của HĐQT và chịu
trách nhiệm trước HĐQT, trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được
giao.
HĐQT bổ nhiệm một người trong số các thành viên hoặc thuê người khác làm GĐ
(TGĐ). Giám đốc (TGĐ) là người đại diện theo pháp luật của công ty nếu điều lệ công ty
không quy định Chủ tịch HĐQT có tư cách này.
Các quyền và nhiệm vụ cụ thể của GĐ (TGĐ) được quy định trong LDN và điều lệ
công ty. So với LDN năm 1999, tại Điều 116 LDN năm 2005 quy định một số vấn đề liên
quan đến nhiệm kỳ, chế độ trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ, chế độ lương, tiền thưởng của
GĐ (TGĐ) đầy đủ hơn. Cụ thể:
- Nhiệm kỳ của GĐ (TGĐ) là không quá 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại với số
nhiệm kỳ không hạn chế.
- GĐ (TGĐ) công ty không đồng thời là GĐ (TGĐ) của công ty khác.
- GĐ (TGĐ) được trả lương và tiền lương căn cứ vào kết quả và hiệu quả kinh doanh.
Tiền lương của GĐ (TGĐ) do HĐQT quyết định.
- GĐ (TGĐ) được bổ sung thêm 2 quyền mới so với LDN năm 1999, đó là: quyền tuyển
dụng lao động và quyền kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh.
Đồng thời, Luật cũng bổ sung quy định GĐ (TGĐ) có trách nhiệm điều hành công việc kinh
doanh hàng ngày theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao đồng kí
với công ty và quyết định của HĐQT; nếu điều hành trái với quy định này mà gây thiệt hại
cho công ty thì GĐ (TGĐ) phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt hại cho
công ty.
4. Ban kiểm soát (BKS)
Hoạt động của công ty luôn tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện những giao dịch bất minh do sự
lạm dụng quyền lực của những nhà quản lý, lãnh đạo công ty. Do đó, BKS ra đời để hạn chế
tình trạng này. LDN năm 2005 quy định về thành viên, quyền hạn, nhiệm vụ và một số vấn
đề khác về BKS khá cụ thể từ Điều 121 đến Điều 127.
CTCP có trên 11 cổ đông phải có BKS gồm từ 3 đến 5 thành viên. Các thành viên BKS
do ĐHĐCĐ bầu ra. BKS phải có hơn một nửa số thành viên thường trú tại Việt Nam. BKS
thay mặt các cổ đông kiểm soát các hoạt động của công ty, chủ yếu là các vấn đề tài chính,
vì vậy phải có ít nhất một thành viên BKS có trình độ chuyên môn về kế toán. BKS bầu 1
thành viên làm trưởng ban. BKS chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ về việc thực hiện nhiệm
12
vụ, quyền hạn được giao. So với LDN năm 1999, LDN năm 2005 quy định về BKS đầy đủ
và cụ thể hơn. Đó là:
- Về nhiệm kỳ của BKS: BKS có nhiệm kỳ không quá 5 năm; các thành viên BKS có thể
được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế (Điều 121).
- Về tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên BKS: thành viên BKS phải từ 21 tuổi trở
lên, đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý DN,
không phải vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của
thành viên HĐQT, GĐ (TGĐ) và người quản lý khác của công ty. Thành viên BKS không
được giữ các chức vụ quản lý công ty và không nhất thiết phải là cổ đông hay người lao
động của công ty (Điều 122).
- Về nhiệm vụ, quyền hạn của BKS: BKS có quyền và nhiệm vụ xem xét sổ kể toán và
các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty bất cứ
lúc nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của ĐHĐCĐ hoặc theo yêu cầu của cổ
đông hoặc nhóm cổ đông. Khi có yêu cầu của cổ đông hay nhóm cổ đông sở hữu trên 10%
tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng hoặc 1 tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định trong Điều lệ công ty thì BKS có trách nhiệm thực hiện kiểm tra trong thời hạn 7
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết thúc
điều tra, BKS phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến HĐQT và
cổ đông, nhóm cổ đông có yêu cầu. Việc kiểm tra của BKS không được làm cản trở tới hoạt
động bình thường của HĐQT, không gây gián đoạn điều hành hoạt động của công ty. Khi
phát hiện có thành viên HĐQT, GĐ (TGĐ) vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty thì
phải thông báo ngay bằng văn bản với HĐQT, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt
ngay hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. BKS có quyền sử dụng tư vấn độc
lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Việc mở rộng quyền hạn của BKS là nhằm nâng
cao vai trò của BKS đối với hoạt động của công ty, đảm bảo cho công ty hoạt động hiệu
quả, đặc biệt tránh tình trạng gian lận trong tài chính (Điều 123).
- Về thù lao và các lợi ích khác của thành viên BKS: thành viên BKS được trả thù lao
theo công việc và được hưởng các lợi ích khác theo quyết định của ĐHĐCĐ. ĐHĐCĐ
quyết định tổng mức thù lao và ngân sách hoạt động hàng năm của BKS căn cứ vào số ngày
làm việc dự tính, số lượng và tính chất công việc và mức thù lao bình quân hàng ngày của
thành viên. Thành viên BKS được thanh toán chi phí ăn, đi lại, ở, chi phí sử dụng dịch vụ tư
vấn độc lập với mức hợp lý. Tổng mức thù lao và chi phí này không được vượt quá tổng
ngân sách hoạt động hàng năm của BKS đã được ĐHĐCĐ chấp thuận, trừ trường hợp
ĐHĐCĐ có quyết định khác. Thù lao và chi phí hoạt động của BKS được tính vào chi phí
kinh doanh theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập DN, pháp luật có liên quan và phải
lập thành mục riêng trong báo cáo tài chính hàng năm của công ty.
13
III. Nhận xét về các quy định của pháp luật Việt Nam về tổ chức quản lý
Công ty Cổ phần và một số ý kiến đề xuất:
1.Nhận xét.
Xét về khía cạnh tổ chức quản lý CTCP, LDN năm 2005 đã xác định nền tảng cho cơ
chế điều hành hoạt động giữa các bộ phận trong công ty. Như đã phân tích ở trên, so với
LDN năm 1999, LDN năm 2005 đã có quy định đầy đủ, phù hợp, toàn diện hơn…góp phần
tạo lập khung pháp lý để hình thành một cơ cấu quản lý có hiệu quả cho các CTCP hiện
nay.
Đi đôi với quyền lợi thì LDN năm 2005 cũng xác định rõ hơn các nghĩa vụ của người
quản lý, nhất là đối với thành viên HĐQT và giám đốc, đặc biệt là nghĩa vụ trung thành,
trung thực và cẩn trọng; thiết lập chế độ thù lao, tiền lương gắn với kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp; yêu cầu công khai và minh bạch hóa, nhất là đối với những người
quản lý...
Tuy vậy, kiến thức về quản lý công ty cũng như thực tế triển khai về quản lý công ty
vẫn còn mới mẻ. Nhiều CTCP đã và đang gặp phải các vấn đề liên quan đến tổ chức quản lý
công ty. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy các CTCP trong nước cần nghiên cứu và tiến tới áp
dụng những chuẩn mực về quản lý trong hoạt động của mình.
Về phương diện lý luận, sự hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức quản lý
công ty luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Đó
là một quá trình liên tục, lâu dài với những bước đi và giải pháp thích hợp…cụ thể như :
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức quản lý CTCP phải căn cứ vào những
đặc điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam; phải phù hợp với đặc điểm văn hóa kinh
doanh của người Việt Nam đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế…..
2.Một số ý kiến đề xuất
LDN năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01/7/2006; tuy chưa có đủ cơ sở để tổng kết một
cách đầy đủ các vướng mắc đã và đang nảy sinh trong quá trình thực hiện Luật này (vì thời
gian mà LDN năm 2005 đi vào thực tế chưa nhiều) song, sau khi nghiên cứu các vướng mắc
đã được trình bày và dựa trên những định hướng cơ bản trên, em xin đưa ra một số ý kiến đề
xuất:
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về mở rộng công khai thông tin về CTCP. Thông tin đầy
đủ, minh bạch là một yếu tố đánh giá sức mạnh quản lý của CTCP. Đây là nền tảng quan
trọng để các nhà quản lý đề ra kế hoạch hoạt động cho công ty, đồng thời cũng là cơ sở để
các nhà đầu tư và đối tác có quyết định đúng đắn. Điều 129 LDN năm 2005 đã quy định về
“Công khai thông tin về CTCP”. Vấn đề đặt ra là thông tin được công khai nhưng đó phải
14
là những thông tin chính xác, phản ánh đúng thực trạng và năng lực của công ty. Có một số
trường hợp công ty thông tin không chính xác vì nhiều mục đích khác nhau, ví dụ như: báo
cáo tài chính hàng năm thường mang tính chất đối phó nên tính trung thực và độ chính xác
không cao; lưu trữ các thông tin về công ty chưa được thực hiện nghiêm chỉnh; bản cáo
bạch không đáp ứng được yêu cầu. Như vậy, để thông tin về CTCP thực sự minh bạch và
chính xác, chúng ta cần bổ sung các quy định về giám sát lập bản báo cáo tài chính, bản cáo
bạch...; buộc doanh nghiệp cam kết về tính chính xác và có những chế tài xử phạt nếu vi
phạm; quy định cụ thể hơn về trình tự, yêu cầu về lưu trữ thông tin tại DN.
Thứ hai, Điều 111 khoản 1LDN năm 2005 quy định “Chủ tịch HĐQT có thể kiêm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác”. Quy
định này là không hợp lý, gây cản trở cho tổ chức quản lý công ty. Vì vậy, để tăng cường
chức năng giám sát của HĐQT, đảm bảo sự cân bằng về quyền lực, nâng cao tính độc lập,
trách nhiệm cá nhân trong quản lý, điều hành công ty, cần phải quy định phân tách rõ ràng
vai trò của Chủ tịch HĐQT và giám đốc (Tổng giám đốc).
Thứ ba, đa dạng các hình thức bỏ phiếu để có thể linh hoạt bầu ra bộ máy quản lý công
ty. Phân tích Điều 104 khoản 3 LDN năm 2005 có thể thấy hạn chế của quy định này. Vì
vậy, nên quy định sử dụng cả phương pháp bỏ phiếu truyền thống và bầu dồn phiều. Với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ rất phổ biến ở Việt Nam hiện nay thì bỏ phiếu truyền thống đơn
giản, dễ tiến hành và thuận lợi cho tổ chức quản lý CTCP. Còn với các DN quy mô lớn, việc
áp dụng bầu dồn phiếu lại tận dụng được ưu điểm của phương này, đảm bảo quyền và lợi
ích cho cổ đông thiểu số.
Thứ tư, về chuyển cổ phần cho người thừa kế và trong trường hợp chia tài sản ly hôn.
Đây cũng là vấn đề mà luật cần bổ sung. Bởi Bộ luật dân sự năm 2005 và LDN năm cho
2005 đều là những đạo luật quan trọng. Quy định cụ thể vấn đề này là rất cần thiết để tránh
xung đột trong hệ thống pháp luật, đồng thời tạo điều kiện để giải quyết các vụ việc trên
thực tế.
Thứ năm, quy định về trách nhiệm đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh khi sở hữu
từ 5% tổng số cổ phần trở lên của cổ đông. Quy định này cũng cần phải sửa đổi vì nó làm
nhà đầu tư e ngại. Có thể sửa đổi theo hai hướng:
- Hướng thứ nhất, đó là thay đổi điều kiện về tỷ lệ cổ phần thành giá trị cổ phần, ví dụ
như sở hữu cổ phần có giá trị từ 500 triệu đồng, 300 triệu đồng...
- Hướng thứ hai là quy định nghĩa vụ này chỉ với công ty có quy mô lớn. Như vậy quản
lý Nhà nước với những người có sở hữu lớn mới hiệu quả, tránh trường hợp các cổ đông
trong các công ty nhỏ sở hữu trên 5% cổ phần cũng phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký, cồng
kềnh về quản lý, không cần thiết.
15
Thứ sáu, cần quy định cụ thể về những “người quản lý khác” được đề cập trong Điều
112 và Điều 118 LDN năm 2005. Đây là yêu cầu cần thiết trong xây dựng bộ máy quản lý
hiện nay. Sự phát triển quy mô của DN luôn đi đôi với yêu cầu quản lý, nhất là trong xu thế
phát triển hiện nay: đa ngành, liên doanh, liên kết... Ngoài những bộ phận quản lý lớn như
ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ (TGĐ), BKS thì các bộ phận quản lý khác cũng rất quan trọng. Ở đây
cũng không cần quy định quá chi tiết, mà nên bổ sung một cách khái quát về vị trí của các
bộ phận này. Như vậy mới đáp ứng được nhu cầu trong quản lý CTCP.
Thứ bảy, về cử đại diện của cổ đông là tổ chức vào HĐQT. Đây cũng là điều cần bổ
sung trong quy định pháp luật về tổ chức quản lý công ty cổ phần. Các vấn đề cần bổ sung
bao gồm: điều kiện với tổ chức được cử người đại diện...Như vậy mới đảm bảo bình đẳng
giữa cổ đông là cá nhân và cổ đông là tổ chức.
Thứ tám, về khiếu nại với quyết định của ĐHĐCĐ, quy định tại Điều 107 không phù
hợp với chức năng quyền hạn của trọng tài quy định tại Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Như vậy, nên sửa đổi Điều 107 theo hướng bỏ thẩm quyền của trọng tài trong xem xét, hủy
bỏ quyết định của ĐHĐCĐ.
C. KẾT LUẬN
Các quy định về CTCP và vấn đề tổ chức quản lý CTCP giữ một vai trò quan trọng
trong hệ thống pháp luật kinh tế của các quốc gia. Qua từng thời kỳ, pháp luật Việt Nam đã
có những tiến bộ đáng kể khi quy định về vấn đề này. LDN năm 2005 đã quy định khá chi
tiết và đầy đủ về tổ chức và quản lý CTCP, đây cũng là những quy định chi tiết nhất so với
các loại hình DN khác. Và về cơ bản những quy định này đã khắc phục được những hạn chế
trong LDN năm 1999 và đã dần “tiệm cận” được những nguyên tắc quản trị trên thế giới.
Nhìn chung, những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tổ chức quản lý CTCP đã
đáp ứng được một số nhu cầu của nền kinh tế mới. Tuy nhiên, cũng còn có những hạn chế
cần khắc phục. Vì vậy, hoàn thiện các quy định về tổ chức quản lý CTCP là một yêu cầu
cấp thiết để tạo ra một môi trường pháp luật hiện đại, lành mạnh, phù hợp với điều kiện Việt
Nam và pháp luật quốc tế.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại (tập
1,tr.164), Nxb.CAND, Hà Nội, 2007.
2.Nguyễn Thị Khế, Pháp luật về các hình thức tổ chức kinh doanh, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr.86
3.Cao Thị Kim Trinh, Tổ chức quản lý nội bộ CTCP- những vấn đề lý luận
và thực tiễn – Luận văn thạc sỹ Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội.
4.Nguyễn Thanh Bình, Những đặc trưng của quản lý Nhà nước bằng pháp
luật đối với CTCP, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2004
5.Luật Doanh nghiệp năm 1999.
6.Luật Doanh nghiệp năm 2005.
7. Website :
17