MỞ ĐẦU
Hiện nay, các vụ án hính sự ngày càng tăng nhanh về số lượng cũng như tính chất,
mức độ nguy hiểm của tội phạm. Để bảo vệ tốt hơn quyền và nghĩa vụ của những người
tham gia tố tụng với tư cách BCBC, NBTG, số lượng người bào chữa cũng ngày càng tăng
nhanh. Điều này cho thấy nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của BCBC, NBTG đang
ngày càng được thực hiện có hiệu quả. Người bào chữa ngày càng có vai trò quan trọng
trong quá trình tố tụng, vì vậy vấn đề vai trò địa vị pháp lí của người bào chữa được pháp
luật quy định như thế nào càng cần được quan tâm. Vì vậy, bài tiểu luận này, em xin trình
bày về vấn đề: “Địa vị pháp lí của người bào chữa trong tố tụng hình sự.” Qua đó, chúng
ta có thể thấy được, người bào chữa có địa vị pháp lí như thế nào, thực tế áp dụng cũng như
các biện pháp để hoàn thiện nâng cao vị thế vai trò của người bào chữa trong quá trình tố
tụng.
NỘI DUNG
I) Một số vấn đề chung về người bào chữa:
1.1) Khái niệm người bào chữa :
Theo quan điểm của một số nước trên thế giới, người bào chữa là những người có
kiến thức pháp lí được BCBC hoặc người được pháp luật cho phép mời để tiến hành hoạt
động bào chữa, nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị người tạm giữ,
người bị tình nghi, của BCBC.
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có một văn bản pháp lí nào đưa ra được định nghĩa về
người bào chữa, về bản chất, pháp luật nước ta quan niệm về người bào chữa cũng tương tự
như định nghĩa mà một số nước đưa ra, có thể hiểu: người bào chữa là người được BCBC,
NBTG trực tiếp trao toàn bộ hoặc một phần quyền bào chữa của mình để tham gia bảo vệ
cho quyền lợi ích của họ. Theo quy định của pháp luật, người bào chữa có thể là: Luật sư;
người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC; bào chữa viên nhân dân. Trong đó:
Người bào chữa do người bị giữ, BCBC hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa
chọn. Ngoài ra, trong một số trường hợp nếu BCBC hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu
1
đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành
viên của tổ chức mình.
Người bào chữa thông thường không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, họ
tham gia tố tụng là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, người
bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng, cũng không thể đồng nhất người bào chữa
với người bảo vệ quyền lợi của đương sự quy định.
1.2) Thời điểm tham gia tố tụng;
Căn cứ theo khoản 1 điều 58 BLTTHS, người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi
tố bị can. Đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hay bắt người phạm tội
quả tang hoặc đang bị truy nã (theo điều 81 và điều 82 BLTTHS), thì người bào chữa được
tham gia ngay từ khi có quyết định tạm giữ. Ngoài ra, đối với những tội xâm phạm an ninh
quốc gia cần giữ bí mật điều tra, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào
chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Đối với thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định tạm giữ,
đây là một điểm mới, thể hiện sự tiến bộ hơn của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988, quy
định này đảm bảo cho việc bắt giữ, khởi tố của cơ quan điều tra là đúng pháp luật, có căn
cứ tránh sự lạm quyền, giúp cho người bào chữa được tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội và những
tình tiết giảm nhẹ cho bị can. Thời điểm tham gia tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
hoạt động bào chữa trong suốt quá trình tham gia tìm hiểu, theo dõi vụ án.
1.3) Vai trò của người bào chữa:
Một trong những nguyên tắc của BLTTHS là “đảm bảo quyền bào chữa của NBTG,
BCBC”. Để đảm bảo nguyên tắc này, pháp luật cho phép BCBC, NBTG thực hiện quyền
này thông qua việc tự bào chữa hoặc lựa chọn người khác để bào chữa cho mình. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy, quá trình giải quyết một vụ án hình sự trải qua rất nhiều bước với
nhiều thủ tục pháp lí khác nhau đòi hỏi người bào chữa phải có chuyên môn trình độ pháp lí
nhất định mới có thể thực hiện quyền bào chữa một cách có hiệu quả, đối với việc tự bào
chữa điều này rất khó khăn do người cần được bào chữa là BCBC, NBTG lại đều là những
người có kiến thức pháp lí thấp và hạn chế. Ngoài ra, do tâm lí của BCBC, NBTG thường
2
không được ổn định, không đủ tỉnh táo khi họ đang là người trong phạm vi nghi vấn chịu
sự kiểm soát của pháp luật; vì vậy, khả năng thực hiện quyền tự bào chữa của họ cũng bị
hạn chế. Vì vậy, việc tham gia của người bào chữa đại diện cho quyền lợi của BCBC,
NBTG sẽ góp phần tích cực đảm bảo quyền bào chữa của BCBC, NBTG. Ngoài ra, người
bào chữa tham gia vào tố tụng sẽ góp phần giải quyết vụ án một cách khách quan hơn, tăng
cường tính dân chủ trong hoạt động tư pháp, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa; cùng với
đó, hạn chế sự chuyên quyền của cơ quan tiến hành tố tụng.
II) Địa vị pháp lí của người bào chữa:
2.1) Quyền của người bào chữa (theo khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003)
Quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên thì
được hỏi NBTG, bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác; xem các biên
bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan
đến người mà mình bào chữa:
Việc người bào chữa có mặt trong những hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi
tham gia tố tụng và được cấp giấy chứng nhận người bào chữa thì luật sư bào chữa có thể
tham gia vào các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật. Người bào chữa tham gia
tố tụng là để tìm hiểu vụ án và biết cơ quan điều tra có tiến hành các nghiệp vụ điều tra đối
với người được bào chữa có đúng pháp luật và khách quan hay không? Trường hợp phát
hiện sự việc vi phạm hoặc người được bào chữa không có hành vi phạm tội…thì người bào
chữa có quyền kiến nghị với Điều tra viên, thủ trưởng cơ quan điều tra hoặc kiếm sát viên
nhân dân theo quy định của pháp luật.
Với tư cách là người gỡ tội, người bào chữa cần thiết phải nắm được toàn bộ vụ án xuyên
suốt ngay từ giai đoạn khởi tố để điều tra đến tận khi có bản án của Tòa án. Hơn nữa, khi có
mặt của người bào chữa thì NBTG, BCBC sẽ ổn định về mặt tâm lí hơn, người tiến hành
hoạt động điều tra sẽ thận trọng và tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được
quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị bào
chữa và tham gia tranh tụng của họ tại phiên tòa. Người bào chữa có quyền hỏi NBTG, bị
can khi điều tra viên cho phép để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người được bào
chữa. Người bào chữa còn có quyền tham gia vào các hoạt động điều tra khác nếu được sự
đồng ý của điều tra viên như: lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; đối chất, nhận dạng; khám xét, thu
3
giữ, tạm giữ; khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; xem xét dấu vết trên thân thể;
thực nghiệm điều tra, giám định....
Quyền đề nghị cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để
có mặt khi hỏi cung bị can:
Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa có thể chủ động về thời gian để
thực hiện quyền có mặt trong các hoạt động điều tra mà mình thấy cần thiết đặc biệt là
quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, BCBC và được tham gia hỏi cung khi điều tra
viên đồng ý. Đây là một điểm tiến bộ hơn so với BLTTHS 1988, tạo sự tích cực chủ động
từ hai phía từ người bào chữa cũng như cơ quan tiến hành tố tụng.
Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch:
Quyền này xuất phát từ nguyên tắc đảm bảo sự vô tư khách quan của những người tiến
hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng. Sự kết hợp giữa quyền đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch và các quyền khác của người bào
chữa đã tạo nên cơ chế hữu hiệu cho người bào chữa một vị trí quan trọng trong hoạt động
tố tụng, giúp luật sư thực hiện tốt vai trò của mình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
BCBC, NBTG.
Quyền thu thập tài liệu đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ NBTG, BCBC,
người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức cá nhân theo yêu cầu
của NBTG, BCBC nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
Người bào chữa muốn bào chữa tốt không chỉ dựa vào những chứng cứ, tài liệu do cơ quan
điều tra thu thập được, làm như vậy sẽ bị ảnh hưởng bởi kết quả của cơ quan điều tra đã
đưa ra hoặc kết luận do đó luật sư cần phải có quyền tự mình thu thập những tài liệu đồ vật,
tình tiết có liên quan đến vụ án. Đây là biện pháp rất quan trọng để người bào chữa bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC góp phần đảm bảo tính khách quan, chính xác
của hoạt động tố tụng. Pháp luật quy định chặt chẽ trình tự thủ tục thu thập chứng cứ của cơ
quan tiến hành tố tụng vì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành
tố tụng nhưng không quy định cụ thể trình tự thu thập tài liệu đồ vật của người bào chữa, vì
người bào chữa không có nghĩa vụ không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội nhưng
có quyền đưa ra các tài liệu đồ vật để bào chữa. Đây là một điểm tiến bộ so với BLTTHS
1988, người bào chữa đã có thể góp phần vào việc thu thập chứng cứ thông qua việc thu
4
thập các tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án để được các cơ quan tiến hành tố tụng
có thẩm quyền công nhận theo thủ tục, trình tự luật định mới có thể trở thành chứng cứ; tạo
điều kiện cho người bào chữa tìm ra các tình tiết có lợi cho người được bào chữa, thực hiện
quyền bào chữa tốt hơn và chủ động hơn.
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Về căn bản quyền này của người bào chữa không khác mấy so với quy định tại BLTTHS
1988, tuy nhiên quyền này của người bào chữa lại tiến bộ hơn khi BLTTHS 2003 lại có
thêm những quy định để đảm bảo cho quyền này của người bào chữa được thực hiện đó là
quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải trả lời cho người bào chữa
viết về việc giải quyết những yêu cầu của người bào chữa được quy định tại điều 122
BLTTHS. Quyền này của người bào chữa bổ sung thêm cho quyền thu thập tài liệu, đồ vật
liên quan đến vụ án như đã nêu trên, khi đã thu thập được các tình tiết, đồ vật có lợi cho
người được bào chữa, người bào chữa có quyền đưa những tài liệu, đồ vật đó cho các cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét đánh giá việc sử dụng những tài liệu, đồ vật
ấy là chứng cứ hay không. Quy định này đảm bảo cho việc những tài liệu, đồ vật, yêu cầu
mà người bào chữa đưa ra sẽ được cơ quan tiến hành tố tụng xem xét và giải quyết để hỗ
trợ cho việc tìm các căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC.
Gặp người đang bị tạm giữ, gặp BCBC đang bị tạm giam
Trao cho người bào chữa quyền này là rất cần thiết bởi, NBTG, BCBC là những người nắm
rõ các tình tiết vụ án nhất, người bào chữa muốn thực hiện tốt chức năng của mình ngoài
việc tìm hiểu vụ án qua các chứng cứ, tài liệu được các cơ quan điều tra cung cấp người
bào chữa cũng cần phải tiếp xúc trực tiếp với NBTG, BCBC. Người bào chữa phải thường
xuyên gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc với NBTG, BCBC để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết
của vụ án, đặc điểm nhân thân, diễn biến tâm lí, nguyện vọng của người được bào chữa.
Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào
chữa cho những người này; qua sự gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích rõ những vấn
đề pháp luật như quyền và nghĩa vụ của người được bào chữa trong từng giai đoạn; cũng có
thể tác động đến NBTG làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Ngoài ra, việc gặp gỡ người đang bị tạm giữ, BCBC đang bị tạm giam còn
giúp cho người bào chữa kịp thời phát hiện những sai phạm trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng .
5
Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào
chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
So với BLTHS 1988, quyền này của người bào chữa được mở rộng thêm, ngoài việc đọc và
ghi chép, người bào chữa còn có thể sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án, điều này giúp cho
việc nghiên cứu hồ sơ được thuận tiện hơn, tạo điều kiện cho người bào chữa nắm được nội
dung của vụ án, biết chính xác người được bào chữa bị buộc tội gì dựa trên những căn cứ
buộc tội nào. Qua việc đọc và ghi chép, sao chụp hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được
nội dung của vụ án, nắm được các tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm của người được
bào chữa, trên cơ sở đó có thẻ chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa
một cách chỉ động. Ngoài ra, thông qua việc đọc hồ sơ, tài liệu vụ án, người bào chữa cũng
có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều
tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại đối với cơ quan có thẩm quyền.
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa
Vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nhất là trong phiên tòa, phiên tòa chính là nơi
kiểm tra công khai các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để làm sánh tỏ các tình tiết và ra
phán quyết đối với bị cáo. Việc bào chữa có hiệu quả hay không sẽ được thể hiện ngay tại
phiên tòa xét xử, người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác
về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi
tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lí lẽ để bảo vệ bị cáo và
bác bỏ những lời buộc tội bị cáo. Không chỉ trao quyền cho người bào chữa, pháp luật còn
tạo cơ sở pháp lí quan trọng để họ thực hiện có hiệu quả các quyền đó. Để thực hiện việc
bào chữa tranh luận có hiệu quả, pháp luật còn có quy định để đảm bảo sư bình đẳng của
người bào chữa tại phiên tòa, “có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án”( theo điều 19 BLTTHS).
Về việc xét hỏi, người bào chữa cũng được tham gia xét hỏi tại phiên tòa và được xét hỏi
tất cả những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa để tìm ra những chứng cứ có lợi
cho người được bào chữa cũng như tạo điều kiện để việc tranh luận với viện kiểm sát được
hiệu quả hơn.
Về phần tranh luận, việc đối đáp trong phiên tòa được xem là quan trọng nhất và được diễn
ra theo quy định tại điều 218 BLTTHS, trong quá trình tranh luận, kiểm sát viên và người
bào chữa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác sẽ thực hiện đối đáp; cụ thể là kiểm
6
sát viên phải đưa ra được những lập luận của mình đối với từng ý kiến mà bị cáo, người
bào chữa, người tham gia tố tụng khác đưa ra về bản luận tội của viện kiểm sát cũng như đề
nghị của mình. Ngoài ra, người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác
mà không bị giới hạn thời gian.
Về quyền tham gia của người bào chữa tại phiên tòa tái thẩm và giám đốc thẩm, chỉ khi nào
xét thấy cần thiết tòa án mới phải triệu tập người bào chữa. Quy định này đã phần nào hạn
chế sự tham gia của người bào chữa trong việc xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong nhiều trường hợp, người bào chữa là
người giúp đỡ về mặt pháp lí đối với bị cáo chưa thành niên, người có nhược điểm về thể
chất thì sự có mặt của người bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm và giám đốc thẩm là hết sức
cần thiết và phải được coi là yêu cầu bắt buộc không nên phụ thuộc vào sự đánh giá của
mức độ cần thiết của tòa án.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng
Khi tham gia tố tụng dù ở giai đoạn nào, người bào chữa nếu phát hiện thấy quyết định
hoặc hành vi của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào có những điểm
bất hợp lí vi phạm pháp luật thì họ có quyền khiếu nại những quyết định hành vi tố tụng đó.
Người bào chữa là người hiểu biết pháp luật tố tụng hơn so với những người tham gia tố
tụng khác, với tư cách là đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, BCBC,
người bào chữa sẽ giám sát việc thực hiện pháp luật của cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng.
Qua đó, hạn chế được các hành vi vi phạm thủ tục tố tụng, vi phạm pháp luật; các hoạt
động tố tụng sẽ mang tính khách quan toàn diện hơn tránh được những oan sai xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC.
Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 điều 57
của BLTTHS
Theo điều 231 BLTTHS: “người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người
chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hay thể chất.” Quyền kháng cáo
này của người bào chữa hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào ý chí của người được
bào chữa, dù mục đích của việc kháng cáo cũng là vì bảo vệ lợi ích cho người được bào
chữa. Tuy nhiên, không phải người bào chữa nào cũng có quyền này, chỉ những người bào
7
chữa cho những bị cáo mà pháp luật yêu cầu cần phải có người bào chữa theo điểm b khoản
2 điều 57. Những đối tượng này đều là những người chưa có hiểu biết nhận thức rõ ràng về
quyền và nghĩa vụ của mình, cũng như không có đủ kiến thức pháp luật để xem xét bản án
của tòa án có phù hợp với tội danh cũng như mức độ vi phạm của mình hay không. Vì vậy,
người bào chữa với tư cách là người bảo vên quyền và lợi ích của người được bào chữa sẽ
thay cho người được bào chữa thực hiện quyền kháng cáo vì lợi ích của người được bào
chữa nếu xét thấy bản án của tòa án chưa đúng pháp luật, chưa đúng người đúng tội. Để
bảo vệ lợi ích của bị cáo, người bào chữa chỉ được kháng cáo theo hướng có lợi cho bị cáo,
việc kháng cáo gây bất lợi cho bị cáo là đi ngược lại với nhiệm vụ, chức năng của người
bào chữa.
2.2) Nghĩa vụ của người bào chữa (theo khoản 3 Điều 58 BLTTHS 2003)
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định
NBTG, BCBC vô tội, những tình tiết giảm nhẹ TNHS của BCBC.
Người bào chữa khi đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho BCBC, NBTG có trách nhiệm phải thực hiện chức năng của mình. Pháp luật trao
cho người bào chữa những quyền để họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
BCBC, NBTG và người bào chữa có trách nhiệm phải sử dụng những quyền này để làm
sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người được bào chữa. Quy định này làm hạn chế những
trường hợp người bào chữa được chỉ định không có trách nhiệm với công việc của mình,
bào chữa qua lao cho xong không bảo vệ được quyền và lợi ích của người được bào chữa.
Người bào chữa phải ý thức được nghĩa vụ của mình do luật định, chuyên tâm, tích cực tìm
hiểu vụ án, phát hiện kịp thời những tình tiết có lợi cho người được bào chữa, giúp cho
BCBC được chứng minh sự vô tội hoặc được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; có như vậy,
việc tham gia bào chữa của người bào chữa mới đạt được kết quả tích cực, mới thực sự có ý
nghĩa.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ
án, người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án.
Người bào chữa khi tham gia tố tụng được sử dụng các biện pháp được pháp luật cho phép
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Trong quá trình này, khi thu thập
các tài liệu đồ vật để làm chứng cứ gỡ tội để giúp cho người được bào chữa giảm nhẹ tội.
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, pháp luật còn quy định người bào chữa phải đưa ra tất
8
cả các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án mà người bào chữa thu thập được, kể cả những
tài liệu đó gây bất lợi cho bị cáo. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa
với cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập thành văn bản theo quy định tại điều 95
BLTTHS. Mục đích của nghĩa vụ này là để đảm bảo cho nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án trong TTHS, tránh trường hợp những người bào chữa sau khi thu thập hết những tài liệu
có liên quan đến vụ án nhưng chỉ giao cho cơ quan tiến hành tố tụng những tài liệu, đồ vật
có lợi cho người được bào chữa mà che giấu, tiêu hủy, không giao nộp những đồ vật, tài
liệu gây bất lợi cho người bào chữa, vì mục đích gỡ tội cho NBTG, BCBC mà bỏ qua sự
thật khách quan làm thay đổi sự thật vụ án.
Giúp NBTG, BCBC về mặt pháp lí nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Đây là nghĩa vụ đương nhiên của người bào chữa đối với NBTG, BCBC. Người bào chữa
được mời hoặc cử tham gia tố tụng với nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
NBTG, BCBC; vì vậy, người bào chữa có nghĩa vụ phải giúp đỡ người được bào chữa mọi
mặt về các vấn đề pháp lí như: giải thích cho NBTG, BCBC biết quyền và nghĩa vụ của
mình trong từng giai đoạn đối với cơ quan tiến hành tố tụng; hay thực hiện những yêu cầu,
nguyện vọng của người được bào chữa để họ cung cấp thêm những tình tiết liên quan đến
vụ án theo hướng có lợi cho họ. Nghĩa vụ này của người bào chữa rất có ý nghĩa đối với
NBTG, BCBC khi họ đang trong phạm vi nghi vấn, chịu sự kiểm soát của pháp luật, giúp
cho họ cảm thấy yên tâm hơn khi được người bào chữa tận tình giúp đỡ để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ.
Không được từ chối bào chữa cho NBTG, BCBC mà mình đã nhận bào chữa, nếu
không có lí do chính đáng.
Khi đã đảm nhận việc bào chữa theo lời mời của NBTG, BCBC hoặc người đại diện theo
pháp luật của họ hay được cử theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thì người bào
chữa không được từ chối bào chữa cho NBTG, BCBC nếu không có lí do chính đáng. Quy
định này đã ràng buộc trách nhiệm của người bào chữa, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NBTG, BCBC. Khi đã đồng ý đảm nhiệm vai trò người bào chữa, họ sẽ được
tiếp xúc với vụ án ngay từ bước đầu, nắm được các tình tiế của vụ án. Do đó, nếu họ từ
chối bào chữa muộn sẽ làm cho NBTG, BCBC không có người bào chữa hoặc người bào
chữa mới không thực hiện việc bào chữa có hiệu quả, gây tâm lí hoang mang lo sợ không
bảo vệ quyền và lợi ích của người được bào chữa. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan,
9
sự vô tư trong việc giải quyết vụ án hình sự, pháp luật cũng có quy định các trường hợp
người bào chữa không được bào chữa nữa nếu họ thuộc khoản 2 điều 56 BLTTHS: “
Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến
hành tố tụng trong vụ án đó. Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm
chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.”
Tôn trọng sự thật và pháp luật, không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người
khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
Đặc thù của việc bào chữa là tìm mọi luận cứ, luận điểm để bảo vệ được quyền và lợi ích
cho người được bào chữa giúp họ chứng minh được vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự. Để tránh sự mâu thuẫn với việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ pháp chế và tránh cho việc
người bào chữa lợi dụng kiến thức và quyền lợi của mình làm sai lệch sự thật của vụ án để
đạt được mục đích; người bào chữa càng luôn phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật,
thực hiện nghĩa vụ này một cách nghiêm túc. Người bào chữa chỉ có thể thực hiện chức
năng bào chữa của mình, tìm những tình tiết có lợi cho NBTG, BCBC dựa trên những tình
tiết, sự thật khách quan của vụ án. Hành vi mua chuộc, cưỡng ép để người khác khai báo
gian dối , cung cấp tài liệu sai sự thật đi ngược lại với đạo đức nghề nghiệp, đạo đức xã hội
vi phạm pháp luật tố tụng. Người bào chữa phải giúp cho NBTG, BCBC phải phối hợp tích
cực, khai báo thành khẩn để giúp nhanh chóng tìm ra sự thật khách quan cũng như tìm ra
các tình tiếp có lợi cho họ; người bào chữa không nên xúi giục người được bào chữa đưa ra
các tình tiết sai sự thật sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bào chữa cũng như
làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật.
Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa.
Đây vừa là quyền cũng vừa là nghĩa vụ của người bào chữa. Việc có mặt theo giấy triệu tập
của Tòa sẽ giúp cho người bào chữa luôn theo sát vụ án. Quy định về nghĩa vụ này của
người bào chữa cũng hợp với tinh thần cải cách tư pháp và những quy định khác của
BLTTHS 2003. Trong một số trường hợp, sự có mặt tại phiên Tòa của người bào chữa là
bắt buộc đối với các trường hợp được quy định tại khoản 2 điều 57 BLTTHS, trong những
trường hợp này nếu người bào chữa vằng mặt, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Nếu
người bào chữa không có mặt tại phiên tòa thì sẽ rất thiệt thòi cho người được bào chữa bởi
qua việc tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, có thể sẽ có thêm những tình tiết mới
có lợi cho người bào chữa. Nếu người bào chữa không đến dự phiên tòa mà chỉ gửi bản
10
thảo dựa trên những chứng cứ của hồ sơ vụ án thì hiệu quả của công việc bào chữa không
cao, việc tranh luận cũng như xét hỏi sẽ rơi vào thế bị động không thể bảo vệ tích cực được
quyền và lợi ích của người được bào chữa. Có thể nói, pháp luật quy định nghĩa vụ này của
người bào chữa nhằm ràng buộc họ có trách nhiệm hơn với công việc bào chữa của mình.
Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa;
không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá
nhân.
Việc quy định nghĩa vụ này đối với người bào chữa là phù hợp với nguyên tắc đạo đức
nghề nghiệp cần phải có của họ. Quy định này, nhằm mục đích bảo vệ những bí mật quốc
gia, những bí mật có thể làm ảnh hưởng đến lợi ích của các cơ quan, tổ chức và cá nhân,
tuy nhiên cho đến nay chưa có một văn bản hướng dẫn quy định như thế nào là bí mật điều
tra, vì vậy, việc thực hiện nghĩa vụ này của người bào chữa cũng bị hạn chế. Đối với những
trường hợp làm trái nghĩa vụ này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy
chứng nhận bào chữa, xử lí kỉ luật, xử lí hành chính, thậm chí là truy cứu trách nhiệm hình
sự; nếu gây thiệt hại thì phải bị bồi thường theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy, việc quy định về nghĩa vụ của người bào chữa trong BLTTHS là khá toàn diện
và hợp lí. Việc thực hiện tốt các nghĩa vụ này sẽ giúp cho người bào chữa tỏ rõ vai trò và
nâng cao địa vị pháp lí của mình trong tố tụng hình sự.
III) Thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật để đảm bảo địa vị pháp lí cho
người bào chữa, phương hướng hoàn thiện nâng cao địa vị pháp lí cho người bào
chữa.
3.1) Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật để đảm bảo địa vị pháp
lí cho người bào chữa và những nguyên nhân:
Ở nước ta hiện nay, tỉ lệ người bào chữa tham gia tố tụng còn rất khiêm tốn, người bào
chữa chủ yếu là luật sư, người đại diện hợp pháp rất ít và bào chữa viên nhân dân rất hiếm.
Trong đó, chỉ có 20% vụ án hình sự có sự tham gia của luật sư, thậm chí ở những tỉnh miền
núi, vùng sâu vùng xa thì số lượng người bào chữa còn rất ít không đủ để bào chữa trong
các vụ án bắt buộc phải có người bào chữa, làm cho việc giải quyết vụ án còn chậm chạp
gặp nhiều khó khăn do phải hoãn xét xử kéo dài. Nguyên nhân dẫn đến việc số lượng người
11
bào chữa tham gia vụ án hình sự ít là do số lượng luật sư còn rất ít, tỉ lệ so với dân số rất
thấp (trung bình chỉ có 1 luật sư/ 16.000 dân), sự phân bố, phát triển đội ngũ luật sư ở các
địa phương cũng không đồng đều, nơi có quá đông luật sư trong khi đó có nơi lại không có
luật sư nào. Ngoài ra, một nguyên nhân nữa khiến cho số lượng người bào chữa tham gia tố
tụng thấp là do chính chất lượng người bào chữa còn chưa cao, chưa tạo được tâm lí yên
tâm trong những người được bào chữa; theo thông kê hiện nay có đến gần 1/2 số lượng luật
sư chưa qua đào tạo bài bản về kĩ năng hành nghề. Khiến cho chất lượng của việc bào chữa
chưa cao, chưa tạo được lòng tin của mọi người vào việc có người bào chữa trong quá trình
tố tụng.
Nhìn từ góc độ lập quy, TTHS Việt Nam phân chia các chủ thể tố tụng thành hai loại:
chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng. Trong đó, người bào chữa được xếp
vào loại chủ thể tham gia tố tụng, được xếp chung với NBTG, BCBC, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự…Do địa vị pháp lí của người bào chữa chỉ là người tham gia tố tụng, phạm
vi hoạt động thuộc lĩnh vực “bổ trợ tư pháp” nên thực chất người bào chữa chỉ là người trợ
giúp pháp lí mang tính bị động, không có cơ sở cho việc hành nghề một cách độc lập bình
đẳng. Xét về bản chất, chức năng bào chữa tồn tại độc lập và đối trọng với chức năng buộc
tội, nhưng nếu chỉ coi người bào chữa thuộc khuôn khổ các hoạt động bổ trợ tư pháp đã vô
hình chung giảm nhẹ ý nghĩa cũng như giá trị xã hội mà những người bào chữa mang lại
cho sự phát triển của dân chủ nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Bên cạnh đó,
quyền năng của người bào chữa chỉ là thứ quyền năng phái sinh, phụ thuộc vào sự chấp
thuận hay không của các cơ quan những người tiến hành tố tụng, thiếu cơ chế bảo đảm thực
hiện quyền bào chữa của BCBC, NBTG. Trên lí thuyết, NBTG có quyền mời người bào
chữa để bảo vệ lợi ích cho mình nhưng trên thực tế thì hầu như không được thực hiện do
các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cho phép người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng
nếu có giấy chứng nhận bào chữa. Tuy nhiên để có thể được cấp giấy chứng nhận người
bào chữa lại rất khó khăn và mất nhiều thời gian, cụ thể như sau: Để đảm bảo quyền bào
chữa thì dù người bào chữa được mời hay được chỉ định cũng phải có sự đồng ý của
NBTG, bị can; chỉ khi có sự đồng ý của NBTG, bị can thì cơ quan điều tra mới cấp giấy
chứng nhận bào chữa. Nhưng trong giai đoạn điều tra, bị can, NBTG thường không bị tạm
giam, tạm giữ bị hạn chế tự do nên việc lựa chọn người bào chữa cho mình là rất khó khăn,
nếu người bào chữa muốn vào gặp NBTG, bị can để lấy chữ kí thể hiện sự đồng ý của họ
thì lại phải có giấy chứng nhận người bào chữa mới được gặp NBTG, bị can. Điều này đã
tạo ra một vòng luẩn quẩn, làm hạn chế quyền bào chữa của NBTG, bị can
12
Thực tiễn về việc thực hiện những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa, thực tế đáng báo động là hầu hết những người bào chữa đều không được một
cách tối đa các quyền mà theo quy định của pháp luật họ phải hưởng. Điều này gây khó
khăn cho người bào chữa thực hiện công việc của mình, điều đó cũng làm cho việc người
bào chữa thực hiện không đúng các nghĩa vụ của mình.
-Về quyền được đề nghị báo trước thời gian và địa điểm hỏi cung để có mặt thực
hiện quyền có mặt khi lấy lời khai: Trên thực tế, cơ quan điều tra dù đã được người bào
chữa đề nghị báo trước thời gian địa điểm hỏi cung nhưng họ cũng không thông báo hoặc
lách luật bằng cách thông báo sát giờ hỏi cung làm cho người bào chữa không thể tham gia
có mặt khi hỏi cung người được bào chữa. Thực trạng này xuất phát từ tâm lí của những
người làm công tác điều tra, không muốn người bào chữa tham gia vào giai đoạn này vì sợ
người bào chữa sẽ làm ảnh hưởng đến công tác điều tra cũng như lấn át việc điều tra của cơ
quan điều tra, ngoài ra việc tham gia, có mặt vào các quá trình tố tụng của người bào chữa
còn gây ra tâm lí e ngại sợ bị phát hiện sai sót trong thủ tục trình tự tố tụng của điều tra
viên.
-Khi tham gia xét hỏi và tranh luận tại tòa, đây là bức xúc tồn tại nhiều năm của
những luật sư bào chữa nói riêng, những người bào chữa nói chung bởi việc thực hiện
quyền này chỉ mang tính hình thức. Tại phiên tòa, để rút ngắn thời gian xét xử, nhiều phần
hỏi của người bào chữa bị chủ tọa cắt ngang với lí do “nội dung này luật sư đã hỏi rồi”,
phần tranh luận của người bào chữa cũng bị giới hạn thời gian. Ngoài ra, trong việc tranh
luận, hầu như kiểm sát viên không lập luận đối đáp lại những ý kiến của luật sư đưa ra.
Điều này khiến cho việc tranh luận tại phiên tòa chưa đạt được hiệu quả, chưa thực hiện
bản chát tranh tụng cũng như chưa đảm bảo được sự công bằng khách quan của phiên tòa.
-Về việc thực hiện nghĩa vụ của người bào, nhiều người đã lợi dụng sự hiểu biết
pháp luật của mình để lách luật thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật. Cụ thể có
trường hợp sau: “ ngày 20/9/2008, cơ quan điều tra tỉnh Quảng Ninh đã bắt quả tang ông
Hà Công Tuấn- nguyên thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và ông Vũ Ngọc Sơnnguyên cán bộ công an tỉnh Quảng Ninh đang nhận 200 triệu đồng của gia đình bị can Lí
Chính Trung (trong vụ án buôn bán tân dược do công án Quảng Ninh khởi tố điều tra) để
chạy án. Trước đó, gia đình bị can Trung đã thuê công ty Luật Chính Tâm để bào chữa cho
bị can, giám đốc công ty là ông Nguyễn Ngọc Chính đã nhận lo chạy án và chỉ đạo Luật sư
Trần Thị Ngọc Tú yêu cầu gia đình bị can chuẩn bị tiền để giải quyết công việc.” Qua đó có
13
thể thấy, khi các quyền của người bào chữa không được thực hiện một cách nghiêm túc,
gây khó khăn cản trở cho việc bào chữa; để thực hiện tốt được công việc của mình, người
bào chữa sẽ phải nghĩ ra cách lách luật, lợi dụng pháp luật để thực hiện công việc của mình.
Vì vậy, đảm bảo quyền cho người bào chữa cũng chính là để đảm bảo cho người bào chữa
sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình.
3.2) Giải pháp hoàn thiện pháp luật để tăng cường địa vị pháp lí của người bào
chữa:
Sẽ là không quá nếu nói rằng, những điều luật chết BLTTHS hiện hành về quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa sẽ được làm sống lại với những sửa đổi, bổ sung cụ thể hơn
đó là: thêm nội dung ghi nhận tính pháp lí từ khi người bào chữa tham gia tố tụng với đầy
đủ các thủ tục, giấy tờ theo quy định tại điều 27 Luật Luật sư thì việc hỏi cung bị can chỉ
được tiến hành khi có người bào chữa tham dự (đối với những vụ án có người bào chữa);
những hoạt động tố tụng khác do cơ quan tố tụng tiến hành không được từ chối sự tham gia
của người bào chữa có yêu cầu được tham gia. Một trong những thiếu sót của BLTTHS là
không quy định rõ cụ thể trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc tạo
điều kiện cho người bào chữa thực hiện những quyền và nghĩa vụ pháp luật cho phép. Sự
thiếu đảm bảo đó sẽ làm cho một số quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người
bào chữa bỗng nhiên chỉ tồn tại trên giấy tờ, thực tiễn có thể thi hành không lại là chuyện
khác. Cần quy định rõ ràng thêm, nếu người tiến hành tố tụng không tạo điều kiện hoặc cố
tình cản trở, ngăn cản không cho người bào chữa thực hiện quyền nghĩa vụ của mình thì
nên có chế tài xử lí, ràng buộc trách nhiệm đối với họ. Tóm lại, cần bổ sung thêm cá quy
định để tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng và tiếp
cận với quá trình giải quyết vụ án theo hướng đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận
bào chữa và thủ tục tham gia bào chữa, ngoài ra còn phải quy định thêm trách nhiệm của cơ
quan và người tiến hành tố tụng phải tôn trọng và tạo điều kiện để người bào chữa thực
hiện tốt công việc của mình.
Đối với những người bào chữa, bên cạnh việc tiếp tục ghi nhận các quyền của người
bào chữa theo quy định của pháp luật hiện hành, cần sổ sung thêm các cơ chế để bảo đảm
cho người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định, bổ sung thêm cá quyền của người
bào chữa để họ thực hiện tốt chức năng tố tụng của mình. Cần quy định trách nhiệm người
bào chữa phải có mặt tại phiên tòa, tôn trọng sự thật và các lợi ích pháp luật. Người bào
chữa mà có hành vi trái pháp luật gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì
14
tuy theo mức độ tính chất mà phải bị xử lí kỉ luật, xử lí hành chính hoặc phải truy cứu trách
nhiệm hình sự; gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, cũng cần chú ý đến việc giáo dục ý
thức pháp luật của người dân. Đối với người dân, khi tham gia tố tụng với tư cách là
NBTG, BCBC thường không muốn nhờ người bào chữa vì họ thấy tốn kém và không có
hiệu quả, họ chưa thấy được lợi ích to lớn mà người bào chữa đem lại cho họ trong quá
trình tố tụng. Vì vậy, chúng ta cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao kiến thức cho
người dân để họ thấy được các quyền của mình khi tham gia tố tụng hình sự, đặc biệt là
quyền được bào chữa thông qua việc tự bào chữa hoặc nhờ người tự bào chữa. Đối với
những người tiến hành tố tụng, bản thân họ đã nắm rõ các quy định của pháp luật nên việc
đầu tiên cần giải quyết là xóa bỏ tư tưởng xem người bào chữa là những người cản trở quá
trình điều tra, xét xử; cần đặt người bào chữa khi tham gia tố tụng có vai trò ngang hàng
với bên buộc tội. Còn về phía chính những người bào chữa, cần phải tích cực hơn trong quá
trình bào chữa, phải thay đổi nhận thức một bộ phận những người thực hiện việc bào chữa
theo kiểu “làm cho có”, không thực sự chuyên tâm, hết mình vì công việc, vì quyền và lợi
ích của người được bào chữa, chính những người bào chữa phải thấy được tầm quan trọng
của mình trong việc thực hiện quyền bào chữa của NBTG, BCBC.
KẾT LUẬN
Người bào chữa càng ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình tố tụng đối với
cả NBTG, BCBC cũng như đối với cả những người tiến hành tố tụng. Việc nâng cao vai
trò, hiệu quả hoạt động của người bào chữa càng góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
của nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của BCBC. Vì vậy, chúng ta cần phải hoàn thiện
các quy định của pháp luật hơn để đảm bảo, phát huy vai trò của người bào chữa, nâng cao
địa vị pháp lí của người bào chữa, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1, Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam
Trường Đại học Luật Hà Nội
NXB Tư pháp
2, Địa vị của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Văn Hoàng Anh
Khóa luận tốt nghiệp 2010
3, Địa vị pháp lí của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề
lí luận và thực tiễn
Đỗ Đình Nghĩa
Luận văn thạc sĩ, 2004
4, Bộ Luật tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003
5, phapluat.vn
6, hcmulaw.edu.vn
7, liendoanluatsu.org.vn
16
MỤC LỤC:
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I, Một số vấn đề chung về người bào chữa
1.1, Khái niệm người bào chữa
1.2, Thời điểm tham gia tố tụng
1.3, Vai trò của người bào chữa
II, Địa vị pháp lí của người bào chữa
2.1, Quyền của người bào chữa
2.2, Nghĩa vụ của người bào chữa
III, Thực tiến thực hiện những quy định của pháp luật và phương hướng
hoàn thiện nâng cao địa vị pháp lí của người bào chữa
3.1, Thực trạng và nguyên nhân
3.2, Phương hướng hoàn thiện
KẾT LUẬN
Bảng viết tắt:
NBTG
BCBC
BLTTHS
Người bị tạm giữ
Bị can, bị cáo
Bộ Luật tố tụng hình sự 2003
17
Trang
1
1
1
1
2
2
3
3
8
11
11
14
15